Tản mạn về SARS
Nguyễn Văn
Tôi thường nghe rằng khi nền kinh tế thế giới đang trong thời kì thịnh vượng, nếu Mĩ bị cảm lạnh, Âu châu sẽ bị viêm phổi. Ngày nay, Mĩ ngự trị cả thế giới, cái thế giới của sự bất an, và khi Hồng Kông bị viêm phổi, cả thế giới lâm vào tình trạng hoảng loạn. Đầu năm nay, bắt đầu từ một vài trường hợp viêm phổi ở Quảng Đông, Hồng Kông và lan tràn chung quanh vùng Đông Nam Á châu, và nhờ vào công nghệ hàng không, chứng bệnh bắt đầu “di chuyển” một cách nhanh chóng sang các nước “tiên tiến” như Canada, Úc châu, và Anh. (Ở Anh và Úc, cho đến nay, có dưới 10 trường hợp có khả năng SARS, hay nghi ngờ SARS, nhưng chưa có ai chết). Tính đến nay (đầu tháng 5, 2003), theo thống kê của Tổ chức y tế thế giới, trong số khoảng 6000 trường hợp SARS, tỉ lệ tử vong vào khoảng 4.7%.
Câu chuyện chung quanh vụ bộc phát bệnh SARS làm cho người ta phải suy nghĩ nhiều hơn về những mối đe dọa vốn có của quá trình toàn cầu hóa. Một trong những khía cạnh mà tôi nghĩ giới truyền thông và chính trị Tây phương, có lẽ đang hăng say với công việc mô tả những viễn ảnh rùng rợn liên quan đến SARS, quên rằng cải tiến hệ thống y tế toàn cầu mới là vấn đề cấp bách trước mắt. Các nước Tây phương nói nhiều đến toàn cầu hóa, nhưng họ không nói đến tình hình hiện nay: hơn 1,3 tỉ người dân trên thế giới đang sống lây lất với thu nhập bình quân 1 Mĩ kim mỗi ngày. Cái chết của những người dân nghèo này còn cao gấp triệu lần cái chết do SARS, cũng là một hậu quả của cái nghèo, đem lại.
Báo chí, nhất là báo chí Tây phương, ra sức tô vẽ một viễn ảnh rùng rợn. Những kí giả Tây phương với kịch tính và giật gân tính cố hữu, cùng với một số y sĩ y quen thói suy nghĩ nhanh cố gắng dùng mọi từ ngữ cảm tính để mô tả SARS như là một “vấn nạn y tế công cộng toàn cầu”. Thực ra, ngay cả chữ SARS không có trong danh mục bệnh tật. Chữ Severe (nghiêm trọng) được giới báo chí và y tế Tây phương lồng vào cụm từ Acute Respiratory Syndrome (Hội chứng hô hấp cấp tính) để thay thế cho bệnh "atypical pneumonia" (viêm phổi không điển hình), và qua đó hàm ý nói lên tình trạng ngặt nghèo của căn bệnh. Viêm phổi không điển hình không phải là bệnh gì mới. Thông thường thì khi chưa tìm được nguyên nhân, người ta để là hội chứng, khi tìm ra nguyên nhân thì để là bệnh, SARS không thể là bệnh, và hiện nay đã tóm được virus loại Corona là tác nhân chính gây bệnh -- biểu hiện là viêm phổi. Thế mà người ta vẫn thích để bệnh “Hội chứng Suy hô hấp cấp nghiêm trọng”, chứ không phải là viêm phổi không điển hình do Coronavirus chẳng hạn, giống như viêm phổi không điển hình do Clamydia!
Không những chơi chữ, có người còn đi xa hơn như một tờ báo bên Đức dùng computer để tiên đoán rằng nếu đà lan truyền của SARS hiện nay tiếp tục xu hướng trong thời gian hai tháng qua, thì trong một hai năm tới thế giới sẽ không còn người nào sống sót! Tôi không phải là một nhà thống kê học chuyên nghiệp, nhưng tôi vẫn thấy cách tính này vừa khôi hài vừa vô lí và không cần thiết, bởi một lí do đơn giản: tất cả những dự đoán (extrapolations) ngoài khoản thời gian - mà những thông số của phương trình được ước tính - đều vô nghĩa và vi phạm một giả định quan trọng của thống kê học. Có lẽ người ta quá ham thích giật gân, nên quên đi những điều căn bản nhất của khoa học?
