NGUYỄN VĂN TUẤN

Nhân câu chuyện chức danh giáo sư đại học:

Bàn về vấn đề dịch thuật và đánh giá năng suất khoa học

Nguyễn Văn Tuấn

Câu chuyện bắt đầu từ bài báo do kí giả Hoàng Lê viết trên tờ báo điện tử VietNamNet ca ngợi thành tích vượt bực của Phan Thị Hà Dương: “Ở tuổi 26, ngay khi vừa bảo vệ xuất sắc luận án tiến sỹ, chị đứng đầu trong kỳ thi tuyển vào vị trí Phó Giáo sư của ĐH Paris 7. Đến nay, chị vẫn là người phụ nữ Việt trẻ nhất đạt thành tích này.” Thật ra cũng chẳng ai dám chắc chắn đây là phụ nữ Việt trẻ nhất có chức danh giáo sư, nhưng bài báo đã được nhiều báo giấy khác in lại với những cái tít ấn tượng. Chẳng hạn như Tiền Phong chạy cái tít “Người phụ nữ Việt trẻ nhất đoạt học hàm Phó giáo sư” (Tiền Phong, 21/11/2005) và nhiều lời ca ngợi nồng thắm ...

Mới 26 tuổi mà được phong làm phó giáo sư tại một đại học có tầm cỡ, vượt qua hàng trăm ứng viên khác, thì quả là quá tài giỏi. Nhưng bản chất của người trí thức là hoài nghi. Có quả thật thông tin mà bài báo cung cấp là đúng với thực tế, hay lại là một ca ngợi vẽ chim thành phượng như bao nhiêu bài báo khác? Tiến sĩ Nguyễn Đình Đăng, hiện đang công tác ở Nhật, tò mò kiểm tra thì thấy bài báo của Hoàng Lê có nhiều thông tin không đúng với sự thật, như chức danh thật của Hà Dương là Maitre de Conferences, tương đương với chức danh Assistant Professor (theo hệ thống khoa bảng bên Mĩ) như trên trang nhà của bộ môn mà Hà Dương đang công tác ghi rõ ràng. Nguyễn Đình Đăng viết: “Là một người Việt Nam, tôi rất mừng vì dòng giống con rồng cháu tiên của chúng ta có nhiều người học cao và tài giỏi như TS Phan Thị Hà Dương, Ngô Bảo Châu, v.v. Nhưng chụp cho “maître de conférences” cái mũ “phó giáo sư” là một sự tùy tiện có lẽ chỉ nước Nam ta mới có. Việc đánh tráo khái niệm này có thể làm độc giả hiểu sai thực chất của một nhà khoa học trẻ, bảo vệ tiến sỹ tháng 1 năm 1999, và sau đó 8 tháng nhận biên chế maître de conférences (giảng viên). Cần lưu ý rằng khi nhận vị trí này cô chưa có một công trình nào được công bố trên tạp chí chuyên ngành vì bài báo đầu tiên của cô đăng tại tạp chí chuyên ngành là vào năm 2001 [..]. Sau khi bảo vệ tiến sỹ, cô đã đăng 8 công trình nghiên cứu trên tạp chí quốc tế trong vòng 4 năm (từ năm 2001 đến 2004). Đó là một thành tích đáng khen. Tuy nhiên, không biết ở Việt Nam ta thế nào, chứ ở châu Âu, Mỹ, Nhật Bản ngày nay không thể có chuyện một người mới 26 tuổi và chỉ với số lượng (chưa nói đến chất lượng) 8 bài báo được đăng (hoặc đang chờ được đăng) lại có thể trở thành phó giáo sư tại một đại học danh tiếng.”

Với giọng văn tương đối gay gắt, bài viết của Nguyễn Đình Đăng đã gây ra một cuộc tranh luận khá căng thẳng trên internet chung quanh những vấn đề được nêu lên. Một số người bày tỏ ý kiến ngầm ủng hộ nội dung bài báo của Hoàng Lê và quay sang tố cáo Nguyễn Đình Đăng đã từ chuyện bé xé thành chuyện to; một số thì xoay quanh những khó khăn trong việc chuyển ngữ các chức danh khoa bảng từ tiếng Pháp sang tiếng Anh và về lại tiếng Việt; một số khác thì chỉ ra đây cũng chỉ là một trong số hàng loạt những bài đánh đồng cá nhân quá trớn.

