Dược liệu Việt Nam dùng trong điều trị bệnh tim mạch
Tác giả : GS. TS. NGUYỄN KHANG
Bệnh tim mạch rất phổ biến và đa dạng. Theo thống kê ở các nước trên thế giới: Chỉ tính riêng ở các nước châu Âu và Bắc Mỹ, mỗi năm có đến 1.500.000 ca cấp cứu về tim mạch; Riêng ở Pháp mỗi năm có 250.000 ca tử vong vì nhồi máu cơ tim; Trên toàn thế giới có 1/3 số người tử vong do căn bệnh trên.
CÁC LOẠI THUỐC CHÍNH ÐIỀU TRỊ BỆNH TIM MẠCH
Bệnh tim mạch khá đa dạng nên tài liệu thống kê ở Mỹ (Martindale 2002) đã trình bày đến 10 loại thuốc chính theo tác dụng lâm sàng:
1. Thuốc trợ tim có tác dụng làm tăng lực co bóp của cơ tim (Dùng trong trường hợp suy tim).
2. Thuốc chữa loạn nhịp tim.
3. Thuốc chữa cơn đau thắt ngực.
4. Thuốc chữa tăng huyết áp.
5. Thuốc chữa bệnh giảm huyết áp.
6. Thuốc chống đông máu và protamin (Ðề phòng chống chứng huyết khối ở tĩnh mạch)
7. Thuốc chống kết tập tiểu cầu.
8. Thuốc làm tiêu fibrin, làm vỡ cục huyết khối.
9. Thuốc chống tiêu fibrin và cầm máu.
10. Thuốc điều trị gây xơ cứng tại chỗ ở tĩnh mạch.
11. Thuốc điều trị bệnh tăng lipid huyết.
Ngoài ra còn có hàng chục loại tân dược chuyên trị từng loại bệnh trên.
DƯỢC LIỆU VIỆT NAM DÙNG TRONG ÐIỀU TRỊ BỆNH TIM MẠCH
Bài viết này có mục đích giới thiệu với bạn đọc một số dược liệu Việt Nam đã được nghiên cứu và sử dụng để điều trị các loại bệnh sau đây:
- Các cây thuốc chữa cơn đau thắt ngực.
- Các cây thuốc chữa bệnh cao huyết áp.
- Các loại thuốc hoạt huyết dưỡng não.
Những cây thuốc chữa cơn đau thắt ngực
Ðan sâm (Radix Salviae Milliurrhizae): Là rễ phơi hay sấy khô của cây đan sâm. Ðan là đỏ, sâm là sâm, vì rễ cây này giống sâm và có màu đỏ.
Ðan sâm là loại cỏ sống lâu năm, cao 30-80cm. Cây di thực vào Việt Nam, đã gây giống ở Tam Ðảo. Thu hoạch rễ vào mùa đông. Ðan sâm có tác dụng hoạt huyết, bổ huyết, đặc hiệu trên tim và mạch vành, chữa co thắt động mạch vành, di chứng tai biến mạch máu não.
Tam thất (Radix Pseudo Ginseng) là rễ phơi khô của cây tam thất.
Tam thất là một loại cỏ nhỏ, sống lâu năm, được trồng ở Hà Giang (Ðồng Văn), Lào Kai (Mường Khương), Cao Bằng..., mọc ở vùng núi cao 1.200-1.500m.
Thành phần hóa học đã được nghiên cứu là 2 chất saponin (arasaponin A và B)
Nhân dân ta coi tam thất là một vị thuốc bổ, dùng thay nhân sâm.
Ðối với tim mạch, tam thất có tác dụng tiêu huyết ứ, bổ huyết, chữa các chứng đau do huyết ứ trệ (như co thắt động mạch vành, rối loạn tuần hoàn ngoại biên v.v.).
Những cây thuốc chữa bệnh cao huyết áp
Cây dừa cạn (Vinca rosea), họ Trúc đào, là loại cây nhỏ cao độ 0,4-0,8m, mọc hoang và được trồng ở Việt Nam hoặc nhiều nước khác (Ấn Ðộ, Indonesia, châu Phi, châu Âu và châu Mỹ).
Ở Việt Nam, người ta thu hoạch cây, lá, rễ để làm thuốc.
Từ dừa cạn, người ta đã chiết ra nhiều alkaloid, nổi tiếng nhất là Vincaleucoblastin (hay Vinblastin) để chữa bệnh Hodgkin và leurocristin (hay vincristin) chữa bệnh bạch huyết và các bệnh về máu.
Ở Việt Nam, nhân dân ta dùng dừa cạn dưới dạng thuốc sắc để chữa bệnh cao huyết áp, tiểu đường và làm thuốc lợi tiểu.
Cây hoa hòe (sophora japonica L., họ cánh bướm), mọc hoang và được trồng khắp nơi.
Trong hoa hòe (và cả ở quả) cũng có chất Rutin (một loại vitamin P) dùng cho bệnh nhân cao huyết áp để tăng cường sức chịu đựng của mao mạch.
Cây cúc hoa có 2 loại:
- Cây cúc hoa trắng (Chrysanthemum sinensis).
- Cây cúc hoa vàng (Chrysanthemum indicum).
Cây cúc hoa họ cúc được trồng nhiều ở nước ta để làm thuốc hay ướp chè (Hưng Yên, Hà Tây, ngoại thành Hà Nội). Nhân dân ta cũng thường dùng cúc hoa để chữa bệnh cao huyết áp, sốt, nhức đầu v.v.
Cây thuốc hoạt huyết dưỡng não
Bạch quả (Ginkgo bibola Lin.) thuộc họ Bạch quả, là loại cây to, cao tới 20-30m, có ở Trung Quốc, Nhật Bản. Ở Việt Nam, chỉ thấy trồng rải rác làm cảnh tại một số nơi.
Các bộ phận được sử dụng làm thuốc là: lá, quả và nhân.
Y học cổ truyền đã ghi nhận: Bạch quả ăn chín thời ôn mà ích khí, ích phổi, tiêu đờm, trị ho hen v.v.
Còn y học hiện đại dùng dưới dạng cao để chữa các chứng bệnh: Kém trí nhớ, cáu gắt ở người cao tuổi, chứng ngủ gà do thuốc tác dụng trên vi tuần hoàn.
Chú thích ảnh: Cây dừa cạn.