ĐÁNH GIÁ CÂN NẶNG VÀ MỨC ĐỘ NGUY CƠ CỦA THỪA CÂN
BS. ĐÀO THỊ YẾN PHI
TT Dinh dưỡng TPHCM
Vóc dáng luôn luôn là vấn
đề được phụ nữ quan tâm hàng đầu trong một chuỗi những mối quan tâm nhằm giữ
gìn sắc đẹp và tuổi xuân. Sự phát triển ồ ạt của nền kinh tế đã kéo theo sự
đi lên của ngành thời trang và qua đó, việc "giữ eo" cho hợp với thị hiếu
chung của xã hội hiện nay đang ngày càng phổ biến, không chỉ ở những phụ nữ
trên 30 mà ngay cả những cô gái còn rất trẻ. Bên cạnh đó, ở những người lớn
tuổi hoặc có các bệnh lý mãn tính liên quan đến dinh dưỡng, việc giữ gìn cân
nặng hợp lý là một trong những mục tiêu để giúp kéo dài tuổi thọ, giảm nguy
cơ bệnh tật và mang lại chất lượng cao cho cuộc sống. Nhưng trong thực tế,
vóc dáng như thế nào là đẹp, đồng thời vẫn đảm bảo được sức khoẻ và giảm các
nguy cơ bệnh tật, vẫn còn là mối băn khoăn của rất nhiều người.
Nếu chỉ nhìn vào hình
dáng bên ngoài, rất khó để đánh giá một người là "mập" hay "ốm" vì phụ thuộc
rất nhiều vào các yếu tố chủ quan của người đánh giá. Trong các trường hợp
cần đến sự thống nhất trong cách đánh giá cân nặng như trong các cuộc thi
người mẫu, hoa hậu, các cuộc điều tra về nhân trắc, tình trạng dinh dưỡng
của một quần thể. các giám khảo và những người làm công tác khoa học phải sử
dụng các chỉ số đánh giá tình trạng dinh dưỡng. Có nhiều chỉ số khác nhau để
đánh giá tình trạng dinh dưỡng, và các loại chỉ số khác nhau cũng có thể đưa
ra các chỉ tiêu khác nhau về cân nặng với cùng một chiều cao, tùy thuộc vào
mục đích của việc đánh giá. Ví dụ các chỉ tiêu cho các cuộc thi hoa hậu,
người mẫu. thường đưa ra cân nặng thấp hơn so với cân nặng đòi hỏi của các
nhà chuyên môn về mặt sức khoẻ.
Các nhà khoa học thường
dùng chỉ số BMI (Body Mass Index) để đánh giá cân nặng hợp lý theo chiều cao
:
Cân nặng ( tính bằng kg)
BMI =
---------------------------------
Chiều cao 2 (tính bằng m)
Ở người trưởng thành BMI
trung bình nằm trong khoảng 18,5 đến 25. Dưới 18,5 là suy dinh dưỡng, 25 -
30 là thừa cân, trên 30 là béo phì.
Tuy nhiên chỉ số BMI
không nói lên được khu vực và tỷ lệ phân bốù các thành phần dinh dưỡng trong
cơ thể vì vậy không đánh giá được một cách chi tiết mức độ nguy cơ có thể có
ở một người thừa cân, đồng thời cũng không áp dụng được trong một số trương
hợp như vận động viên, trẻ em dưới 18 tuổi. Các chuyên gia dinh dưỡng thường
phải áp dụng thêm một số các chỉ số khác để đánh giá mức độ nguy cơ ở những
người thừa cân, và ở cả những người có cân nặng trong giới hạn bình thường.
Các chỉ số thường được sử
dụng hơn cả là:
* Tỷ lệ số đo vòng eo
và vòng mông
(WHR - Waist Hip Ratio)
Tỷ lệ này thường phải
dưới 0,85 ở phụ nữ và dưới 0,95 ở nam giới. Chỉ số này càng lớn nguy cơ bệnh
tật càng cao đặc biệt là với các bệnh như cao huyết áp, tiểu đường, bệnh
mạch vành.
* Tỷ lệ mỡ trong cơ
thể
Đây cũng là chỉ số quan
trọng để đánh giá nguy cơ bệnh tật, bên cạnh đó còn nêu lên được sự cân đối
giữa chế độ ăn và chế độ hoạt động. Tỷ lệ mỡ trung bình là 18 - 22% ở nam và
20 - 27% ở nữ. Khi tỷ lệ mỡ cơ thể vượt trên 25% ở nam hay 30% ở nữ, nguy cơ
bệnh tật sẽ tăng lên, ngay cả với những người có BMI bình thường. Những
người có chiều cao và cân nặng hoàn toàn giống nhau có thể có tỷ lệ mỡ cơ
thể khác nhau, vì chế độ ăn và vận động khác nhau. Tỷ lệ mỡ sẽ thấp hơn ở
những người vận động nhiều hơn (đi lại, hoạt động tay chân, tập thể thao. )
và có một chế độ ăn cân đối, hợp lý so với nhu cầu của cơ thể. Trong điều
trị giảm cân, việc giảm cân luôn luôn phải đi kèm với việc giảm tỷ lệ mỡ,
thậm chí giảm cân có thể xem là thành công nếu tỷ lệ mỡ giảm đi nhiều trong
khi cân nặng giảm rất ít.
Có nhiều cách để tính tỷ
lệ mỡ của cơ thể: Đo bề dày lớp mỡ dưới da bằng các loại thước chuyên dụng,
hoặc dùng các loại cân chuyên dụng. Phương pháp thứ hai thường được áp dụng
hơn vì đơn giản hơn, nhanh hơn và có độ chính xác cao. Ở Việt nam hiện nay,
loại cân này đã được đưa vào sử dụng tại một số cơ sở chuyên khoa về dinh
dưỡng.