Những tranh luận này xảy ra ngay sau khi Nhà nước vừa ra quyết định công nhận chức danh giáo sư và phó giáo sư cho 339 nhà khoa học (VietNamNet 10/11/2004); và cũng như các lần trước, việc xét phong chức danh lần này cũng gây ra vài tranh luận, nghi ngờ. Có ý kiến cho rằng một số vị được tiến phong chức danh này chưa xứng đáng với khả năng thật trong hoạt động khoa học, và cũng có người đặt vấn đề tiêu chuẩn được được công nhận chức danh giáo sư. Bàn về vấn đề tiêu chuẩn, Giáo sư Đỗ Trần Cát, Tổng thư kí Hội đồng Chức danh Giáo sư Nhà nước cho biết Việt Nam phải hạ tiêu chuẩn thấp xuống mới có giáo sư! Thành ra, người viết bài này cảm thấy câu chuyện chung quanh bài báo của Hoàng Lê và Nguyễn Đình Đăng còn đặt ra một số vấn đề khá thời sự ở nước ta liên quan đến chức danh khoa bảng và các tiêu chuẩn đánh giá công trình nghiên cứu khoa học cũng như đề bạt nhà khoa học.

Thứ nhất là sự khác biệt của hệ thống chức danh khoa bảng giữa Mĩ, Pháp và Việt Nam. Ở Mĩ, thông thường, sau khi sinh viên tốt nghiệp tiến sĩ và sau ít nhất là 2 năm nghiên cứu hậu tiến sĩ, họ có thể xin được đề bạt vào ngạch giáo sư. Có ba bậc giáo sư xếp theo thứ tự thấp nhất đến cao nhất: Assistant Professor, Associate Professor, và Professor. Còn ở Pháp, cán bộ giảng dạy hay nghiên cứu trong các trường đại học chỉ có 2 bậc: Maître de ConférencesProfesseur de Université. Ở Việt Nam, hệ thống tuy phức tạp hơn hệ thống của Mĩ và Pháp, nhưng nói chung cũng có thể chia thành 3 bậc: giảng viên, phó giáo sư giáo sư. Nếu cần nói thêm, tôi muốn nói rằng hệ thống ở Anh và Úc có đến 4 chức vụ chính: Lecturer, Senior Lecturer, Associate Professor, và Professor.

Đến đây thì có vấn đề tương đương giữa các chức vụ trên đây. (Ở đây, tôi chỉ nói “tương đương” trên danh xưng mà thôi, chứ chưa nói đến tương đương về chức vụ và trách nhiệm). Nếu so sánh giữa Việt Nam và Mĩ thì chúng ta có thể phân cấp khá dễ dàng: Giảng viên = Assistant Professor, Phó giáo sư = Associate Professor, và Giáo sư = Professor.

Nhưng nếu so giữa hệ thống của Pháp với Việt Nam (hay Mĩ) thì sao? Vì Pháp chỉ có 2 bậc mà Việt Nam và Mĩ có đến 3 bậc, thành ra có thể lí giải rằng Maître de Conférences của Pháp có thể tương đương với Assistant Professor hay Associate Professor. Và, cũng dùng theo cách phân cấp đó, người ta vẫn có thể nói một Professeur của Pháp có thể tương đương với Associate Professor hay Professor của Mĩ!

Ở Anh và Úc, các trường đại học vẫn khẳng định rằng chức Lecturer của họ tương đương với Assistant Professor của Mĩ và Maître de Conférences của Pháp; còn Senior Lecturer của Úc thì tương đương với Associate Professor của Mĩ. Thế thì sự tương đương giữa hai chức danh Associate Professor / Professor của Anh và Associate Professor / Professor của Mĩ thì sao? Không có câu trả lời chính thức, bởi vì còn tùy thuộc vào … lí lịch khoa học.

Thứ hai là những khó khăn về dịch thuật. Ngày nay, chúng ta đều nhất trí dịch chữ Professor (hay tiếng Pháp, Professeur) là Giáo sư. Chúng ta cũng nhất trí rằng Associate Professor dịch là Phó giáo sư. Thực ra, đây cũng chỉ là một cách dịch tương đối mà thôi, chứ -- như tôi đã từng phát biểu trước đây -- tuy mang danh là “phó” nhưng trong thực tế những người mang chức danh Associate Professor chẳng làm phó cho giáo sư nào cả.