Nhưng với một tiên đoán như thế, chẳng ai ngạc nhiên trước những phản ứng cực kì báo động. Gần đây, lại thêm một điều tra dư luận cho thấy 27% đến 35% trong số những nhà kinh doanh được hỏi không muốn đi, hay nói đúng hơn là tẩy chay những chuyến công tác ở, Á châu trong công việc làm ăn buôn bán. Chính phủ Thụy sĩ ra lệnh cho ban tổ chức hội chợ vàng bạc không cho 2500 thợ bạc và nhà kinh doanh từ Đông Nam Á tham dự. Công ti du lịch lớn nhất Nhật là JTB tuyên bố rằng họ đã hủy bỏ các chuyến du lịch Hồng Kông trong một thời gian ít nhất là hai tuần. Đầu tháng Tư, Công ti Sony ra lệnh cho nhân viên không nên đi công tác ở Singapore và Việt Nam.
Một chiến tranh chữ nghĩa xảy ra. Tổ chức Y tế thế giới tố cáo Trung Quốc dấu diếm dữ kiện. Trung Quốc trả lời lại, nhưng chẳng ai hiểu họ nói gì. (Trung Quốc sẽ chẳng bao giờ là siêu cường với cách ăn nói như thế.) Tổ chức Y tế thế giới còn khuyến cáo dân chúng nên tránh thành phố Toronto (Canada), và khuyến cáo này làm cho ông thị trưởng thành phố phản ứng một cách giận dữ và quyết liệt. Một đồng nghiệp (là một giáo sư y khoa) của tôi phải hủy bỏ chuyến đi Canada để dự một hội nghị y học hàng năm vì ban tổ chức cảm thấy không “an toàn” khi hội nghị có mặt các đồng nghiệp y khoa từ Á châu!
Trong cộng đồng người Việt hải ngoại, tin tức về SARS được loan đi, như thường lệ, thường kèm theo những vặn vẹo chữ nghĩa theo cảm tính và xuyên tạc chính trị. Một số bác sĩ khuyến cáo đồng hương không nên đi du lịch ở Việt Nam và Á châu (nhưng không ai nghe họ khuyến cáo đồng hương không nên đi du lịch ở Canada). Có người còn khuyên đồng hương nên cách li người thân mới về từ Việt Nam hay Á châu ít nhất là hai tuần. Có người lại khuyên đồng hương không nên mua hàng hóa, thực phẩm từ Việt Nam! Có báo còn thiếu lí trí hay dã tâm đến nổi thay vì gọi là “SARS”, họ gọi căn bệnh là “Cúm Hà Nội”, “Cúm Việt Nam” làm như căn bệnh xuất phát và chỉ giới hạn trong phạm vi Việt Nam. Có vị bác sĩ người Việt nọ còn lên đài radio ở miền bắc California bàn về “phương pháp DNA” và “lật đổ chế độ Hà Nội” như là một phương pháp chữa trị và phòng chống SARS!
Nói tóm lại, chỉ mới vài tuần sau cơn bộc phát SARS, chúng ta chứng kiến một tình trạng hỗn loạn ở qui mô toàn cầu, và sinh hoạt hàng ngày của nhiều người bị xáo trộn một cách không cần thiết. Không những làm náo động thế giới, những phản ứng trước dịch SARS còn gây tổn hại đến nền kinh tế của Á châu nói riêng và một phần nào đó nền kinh tế toàn cầu.
Trong khi người dân sợ hãi thì cũng có thành phần làm ăn khấm khá ra. Báo chí được bán nhiều hơn. Đài truyền hình và radio có nhiều quảng cáo hơn. Các nhà sản xuất mặt mạ giống như cái xú chiêng dùng để che miệng bịt mũi sung sướng thấy con số thu nhập tăng theo cấp số nhân. Nhiều công ti dược phẩm còn rục rịch chế ra thuốc chống SARS, phòng ngừa SARS, trong khi hiểu biết về SARS vẫn còn là giai đoạn trứng nước!
