NGUYỄN VĂN TUẤN

Nhìn lại khoa học Việt Nam năm 2008 qua công bố quốc tế

Nguyễn Văn Tuấn

Đứng trên bình diện quần thể, số lượng và chất lượng bài báo công bố trên các tập san khoa học quốc tế được xem là một trong những chỉ tiêu quan trọng để đánh giá năng suất khoa học của một quốc gia, một trường đại học, hay một nhà khoa học.  Thật vậy, ở các nước phát triển và đang phát triển, người ta có hẳn vài nhóm chuyên theo dõi và so sánh các công trình nghiên cứu để dựa vào đó mà điều chỉnh chính sách cung cấp ngân sách cho nghiên cứu khoa học.  Các trường đại học xem con số bài báo khoa học và chỉ số trích dẫn là một đo lường về uy tín khoa bảng của trường, một chỉ tiêu để thu hút tài trợ cho nghiên cứu.  Đối với một cá nhân nhà khoa học, có thể nói rằng con số công trình nghiên cứu được công bố là chỉ tiêu chính để được đề bạt các chức vụ khoa bảng. 

Trong thời gian gần đây, vấn đề hiệu suất nghiên cứu khoa học ở nước ta đã được đặt ra nhiều lần.  Một số phân tích của người viết bài này cho thấy con số bài báo khoa học của nước ta trong vòng 10 năm qua vẫn còn rất khiêm tốn so với các nước trong vùng.  Khi tính đến các chỉ số về phẩm chất nghiên cứu khoa học, các công trình khoa học xuất phát từ nước ta cũng chưa thể so sánh với các nước trong vùng, chứ chưa nói đến các nước phát triển.  Mới đây nhất, có phân tích cho thấy con số bài báo khoa học ở nước ta không bằng con số bài báo khoa học của một trường đại học Thái Lan! 

Mỗi năm, Nhà nước chi ra khoảng 400 triệu USD cho nghiên cứu khoa học.  Do đó, câu hỏi đặt ra là trong năm vừa qua, năng suất khoa học của nước ta ra sao, có xứng đáng với đồng tiền của người dân đóng thuế bỏ ra cho nghiên cứu khoa học hay không?  Để trả lời câu hỏi này, tôi đã làm một phân tích đơn giản về con số bài báo khoa học xuất phát từ Việt Nam trong năm qua và so sánh với một số nước trong khối ASEAN để cho thấy vị thế của nền khoa học nước ta.

Năng suất khoa học 2004-2008

Trong năm 2008 (tính đến tháng 10), các nhà khoa học Việt Nam công bố được 910 bài báo khoa học trên 512 tập san khoa học quốc tế.  So với các nước trong vùng, con số bài báo khoa học nước ta đứng hàng thứ 4 (sau Singapore, Thái Lan, và Mã Lai), và vị trí này không thay đổi trong 5 năm qua.  Trong cùng năm 2008, Singapore công bố được 5553 bài báo khoa học (cao hơn nước ta gấp 6 lần); Thái Lan công bố được 3310 bài (hơn Việt Nam 3,6 lần), và Mã Lai công bố 2194 bài (hơn Việt Nam khoảng 2,5 lần). 

Tuy nhiên, so sánh tỉ lệ tăng trưởng trong thời gian 2004 đến 2008, năng suất khoa học Việt Nam có chiều hướng tích cực.  Con số bài báo khoa học của Việt Nam trong năm 2008 phản ảnh một tỉ lệ tăng trường gần 2 lần so với năm 2004.  Trong cùng thời gian này, Thái Lan tăng 78%, Mã Lai tăng 95%, và Singapore tăng 21%.  Các nước như Philippines và Insonesia có tỉ lệ tăng trường khoảng 30 đến 40% (Bảng 1). 