Nhưng khó khăn nhất vẫn là chức danh Assistant Professor (Mĩ) nên dịch sang tiếng Việt là gì ? Có người đề nghị Assistant Professor nên dịch là trợ lí giáo sư, nhưng tôi e rằng cách dịch này không mấy chính xác, bởi hai lẽ: (i) trợ lí giáo sư là một chức vụ ngoài khoa bảng tương đương với tiếng Anh Professorial Assistant; và (ii) tuy mang danh là Assistant (phụ tá), nhưng trong thực tế những người mang chức danh Assistant Professor chẳng phụ tá cho giáo sư nào cả, mà là những nhà nghiên cứu độc lập, hoàn toàn có tư cách chủ trì các công trình nghiên cứu. Như nói trên, Assistant Professor là một chức vụ khoa bảng thấp nhất trong ba bậc giáo sư, và những người mang chức danh này là những nhà khoa bảng đang trong giai đoạn củng cố địa vị chuyên môn để chuyển tiếp lên một cấp bậc cao hơn. Do đó, có lẽ Assistant Professor nên dịch là “Giáo sư dự khuyết”. Thú thật, ngay cả tôi cũng không cảm thấy hài lòng với cụm từ này (cũng như chưa hài lòng với chức danh Phó giáo sư, nhưng thiết nghĩ tất cả chuyển ngữ về chức danh chỉ là … tương đối.

Càng khó hơn nữa là chức danh Maitre de Conferences (Pháp). Nếu xét trên danh xưng thì chức danh này không có chữ Professeur và do đó không thể dịch là giáo sư được. Nhưng xét trên thứ bậc đẳng cấp thì chức vụ này chỉ thấp hơn Professeur một bậc (bởi vì đại học Pháp chỉ có 2 bậc "giáo sư"), vậy có nên dịch Maitre de ConferencesPhó giáo sư không ? Như đã đề cập trên, chức danh Maitre de Conferences tương đương với Assistant Professor, mà cũng có thể tương đương với Associate Professor, cho nên cả giảng viênPhó giáo sư đều có thể thích hợp ! Như vậy, vấn đề dịch các chức danh khoa bảng có khi cần phải xét đến chức vụ và thành tích khoa học của nhà khoa học.

Những khó khăn trên dẫn đến vấn đề thứ ba là tiêu chuẩn để đánh giá khả năng của một nhà khoa học và chất lượng công trình nghiên cứu khoa học. Các chức danh và chức vụ khoa bảng như giảng viên và giáo sư thường thường do hội đồng khoa bảng của trường đại học phê chuẩn và bổ nhiệm. Hội đồng khoa bảng dựa vào 4 tiêu chuẩn chính đề làm cơ sở cho việc phê chuẩn và bổ nhiệm : thành tích hoạt động khoa học, giảng dạy và cống hiến vào việc quản trị phân khoa đại học, khả năng thu hút tài trợ cho nghiên cứu, và hoạt động cộng đồng. Trong 4 tiêu chuẩn này, thành tích hoạt động khoa học được xem là tiêu chuẩn quan trọng nhất.

Thành tích hoạt động khoa học được đánh giá bằng các tiêu chí như số lượng và chất lượng bài báo khoa học đã công bố, số lượng bằng phát minh (patents of invention), uy danh và sự công nhận của giới chuyên môn trong ngành. Không có trường nào có qui định cụ thể ứng viên phải có bao nhiêu bài báo khoa học để được đề bạt, nhưng thông thường, những con số được "hiểu ngầm" là giáo sư dự khuyết phải có từ 5 bài báo trở lên, phó giáo sư thì ít nhất là 20, và giáo sư thì ít nhất là 50.

Nhưng số lượng công trình không nói lên được chất lượng của công trình nghiên cứu. Hội đồng khoa bảng thường dựa vào hệ số ảnh hưởng (còn gọi là impact factor) của tập san mà bài báo khoa học được đăng. Hệ số này thực chất là số lần trích dẫn (citation), tính trung bình, cho những bài báo đã đăng trên tập san trong vòng 2 năm trước. Chẳng hạn như năm 2003 và 2004 tập san đăng 200 bài báo khoa học, và năm 2005 có 400 lần trích dẫn các bài báo trong hai năm qua, thì hệ số ảnh hưởng được ước tính là 400/200 = 2. Nói chung, tập san nào có hệ số ảnh hưởng cao hơn 5 được xem là có uy tín cao.