Câu chuyện SARS, tự nó, là một triệu chứng của một căn bệnh tâm lí trong cái văn hóa sợ hãi đang bộc phát đến độ khó có thuốc chữa ngày nay. Cộng với những lo sợ trước tình hình khủng bố, nỗi bất an về chiến tranh vi trùng, chiến tranh hạt nhân, và tai họa môi trường, sợ hãi đan xén thành một loại “khải huyền” hiện đại. Trong một bài luận về nạn AIDS vào thập niên 1980s, một cây bỉnh bút nổi tiếng người Mĩ, Susan Sontag, đề cập đến một văn hóa sợ hãi, một “distress culture” trong các xã hội Tây phương, và cái văn hóa này sản sinh ra những khải huyền tưởng tượng, những cái bóng tận thế. Có thể nói mối đe dọa lớn nhất đến công chúng ngày nay là sự mất niềm tin và khả năng đối phó với vấn đề bằng lí trí.
Sợ hãi là một căn bệnh truyền nhiễm. Đó là căn bệnh xảy ra vào thời kì mà người dân, bị giới truyền thông thương mại chi phối, làm cho họ cảm thấy bị cô lập, bất lực, không có khả năng đặt sự hiểm nguy vào bối cảnh thực tại một cách thích hợp.
Bối cảnh đó là gì? Như một triết gia người Hi Lạp, Diogenes, từng nói đến ý niệm “công dân thế giới” từ thế kỉ thứ 4 trước Công nguyên (trCN), bệnh tật cũng không có biên giới quốc gia. Một bộc phát bệnh dịch ở Quảng Đông có thể hiện diện ở Hà Nội vài ngày sau đó, hay lan tràn sang Úc châu, Âu châu, và Mĩ châu, hay thậm chí ngay trong gia đình chúng ta. Do đó, có thể nói SARS là một trường hợp tiêu biểu, chứ không phải duy nhất, thể hiện cái chết của khoảng cách, của biên giới. Những phân định bệnh tật theo địa phương mà giới y tế Tây phương đã từng theo đuổi trong một thời gian dài là hoàn toàn vô nghĩa và có thể nói là lừa dối.
SARS cũng không phải là một trường hợp bệnh tật có tầm ảnh hưởng xuyên quốc gia đầu tiên hay một hiện tượng mới. Trường hợp đầu tiên được đưa vào sử sách y khoa là nạn dịch xảy ra vào năm 430 trCN ở Athen và lan tràn sang các nước chung quanh. Hiện tượng “Chết đen” (hay còn gọi là “Black Death”) xảy ra vào năm 1347 làm chết một phần ba dân số Âu châu lúc đó. Cuộc trường chinh của đế quốc Aztec và Inca vào thế kỉ 16 cũng là một ví dụ về chiến tranh sinh hóa với nạn lan tràn bệnh đậu mùa sang các dân số chưa từng bị bệnh này. Gần đây hơn (thế kỉ 20), vụ đại dich toàn cầu cúm 1918 cũng lan tràn khắp thế giới và làm chết cả 40 triệu người.
Nhưng SARS có tầm mức ảnh hưởng khủng khiếp như các trường hợp trên đây không? Câu trả lời dứt khoát là “không”. Bệnh thường xảy ra một cách chậm chạp trong gia đình, hay trong những người tiếp xúc với chim, gà và lợn. Các chuyên gia y tế công cộng đều cho rằng bệnh này không lan tràn ồ ạt như báo chí Tây phương đang làm rầm rộ mấy tuần qua. Mới đây có chuyên gia cho ý kiến rằng bệnh SARS, cũng như cảm cúm, có thể truyền nhiễm qua tiếp xúc trực tiếp, chứ không qua không khí.
Điều quan trọng cần biết là không phải ai mắc bệnh SARS đều chết hay không hồi phục nổi; người mắc bệnh SARS vẫn có thể hồi phục. Có thể hiện nay y khoa chưa có phương pháp chữa trị bệnh này, nhưng nó không phải là một căn bệnh nguy hiểm đến nổi làm chết mọi bệnh nhân. Sự thật là số người mắc bệnh SARS vẫn còn rất nhỏ. Và trong số trên dưới 4500 trường hợp mắc bệnh, chỉ 5% chết. Nhưng con số 5% này cũng không phản ánh đúng tình hình thực tế, vì trong số 5% này, phần lớn là người cao tuổi (trên 60 tuổi) và những người có bệnh từ trước (underlying disease). Cũng có nạn nhân là trẻ em dưới 5 tuổi, nhưng rất ít. Dù "chỉ 5%", nhưng vẫn là một con số không giới y tế nào muốn có. Nhưng con số cũng cho chúng ta biết khoảng 96% bệnh nhân SARS được hồi phục và không chết vì SARS. Do đó, điều quan trọng cần phải nói ngay là ngay cả trong những người cao tuổi và trẻ em, SARS không phải là một “terminal disease” – một bệnh vô phương kiềm chế và cứu chữa. Những người khác (thanh niên và trung niên) có khả năng đề kháng cao và SARS không phải là một chứng bệnh làm nguy hiểm đến tính mạng.