Bàng 1.  Số lượng bài báo khoa học trên các tập san khoa học quốc tế trong thời gian 2004-2008

Nước

Số lượng bài báo khoa học

Tỉ lệ tăng trưởng trong năm 2008 so với năm

2004

2005

2006

2007

2008

2004

2007

Việt Nam

478

669

681

792

910

1,90

1,15

Thái Lan

1860

2333

2733

3112

3310

1,78

1,06

Malaysia

1126

1474

1618

1842

2194

1,95

1,19

Indonesia

419

532

542

575

544

1,30

0,95

Philippines

383

464

443

436

531

1,39

1,22

Singapore

4594

5514

5640

5726

5553

1,21

0,97

Lĩnh vực nghiên cứu

Trái lại với nhiều người lầm tưởng, lĩnh vực nghiên cứu “mạnh” của Việt Nam không phải là toán hay vật lí, mà là y học.  Thật vậy, Trong năm 2008, con số bài báo liên quan đến y khoa (như tế công cộng, y học nhiệt đới và bệnh truyền nhiễm) là 156, chiếm 17% tổng số bài báo của cả nước.  Trong khi đó, ngành vật lí lí thuyết và vật lí ứng dụng “sản xuất” được 141 bài (chiếm 15% tổng số bài báo khoa học Việt Nam), và toán 120 bài (13%).  Như vậy, chỉ ba ngành y học, vật lí và toán đã chiếm khoảng 45% các công trình nghiên cứu khoa học từ Việt Nam (xem Bảng 2). 

Trong khi đó, các lĩnh vực nghiên cứu “mạnh” của Thái Lan tập trung vào các ngành khoa học ứng dụng và y sinh học.  Chỉ riêng ngành dược, với 189 bài báo khoa học, chiếm gần 6% tổng số bài báo quốc tế từ Thái Lan.  Các lĩnh vực “top 10” hàng đầu của Thái Lan là: công nghệ thực phẩm (5,1%), công nghệ sinh học (~5%), sinh học phân tử (~5%), khoa học vật liệu (4%), vi sinh học (~4%), khoa học môi trường (~4%), bệnh truyền nhiễm (~4%), polymer (~4%), và hóa học (~3,7%).

Bảng 2. Tốp 10 ngành khoa học của Việt Nam và Thái Lan

Việt Nam (n=910) Thái Lan (n = 3310)
Vật lí (76) Dược học (189)
Y tế công cộng (69) Công nghệ thực phẩm (168)
Toán thuần túy (66) Công nghệ sinh học và vi sinh học (161)
Toán ứng dụng (54) Sinh học phân tử và sinh hóa (150)
Y học nhiệt đới (54) Khoa học vật liệu (137)
Vật lí chất rắn (35) Vi sinh học (130)
Khoa học môi trường (34) Khoa học môi trường (127)
Bệnh truyền nhiễm (33) Bệnh truyền nhiễm (127)
Vật lí ứng dụng (30) Polymer (126)
Khoa học vật liệu (24) Kĩ thuật hóa học (121)
Chú thích: số trong ngoặc là số công trình khoa học công bố trên các tập san khoa học quốc tế trong năm 2008.

Thật ra, ngay cả các lĩnh vực “top 10” của Việt Nam (không phải top 10 của Thái Lan), con số công trình khoa học cũng rất thấp so với Thái Lan.  Chẳng hạn như số bài báo về y học (y tế công cộng, y học nhiệt đới, bệnh truyền nhiễm) của Thái Lan vẫn cao hơn Việt Nam gần 2 lần.  Ngay cả ngành vật lí (lí thuyết, ứng dụng, và chất rắn) con số bài báo của Thái Lan vẫn cao hơn Việt Nam.  Chỉ có số lượng bài báo về toán học là Thái Lan thấp hơn Việt Nam khoảng 40%.

Nội lực

Trong tổng số 910 công trình khoa học Việt Nam trên các tập san quốc tế, 65% bài là do tác giả người Việt Nam đứng tên đầu, và phần còn lại là do tác giả ngoại quốc đứng tên đầu.  Những tác giả đứng tên đầu có thể là nghiên cứu sinh nhưng cũng có thể là người chủ trì dự án nghiên cứu; do đó, một cách đánh giá nội lực chính xác hơn là dựa vào tên tác giả chịu trách nhiệm chính (responsible author).  Chỉ có 209 bài báo khoa học (khoảng 23%) do tác giả người Việt chịu trách nhiệm chính.   