Tuy nhiên, hệ số ảnh hưởng của tập san cũng tùy thuộc vào bộ môn khoa học (chẳng hạn như các tập san thuộc bộ môn khoa học thực nghiệm thường có hệ số ảnh hưởng cao hơn các tập san trong các ngành khoa học tự nhiên và toán học). Vả lại, hệ số ảnh hưởng chỉ phản ánh uy tín của tập san chứ không hẳn phản ánh ảnh hưởng của bài báo trên tập san. Trong lịch sử khoa học, không ít công trình có ảnh hưởng lớn (hiểu theo nghĩa được nhiều người trích dẫn và tham khảo) nhưng chỉ xuất hiện trên các tập san với hệ số ảnh hưởng thấp, hay thậm chí chưa bao giờ công bố chính thức trên một tập san ! Cho nên một cách đánh giá chất lượng khác là tính số lần các nhà khoa học khác trích dẫn bài báo (citations) mà nhà khoa học đã công bố. Số lần trích dẫn nhiều cũng có nghĩa là công trình nghiên cứu có ảnh hưởng lớn trong chuyên ngành. Ngược lại, nếu nhà khoa học dù có hàng trăm bài báo, nhưng không ai trích dẫn thì những bài báo này cũng chỉ là một đống rác chữ nghĩa vô dụng.

Bài học

Qua những tranh luận chung quanh bài báo về Phan Thị Hà Dương trên VietNamNet, chúng ta cũng có thể rút ra một vài kinh nghiệm về việc đánh giá độ tin cậy và tính chính xác của thông tin. Một bài học hiển nhiên cho những người viết báo là cần phải kiểm tra thông tin cẩn thận để tránh nhầm lẫn. Internet là một phương tiện quan trọng trong việc kiểm tra thông tin. Với hệ thống truy tìm thông tin của Google, việc rà soát chức danh và chức vụ cũng như quá trình hoạt động nghiên cứu của một nhà khoa học trong các đại học Tây phương thật là dễ dàng. Có thể nói bất cứ đại học nào ở các nước Tây phương cũng đều có một trang web, và trong trang web đó có danh sách giáo sư với những chức vụ khá rõ ràng. Muốn biết chuyên môn của một giáo sư là gì, hay bao nhiêu công trình khoa học gắn liền với tên của vị giáo sư cũng chỉ cần năm ba phút là cũng có được.

Tuy nhiên không phải thông tin nào trên internet, nhất là các trang web mang tính phi chính thức (unofficial), đều có độ chính xác cao. Rất nhiều thông tin trong các trang web như Wipipedia, tuy mang danh là từ điển bách khoa cho đại chúng, chưa nhiều sai sót nghiêm trọng. Thành ra, không bao giờ phụ thuộc vào thông tin của một trang web, cho dù trang web đó là của trường đại học ! Nếu cần thiết, nhà báo vẫn có thể liên lạc với những chuyên gia có thẩm quyền để rà soát thông tin và kiểm tra lại các thông tin trên internet.

Người Tây phương có câu “Đừng bao giờ đánh giá cuốn sách qua bìa sách” (never judge a book by its cover), cũng giông giống như chúng ta hay nói “không nên xem mặt đặt tên”. Dùng cách nói đó, thiết tưởng tôi cũng có thể nói không nên đánh giá một nhà khoa học qua trường đại học hay viện nghiên cứu mà nhà khoa học công tác hay tốt nghiệp. Trong thực tế, không ít giáo sư trong các đại học nổi tiếng ở Tây phương, kể cả giáo sư gốc Việt, cũng rất xoàng xĩnh, chứ chẳng phải là giáo sư hạng "đẳng cấp quốc tế" gì cả.