Cố nhiên, đây là một chứng bệnh, cũng như nhiều căn bệnh kì bí khác, cần phải nghiên cứu cẩn thận, xem xét thêm. Nhưng cho rằng đó là một vấn nạn y tế công cộng toàn cầu, như báo chí Tây phương ra rả nói đến hàng ngày, thì có lẽ hơi quá đáng. Những khuyến cáo, cấm đoán du lịch đến các thành phố như Toronto, theo tôi, cũng là một phản ứng phi li trí, và tôi hoàn toàn thông cảm cho sự giận dữ của ông thị trưởng thành phố rất đẹp này.
Đọc đến đây chắc có bạn đọc sẽ nói tôi đánh giá thấp ảnh hưởng của SARS. Không phải. Tôi không có ý nói rằng những cái chết vì SARS là không thực, là không quan trọng. Toán học và con số không có vai trò ở đây. Mỗi cái chết là một thảm kịch. Nói một cách thi vị hơn: vắng một người thế giới trở nên hoang vu. Một cái chết trên hành tinh này là một mất mát không thể nào thay thế được. Mỗi mạng sống đều quí báu như nhau, dù người đó là người Việt, người Iraq, người Canada, người Trung Quốc, hay người Mĩ (ít ra là trên phương diện đạo lí tình người.) Nhưng cái mà tôi muốn nói đến là phối cảnh. Tôi muốn bạn đọc lấy một hơi thở (vẫn còn an toàn để thở) và nhìn lại vài sự thật:
· Mỗi năm có khoảng 250.000 đến 500.000 người chết vì bệnh cúm trên thế giới, trong số này có 36.000 nạn nhân ở Mĩ;
· Mỗi năm, có khoảng 1 đến 2,7 triệu người, phần lớn ở Phi châu, chết vì bệnh sốt rét; con số mới đây nhất của Tổ chức y tế thế giới cho thấy mỗi ngày bệnh sốt rét lấy đi 3000 sinh mạng trẻ em Phi châu (xin ghi nhớ mỗi ngày và 3000 sinh mạng trẻ em);
· Ngay cả bệnh lao (vâng, bệnh lao) vẫn giết chết gần 2 triệu người hàng năm, và 98% những người chết vì lao sống trong các nước đang phát triển;
· Trên bình diện toàn cầu, bệnh AIDS/HIV làm chết 3 triệu người hàng năm, kể cả 61,000 trẻ em;
· Tai nạn giao thông (kể cả tai nạn xe cộ, tàu bè) giết chết 300.000 người Á châu hàng năm;
· Cuộc xâm chiếm Iraq do Mĩ và Anh cầm đầu giết chết ít nhất là 10.000 người, kể cả 2.300 thường dân.
Ba mươi sáu ngàn người Mĩ chết vì cúm, nhưng tôi không thấy văn phòng nào phải đóng cửa, cơ sở thương mại nào phải ngưng hoạt động. Tôi không thấy ai, kể cả Tổ chức y tế thế giới, khuyến cáo đừng di du lịch ở Mĩ. Tôi cũng không thấy ai mang mặt nạ che miệng và mũi (được mĩ từ hóa thành “khẩu trang”), hay những vị thương gia bụng to đầu hói mang trong mình thẻ Gold Card của American Express và “Frequent Flyer” phải đi nửa vòng trái đất tránh bệnh cúm.
Tại sao những người chết vì sốt rét, cúm, lao, HIV/AIDS, v.v... không bao giờ trở thành những cái tít trên trang đầu của báo chí Tây phương? Đâu phải những cái chết đó vô hình. Đâu phải những cái chết đó vô danh. Hay là tại vì xác suất mà những bệnh này lây sang những người “Frequent Flyers” và mang thẻ Gold Card quá thấp, thấp đến nỗi họ chẳng cần quan tâm. Hay là tại vì họ không được chữa trị, không có tiền mua thuốc men do các công ti dược phẩm Tây phương sản xuất.