Tuy nhiên, phân tích cho từng ngành thì thấy ngành y sinh học có tỉ lệ nội lực thấp nhất: chỉ khoảng 5% bài báo y sinh học là do tác giả Việt Nam chịu trách nhiệm chính, phần còn lại là do người nước ngoài chủ trì. Nói cách khác, phần lớn (có thể 95%) công trình nghiên cứu y sinh học ở Việt Nam là do các nhà khoa học Việt Nam tham gia vào những dự án nước ngoài, hoặc do hợp tác hay cộng tác với đồng nghiệp nước ngoài.

Chất lượng

Chất lượng của một bài báo nghiên cứu khoa học thường được đánh giá qua chỉ số ảnh hưởng (IF hay impact factor) của tập san.  Tập san có uy tín cao thường có chỉ số IF cao, vì họ chỉ công bố những công trình khoa học có chất lượng cao. 

Phân tích về chất lượng cũng cho thấy đại đa số các bài báo khoa học được công bố trên những tập san có chỉ số IF rất thấp.  Chẳng hạn như trong ngành y sinh học (một lĩnh vực tương đối mạnh của nước ta), phần lớn các bài báo đều công bố trên tập san có chỉ số IF dưới 3 như American Journal of Tropical Medicine and Hygiene (IF= 2,5), Journal of Clinical Microbiology (IF=3,5), Tropical Medicine & International Health (IF=2,6), International Journal of Tubeculosis and Lung Disease (IF=2), Chemical and Pharmaceutical Bulletin (IF=1.3).  Ngay cả các ngành như toán và vật lí, phần lớn bài báo từ Việt Nam cũng chỉ công bố trên các tập san có chỉ số IF thấp (dưới 1). 

Tính trung bình, khoảng 42% các bài báo từ Việt Nam được trích dẫn trên 5 lần, tức là cao hơn số trung bình trên thế giới.  Các ngành khoa học Việt Nam có trích dẫn cao thường là các ngành khoa học thực nghiệm như y sinh học, hóa học, nông nghiệp, môi trường và công nghệ sinh học.  Riêng hai ngành toán và kĩ thuật số lần trích dẫn không cao và có thể chẳng có ảnh hưởng gì lớn trên thế giới.  Điều đáng quan tâm là 41% các bài báo về kĩ thuật từ Việt Nam chưa bao giờ được trích dẫn sau 5 năm công bố. 

Một cách khác để gián tiếp đánh giá chất lượng là xem xét tỉ lệ các bài báo chưa bao giờ được trích dẫn.  Có khoảng 20% các bài báo khoa học từ Việt Nam chưa bao giờ được trích dẫn sau 5 năm công bố.  Đây cũng là tình trạng chung ở các nước trong vùng, với tỉ lệ chưa bao giờ trích dẫn (trong vòng 5 năm) được ghi nhận tại Thái Lan (15%), Mã Lai (19%), Nam Dương (19%), Phi Luật Tân (13%), và Singapore (17%). Như vậy, tính trung bình chất lượng nghiên cứu khoa học nước ta cũng thấp hơn so với các nước trong vùng.

Vài nhận xét

Qua các phân tích trên đây, chúng ta thấy rõ ràng rằng năng suất khoa học ở nước ta quá thấp hơn so với các nước trong vùng.  Một trong những lí do cho tình trạng khoa học Việt Nam còn quá khiêm tốn trên trường quốc tế và trong vùng là các đại học và trung tâm nghiên cứu khoa học nước ta chưa có những qui định về chuẩn mực nghiên cứu khoa học phù hợp với các chuẩn mực quốc tế.  Hệ thống đề bạt giáo sư ở nước ta vẫn dựa vào các tiêu chuẩn “nội địa”, mà không mấy quan tâm đúng mức đến mức độ đóng góp vào khoa học có công trình đăng trên các tập san khoa học quốc tế.  Đại đa số các tiến sĩ được đào tạo từ trong nước cũng không hay chưa bao giờ có các bài báo trên các tập san khoa học quốc tế. 

Ngoài ra, chúng ta có quá nhiều nhà khoa học với chức danh giáo sư và tiến sĩ nhưng họ không làm nghiên cứu mà chỉ đảm nhận các chức vụ hành chính (gần 70% các tiến sĩ giữ chức vụ quản lí và không làm nghiên cứu khoa học).  Theo thống kê, năm học 2007-2008, cả nước có 38.217 giảng viên dạy đại học; trong số này, có 13.394 người có trình độ thạc sĩ trở lên (kể cả 21 giáo sư và phó giáo sư), và nếu theo tiêu chuẩn nước ngoài mỗi năm phải có một bài báo khoa học, thì con số bài báo khoa học nước ta phải là 13.000.  Nhưng trong thực tế, cả nước chỉ “sản xuất” được 910 bài, tức chưa đầy 10% tiềm năng!

Chẳng những số lượng thấp và chất lượng lại càng rất thấp.  Như vừa trình bày trên, đại đa số các công trình nghiên cứu từ Việt Nam chỉ công bố trên các tập san có chỉ số IF thấp, thậm chí những tập san địa phương như của Hàn Quốc và Nhật!  Con số 20% công trình nghiên cứu chưa bao giờ được trích dẫn cũng là một phản ảnh về chất lượng nghiên cứu khoa học ở nước ta chưa được cao. 

Số lượng và chất lượng nghiên cứu khoa học có thể tùy thuộc vào ngân sách khoa học. Theo một quan chức trong Bộ Khoa học và Công nghệ, trong niên khóa 2007-2008, ngân sách Nhà nước cho nghiên cứu khoa học lên đến 400 triệu USD.  Trong năm 2008 có 209 bài báo nội lực (tức hoàn toàn do người Việt Nam làm chủ trì và chịu trách nhiệm chính).  Như vậy, tính trung bình, mỗi bài báo khoa học tốn đến 1,9 triệu USD tiền đóng thuế của người dân.  Đó là một cái giá rất đắt, đắt gấp 3-5 lần so với các nước trong vùng.

            Những dữ liệu trên đây cho thấy các nhà quản lí giáo dục và khoa học cần phải định lại tiêu chuẩn về tiến phong giáo sư và phó giáo sư.  Hiện nay, trong khi các đại học trên thế giới đều dựa vào số lượng và chất lượng công trình nghiên cứu khoa học để đề bạt các chức vụ khoa bảng, thì ở nước ta có sự đánh giá tương đồng giữa những bài báo trong nước và các bài báo trên các tập san quốc tế!  Một sự đánh đồng như thế chẳng những thiếu công bằng, mà còn có ảnh hưởng xấu đến việc đưa khoa học nước ta hội nhập với cộng đồng khoa học quốc tế.

            Nếu những phân tích trên đây cung cấp một vài ý nghĩa, thì tôi nghĩ đến vấn đề ưu tiên cho nghiên cứu khoa học nước ta trong tương lai là gì.  Đã từ lâu, hoạt động khoa học nước ta chủ yếu nhắm vào những nghiên cứu cơ bản như toán học và vật lí học, hai ngành nằm trong “top 10” ở nước ta.  Nhưng sự thật qua con số bài báo khoa học cho thấy chính ngành y sinh học mới là ngành mạnh ở nước ta, chứ không phải ngành toán hay vật lí.  Nếu kinh nghiệm từ các nước đang phát triển như Thái Lan hay Mã Lai là một bài học, tôi nghĩ định hướng nghiên cứu khoa học tương lai ở nước ta nên dành ưu tiên cho khoa học thực nghiệm và ứng dụng, như y sinh học, công nghệ sinh học và khoa học môi trường. 