Bạn đọc có lẽ để ý tôi dùng chữ “Tây phương” trong bài viết này hơi nhiều. Đúng như thế. Và tôi có lí do của tôi. Tôi thấy những người lớn tiếng nhất trong việc biến SARS thành một vấn nạn nguy hiểm cho thế giới là giới làm truyền thông và chính trị trong các nước Tây phương, những người thuộc giai cấp trung lưu, lái xe ô-tô, uống rượu ngon, ăn uống đồ ăn đắt tiền, và hay đi du lịch qua nhiều nước bằng máy bay. Họ là những thành phần đặc lợi, thống trị xã hội. Khi những người thống trị xã hội chủ trương chủ nghĩa an toàn gióng tiếng nói, họ muốn thay đổi người khác hơn là thay đổi cho chính họ. Trong trường hợp này, họ trở thành những nhà đạo đức tìm cách bêu xấu những thành phần thiếu may mắn trong xã hội.
Nhưng họ quên rằng những kẻ nghèo khổ, những thành phần thiểu số, những người lao động luôn là đối tượng nghiên cứu, là tầng lớp để giới thống trị bêu rếu và suy luận. Nhưng chính những đối tượng nghèo khổ này đã hi sinh để cho xã hội nói chung có được nền văn minh và sự an toàn ngày nay. Thành ra, việc ác quỉ hóa những người đang ở trong tình trạng hiểm nguy hoàn toàn đi ngược lại với những lực lượng của quá trình tiến hóa nhân loại.
Giá trị văn hóa và địa vị xã hội luôn là những nguyên liệu và phương tiện mà giới thống trị dùng để xây dựng cái nguy hiểm, và họ lấy SARS làm một thí điểm. Bởi vì họ thuộc ở vào vị trí đặc quyền, đặc lợi, và họ muốn sử dụng vị trí này để tối đa hóa cuộc sống và lợi ích của họ. Do đó, tôi không ngạc nhiên khi thấy các thái độ của chính phủ Tây phương và WHO đối với các nước đang phát triển như kẻ cả và thậm chí trịch thượng. Họ rất chuộng dùng chiêu bài bảo vệ bệnh tật và môi trường để phản đối, trừng phạt các nước đang cố vươn lên khỏi tình trạng nghèo khó. Họ dựa vào Nguyên lí Phòng ngừa, và nhân danh bảo vệ sức khỏe con người, để làm áp lực lên Liên hiệp quốc phải tẩy chay việc dùng hoá chất DDT trong các nước đang phát triển. Nhưng mặt khác, họ phát triển sản xuất thuốc lá, và bán những dược phẩm đã được chứng minh là nguy hiểm cho các nước nghèo khó thuốc thế giới thứ ba. Họ không chịu giảm giá và thậm chí miễn cưỡng cung cấp dược phẩm mới cho các nước nghèo.
Thành ra, tôi phải suy luận thế này: những người che mũi bịt miệng bằng cái mặt mạ kia chẳng phải phòng ngừa SARS (vì những mặt nạ này vô dụng đối với SARS ở ngoài cộng đồng), nhưng trong thực tế họ muốn che dấu nỗi xấu hổ, ẩn nấp nỗi nhục, dấu giếm cái đạo đức giả, cái ích kỉ của chính họ.
Cuộc sống là một hàm số toán học khổng lồ. Mọi người, nói như triết lí “dependent origination” của nhà Phật, phải phụ thuộc với nhau để tồn tại. Không ai có thể tránh khỏi cái mạng lưới phụ thuộc lẫn nhau. Do đó, cách giải quyết tốt nhất cho tai nạn SARS là không phải bằng cách cấm đoán, hay bằng những kì thị ngấm ngầm giữa cái trịch thượng của Tây phương và cái thụ động của các nước nghèo, mà phải là một sự hợp tác trong bình đẳng để bình tĩnh gạt qua những thành kiến, những khác biệt không có thật giữa các quốc gia, và để tiến đến một sự công bằng và thịnh vượng cho các quốc gia nghèo. Nghiên cứu những dị biệt văn hóa là một bước đầu để giải độc những bất khoan dung, để hóa giải những lừa dối của những người tự cao tự đại cho rằng chỉ có họ mới là người sở hữu sự thật.
Y tế có thể cống hiến vào lí tưởng này, bởi vì y tế là biểu tượng của những phạm vi có thể kết hợp con người gần lại với nhau. Nói cho cùng sinh đẻ, bệnh tật, hồi phục, và cái chết là những mẫu số chung của con người, bất kể người đó thuộc chủng tộc hay quốc gia nào.