Nghiên cứu khoa học là một trong những tiêu chí chuẩn để đánh giá và xếp hạng một đại học trong hàng ngũ “đẳng cấp quốc tế” (world-class university).  Theo ước nguyện của ngành giáo dục nước ta, một số đại học đang có tham vọng trở thành “đại học đẳng cấp quốc tế” trong vòng 20 năm.  Nhưng những kết quả phân tích trên đây cho thấy ước nguyện đó rất có thể chỉ là mộng ước, vì rất khó thành hiện thực.  Với tốc độ tăng trưởng hiện nay, 20 năm nữa, con số bài báo khoa học nước ta có thể chỉ 2500 bài, tức chỉ bằng phân nửa con số của Singapore hay 20% thấp hơn Thái Lan của năm 2008.  Với một viễn ảnh như thế, chúng ta không nên chỉ mơ ước, mà phải biến mơ ước thành hiện thực qua nhiều cải cách giảng dạy và nghiên cứu khoa học.

            Do đó, để nâng cao vị thế khoa học Việt Nam trên trường quốc tế, thiết nghĩ Nhà nước cần phải nâng cao hiệu suất đầu tư cho khoa học và công nghệ, và cải cách hệ thống hoạt động nghiên cứu khoa học, và bắt đầu bằng việc phát triển các chuẩn mực cho các nhà khoa học, kể cả tiêu chuẩn giáo sư, sao cho phù phù hợp với các chuẩn mực quốc tế và không quá xa rời thực tế ở nước ta.  Cần chuẩn mực mới nên khuyến khích các nhà khoa học nước ta tập trung vào việc công bố các nghiên cứu trên các tập san quốc tế, tập trung vào việc đăng kí bằng sáng chế tại các cơ quan quốc tế.  Cần đẩy mạnh hợp tác quốc tế, nhưng cũng cần phải đảm bảo những nghiên cứu từ Việt Nam thuộc sở hữu của người Việt Nam.


200 năm Darwin
Agent Orange: collateral damage
Alexandre Yersin và Việt Nam
Bàn về hiệu quả vắcxin: lâm sàng và kinh tế
Bàn về vấn đề dịch thuật và đánh giá năng suất khoa học
Béo phì ở người Á châu
Béo phì ở trẻ em và virus
Bình luận từ Dr. Yến
Bưởi không gây ung thư vú
Bảo hiểm y tế cộng đồng
Bảo tồn môi sinh: Chiến tranh giữa hai thế giới
Bằng chứng khoa học thay vì lên lớp
Bệnh tả: không để Việt Nam thành Bangladesh thứ hai
Bệnh tật nhìn từ quan điểm của thuyết tiến hóa
Bệnh xơ hóa cơ delta qua y văn thế giới
Bổ sung kẽm và điều trị bệnh tả
Bộ gen trong cây lúa và triển vọng
Bộ Y tế phản ứng chậm với rét đậm
Chiều cao của người Việt
Chiều cao và tổng thống Mĩ
Cholesterol và bệnh Tim
Cholesterol: hung thần hay bạn?
Chuột và... các nhà khoa học
Chính sách y tế cần dựa vào bằng chứng khoa học
Chạy đua vũ khí và … dịch cúm
Chất béo, cholesterol, bệnh tim và statins: xét lại bằng chứng
Chất keo xã hội: hormones
Chất lượng nghiên cứu dịch tễ học và y tế cộng đồng của Việt Nam qua chỉ số H
Chất lượng nghiên cứu khoa học ở Việt Nam qua chỉ số trích dẫn
Chất vấn chuẩn chẩn đoán béo phì
Chế độ ăn uống với nhiều thịt động vật và nguy cơ tử vong
Chủng vi khuẩn tả hiện nay ở nước ta có phải mới xuất hiện?
Cuộc chiến hóa học phi pháp lớn nhất trong lịch sử chiến tranh
Câu chuyện y học: Leptin và béo phì
Có bao nhiêu bác sĩ viết chữ khó đọc
Có nên tập trung vào vi khuẩn E. coli ?
Có thể xảy ra đại dịch cúm gia cầm?
Công cụ đơn giản để chẩn đoán tiểu đường ở người Đông Nam Á
Cúm gia cầm và nhiễu thông tin
Cúm H1N1: biết và chưa biết
Cơ hội để khép lại một chương lịch sử đau lòng
Cần hiểu đúng về Ung thư và nguy cơ ung thư
Cần qui ước đạo đức cho kĩ nghệ thực phẩm
Cần tiêm chủng ngừa bệnh tả vùng có nguy cơ cao
Cần điều tra về chất lượng bệnh viện
Cổ phần hóa bệnh viện công và chất lượng
Cổ phần hóa: chưa phải cách duy nhất
DDT và vấn đề cân đối giữa lợi ích và nguy hiểm
Dinh dưỡng: một nguồn thuốc quí giá
DNA không nói dối, nhưng DNA có thể nói … sai
Dịch cúm gà: hoang mang và sự thật khoa học
Dịch cúm heo và tác hại kinh tế
Dịch tay-chân-miệng
Dịch tả: gọi đúng tên để phòng ngừa
Dựa vào khoa học, đừng dựa vào niềm tin!
E. coli – vài câu hỏi thông thường
Gen và bệnh tật
Ghen tuông dưới cái nhìn của tâm lí y khoa
Gian lận trong nghiên cứu khoa học: áp lực kinh tế và cơ chế bình duyệt
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC: KHƠI DẬY VÀ NUÔI DƯỠNG TÍNH HAM HỌC
Giải nobel y học hay sinh lí học 2007 và lợi ích cho người bệnh
Giải Nobel Y sinh học 2008 và những tranh chấp khoa học
Giải Nobel y sinh học 2010 vinh danh người đem niềm vui cho người vô sinh
Giải Nobel y sinh học năm 2005: Một cõi đi về với vi khuẩn
Giải Nobel y sinh học: Nhìn lại quãng đường 100 năm
Giải phẫu ghép mặt và vấn đề y đức
Gout ở xương sống
Gãy xương và tử vong: một vấn nạn y tế cộng đồng
Hiệu quả vắcxin có nghĩa gì?
Hoa vàng mấy độc
Hàm lượng đạm trong sữa “siêu thấp” hay “siêu cao”?
Hóa chất khai hoang trong cuộc chiến Viện Nam: Qui mô và tầm ảnh hưởng
Hướng đi nào để giải quyết vấn đề chất độc da cam ở Việt Nam
Hậu “mắm tôm được minh oan”: bằng chứng khoa học, nhà xí và nghiên cứu
Hệ Thống Học Vị Và Học Hàm Khoa Học Ở Vài Nước Tây Phương
Hợp tác khoa học kiểu nhảy dù - Nguyễn Văn Tuấn
Khi bác sĩ trẻ “khoe” quá nhiều
Khoa học và ngụy khoa học: một vài đặc điểm và khác biệt cần biết
Khoa học, xã hội, và rủi ro
Không thể thành Phù Đổng trong 20 năm!
Khẩu trang và phòng chống cúm A/H1N1
Kiểm định giả thuyết mắm tôm và vi khuẩn tả
Liều lượng melamine bao nhiêu là an toàn?
Lí lịch sinh học của heo và dấu vết văn minh nông nghiệp Đông Nam Á
Lượng giá mạng sống con người
Lợi ích của vitamin D
Miệng nhà quan
Mắm tôm có phải là “thủ phạm” gây bệnh tả? Xét lại bằng chứng khoa học
Mắm tôm và chuyện xin lỗi
Mắm tôm và dịch tả: phân biệt yếu tố nguy cơ và nguyên nhân
Mắm tôm vô tội!
Mắm tôm, nguyên nhân và hệ quả
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Một bệnh hiếm X-linked recessive hypoparathyroidism
Một lần đi phỏng vấn
Một năm nhìn lại
Một phán quyết thiếu cơ sở khoa học
Một vài hiểu lầm tai hại
Một vài ngộ nhận về nghiên cứu khoa học
Một vài vấn đề về qui định chức danh giáo sư ở Việt Nam
Một vụ Madoff trong y khoa: Lại một ngôi sao y khoa rơi rụng!
Mỡ trắng, mỡ nâu
Mỡ  trong máu, huyết áp, và  tiểu đường
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nguyên nhân bệnh tiêu chảy
Ngó trên tay điếu thuốc đã lụi dần
Người cao tuổi và sự hạn chế của y khoa
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Nhân chuyện dịch tả nhớ lại John Snow
Nhân câu chuyện điện não đồ xét nghiệm nghiện ma túy:
Nhân năm khỉ_nguồn gốc con người hiện đại
Nhân năm Tý bàn chuyện thí nghiệm trên chuột
Nhìn lại khoa học Việt Nam năm 2008 qua công bố quốc tế
Nhầm lẫn trong y khoa: Khá phổ biến, nhưng ít ai biết!
Những câu hỏi và trả lời về dịch gia cầm
Những sai sót khó tin nhưng có thật
Những sai sót nguy hiểm trong toa thuốc
Những điều khó tin về “Bảy điều khó tin nhất trong y học”
Năm lí do cho mắm tôm “vô tội”
Phán quyết sau cùng: Chất béo không ảnh hưởng đến ung thư và bệnh tim
Phát hiện gien kiểm soát ráy tai: vài bài học về mò kim đáy biển
Phòng chống bệnh phải dựa vào bằng chứng khoa học!
Phòng chống H1N1 bằng rửa tay và khẩu trang: Biện pháp nào hiệu quả hơn?
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao và cân nặng: thiếu cơ sở khoa học và kì thị giới tính
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao: vấn đề giả định và bằng chứng khoa học
Quyền phê phán và trí thức
Quyền được tiếp cận hồ sơ bệnh án
Quản lý chất lượng: Thuốc phòng "tai nạn y khoa"
Rửa tay bằng xà phòng và tiêu chảy
Serotonin có liên quan đến chứng đột tử
Suy dinh dưỡng ở trẻ em: vấn đề của kinh tế
Sàng lọc trẻ sơ sinh trên phạm vi toàn quốc
Tai nạn y khoa trong bệnh viện
Thế nào là một "bài báo khoa học"
Thế nào là “Cơ sở khoa học” ?
Thịt chó là nguyên nhân của bệnh tiêu chảy cấp tính?
Thịt chó và bệnh tả: nguyên nhân và yếu tố nguy cơ
Tiên lượng bệnh Alzheimer bằng protein expression ?
Tiêu chuẩn chất lượng giáo dục đại học
Tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì cho người Việt - Nguyễn Văn Tuấn
Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh đái tháo đường (diabetes mellitus)
Tiêu chuẩn đề bạt giáo sư: Có nên căn cứ vào số lượng bài báo ?
Tiêu chảy cấp tính và bệnh tả: Định danh cho đúng
Truy tìm ung thư bằng mammography từ tuổi 50
Truyền thông và khoa học: Qui ước Ingelfinger
Truyền thông và y tế
Truyền thông, khoa học và … doanh nghiệp
Trà xanh và sức khỏe
Trách nhiệm và nhân đạo trong vấn đề chất độc da cam
Trái chanh và phòng chống bệnh tả
Trả lời những câu hỏi liên quan đến loãng xương
Trọng lượng cơ thể và tử vong ở người Trung Quốc: Ý nghĩa về việc xác định tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì
Tuổi thọ của người dân giảm 10 năm ?
Tác dụng Placebo trong y học: Tâm lí và ý nghĩa
Tình yêu, sắc đẹp nhìn dưới quan điểm di truyền học
Tín hiệu môi trường từ những “làng ung thư”
Tính khoa học và minh bạch đằng sau xét nghiệm doping
Tại sao không phát biểu về nguyên nhân và hệ quả ?
Tại sao uống rượu gây đỏ mặt và nguy cơ ung thư thực quản
Tạo sinh vô tính và cái chết của Thượng đế
Tạo sinh vô tính và vấn đề sinh đạo đức
Tản mạn về SARS
Tỉ lệ tử vong do cúm heo là bao nhiêu ?
Tự trị, chất lượng và y đức thay vì cổ phần hóa bệnh viện công
Ung thư vú và vấn đề thông tin y khoa
Uống bia hấp dẫn muỗi
Vaccine phòng chống AIDS hiệu quả đến đâu ?
Vaccine phòng chống cúm A/H1N1
Vi khuẩn gây tiêu chảy và ý nghĩa tiêm chủng
Vi khuẩn tả trong chó ?
Viết văn có thể chữa nhiều loại bệnh
Viết văn và trị liệu
Việc ta, ta cứ làm!
Vài nhận xét về 12 điều lệ y đức của Việt Nam
Vài thông tin cần biết về các chương trình truy tìm ung thư vú
Vài đóng góp quan trọng của người Việt khoa học thống kê
Văn hóa khoa học
Văn hóa tranh luận và vấn đề ngụy biện
Vấn đề sinh tố: kẽm và đồng
Vấn đề truy tìm ung thư phổi và hiệu quả 
Vấn đề y đức trong nghiên cứu tế bào mầm (stem cells)
Vấn đề đo lường melamine
Vấn đề đào tạo tiến sĩ: kinh nghiệm từ Australia
Vắc-xin phòng chống ung thư cổ tử cung
Vắcxin ngừa viêm gan B: cẩn thận với “nhiễu thông tin”
Vắcxin ngừa viêm gan B: kinh nghiệm từ nước ngoài
Vắcxin phòng bệnh sởi - quai bị - Rubella: lợi và hại
Vắcxin phòng chống ung thư cổ tử cung: hiệu quả lâm sàng và kinh tế
Vắcxin phòng ngừa bệnh tả: rất cần thiết
Về chấn chỉnh đào tạo tiến sĩ: Công bố bài báo khoa học là một thách thức lớn ?
Về học vị tiến sĩ
Về một sự hiểu lầm thuật ngữ "prospective"
Về phản ứng phụ của bisphosphonates liên quan đến hoại tử xương hàm và rung nhĩ
Vệ sinh như là một loại hàng hóa
Vị thế của nền khoa học Việt Nam
Xung quang xì căng đan về nghiên cứu tế bào mầm
Xã hội hóa và an toàn thực phẩm
Xếp hạng đại học: cần minh bạch hóa phương pháp
Y học hiện đại và những hứa hẹn
Y học thực chứng: vài nét khái quát
Y Khoa và những nhầm lẫn chết người
Y tế dự phòng: nền tảng của y khoa hiện đại
Y đức và nghiên cứu y học
Ói mửa, cao huyết áp và hôn mê
Ăn chay như là một trị liệu
Ăn chay và loãng xương
Điều trị bệnh dựa vào màu da ?
Điều trị đau dây thần kinh tọa bằng phẫu thuật: không có hiệu quả
Đo lường hiệu suất khoa học
Đánh giá đúng tầm quan trọng của ung thư vú 
Đại dịch H1N1
Đại dịch và đại dịch ảo
Đại dịch đã đến ?
Đạo văn trong hoạt động khoa học
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đằng sau những con số hàm lượng đạm trong sữa
Đế quốc Trà
Đề bạt các chức danh khoa bảng: vài kinh nghiệm từ Úc
Đọc lại 12 điều y đức của Việt Nam
Đồi điều về sữa nhiễm melamine
Đừng quên melamine trong các thực phẩm khác!
Ước vọng 200 ?
“Kỹ năng mềm” cho nhà khoa học
“Sẽ” và “có thể”


Trang nhiều tác giả
Trang riêng của Lê Ngọc Dũng
Trang riêng của Lương Lễ Hoàng
Trang riêng của Nguyễn Bảo Trung
Trang riêng của Nguyễn Hoài Nam
Trang riêng của Nguyễn Hữu Đức
Trang riêng của Nguyễn Văn Tuấn
Trang riêng của Nguyễn Ý Đức
Trang riêng của Nguyễn Đình Nguyên
Trang riêng của Phan Xuân Trung
Trang riêng của Đỗ Hồng Ngọc
Trang riêng của Đỗ Minh Tuấn