Ở Việt Nam ta, tiêu chuẩn để tiến phong giáo sư đang là một vấn đề thời sự. Có ý kiến cho rằng tiêu chuẩn còn quá thấp, nhưng cũng có ý kiến tiêu chuẩn quá cao. Trong một lần trả lời phỏng vấn đăng trên VietNamNet ngày 11/3/2004 (http://vietnamnet.vn/giaoduc/vande/2004/03/54931), Thư kí hội đồng chức danh giáo sư nhà nước (Giáo sư Đỗ Trần Cát) cho biết : « Mỗi ứng viên cho chức danh giáo sư phải có 2 điểm - tương đương với hai công trình - đăng trong các tạp chí uy tín », và mỗi ngành chỉ có hai « tạp chí uy tín » ở trong nước, hiểu theo nghĩa « nếu đăng ở đấy thì nó khó, chất lượng cao hơn. Còn việc chọn đâu là hai tạp chí uy tín của mỗi ngành thì do hội đồng ngành đề xuất, hội đồng thường trực sẽ thông qua. Còn các bài báo đăng ở tạp chí khoa học ngoài nước tất nhiên là không hạn chế rồi ». Nói cách khác, theo qui định này, để đề bạt chức vụ giáo sư, ứng viên chỉ cần có 2 bài báo khoa học ! Tôi nghĩ những tiêu chuẩn này chẳng những quá thấp, mà còn chưa đủ vì, như đã nói trên, con số bài báo không thể phản ánh chất lượng nghiên cứu.

Bất cứ thời nào, bất cứ ở đâu, bất cứ ngành nào đều có những rác rưởi được đánh bóng và xuất hiện dưới danh nghĩa "công trình nghiên cứu khoa học". Ngày nay, trên thế giới có khoảng 108.000 tập san gọi là “khoa học”, và con số vẫn còn tăng hàng năm. Thành ra, một công trình nghiên cứu dù cho có chất lượng thấp cỡ nào đi nữa, và nếu tác giả kiên trì theo đuổi, thì nó cũng được in trong một tập san nào đó. Herbert Simon (giải Nobel kinh tế học) từng nói một câu chí lí: Sự dồi dào thông tin tạo nên tình trạng thiếu tập trung (“A wealth of information creates a poverty of attention”). Theo phân tích của Viện thông tin khoa học (Institute of Scientific Information, ISI) có khoảng 55% các bài báo khoa học trên thế giới không bao giờ được ai trích dẫn, không bao giờ được ai (kể các chính tác giả) tham khảo sau 5 năm công bố ! Ngay cả trong số được trích dẫn, cũng chỉ rất … lèo tèo. Chỉ có trên dưới 1% bài báo khoa học được trích dẫn hơn 6 lần mà thôi (trong vòng 5 năm). Điều này có nghĩa là không không thể nào đánh giá khả năng của nhà khoa học qua con số lượng bài báo, và càng không đánh giá công trình khoa học chỉ vì công trình đã được công bố, mà phải xét đến số lần trích dẫn.

Xã hội có quyền đặt kì vọng cao vào những người mang chức danh "giáo sư", bởi vì họ là một phần của bộ mặt của khoa học Việt Nam. Người dân muốn thấy những người mang chức danh giáo sư phải có khả năng tương xứng với đồng nghiệp quốc tế. Trong chiều hướng hội nhập quốc tế có lẽ đã đến lúc chúng ta xem xét lại các tiêu chuẩn chất lượng trong việc xem xét đề bạt giáo sư ở nước ta. Đành rằng cũng cần phải xem xét đến các điều kiện mang tính địa phương trong khi đề bạt giáo sư, nhưng các hoạt động khoa học thì lại mang tính quốc tế, và không có lí do gì các thước đo khách quan mà đa số nước trên thế giới đang sử dụng không áp dụng cho nước ta.


200 năm Darwin
Agent Orange: collateral damage
Alexandre Yersin và Việt Nam
Bàn về hiệu quả vắcxin: lâm sàng và kinh tế
Bàn về vấn đề dịch thuật và đánh giá năng suất khoa học
Béo phì ở người Á châu
Béo phì ở trẻ em và virus
Bình luận từ Dr. Yến
Bưởi không gây ung thư vú
Bảo hiểm y tế cộng đồng
Bảo tồn môi sinh: Chiến tranh giữa hai thế giới
Bằng chứng khoa học thay vì lên lớp
Bệnh tả: không để Việt Nam thành Bangladesh thứ hai
Bệnh tật nhìn từ quan điểm của thuyết tiến hóa
Bệnh xơ hóa cơ delta qua y văn thế giới
Bổ sung kẽm và điều trị bệnh tả
Bộ gen trong cây lúa và triển vọng
Bộ Y tế phản ứng chậm với rét đậm
Chiều cao của người Việt
Chiều cao và tổng thống Mĩ
Cholesterol và bệnh Tim
Cholesterol: hung thần hay bạn?
Chuột và... các nhà khoa học
Chính sách y tế cần dựa vào bằng chứng khoa học
Chạy đua vũ khí và … dịch cúm
Chất béo, cholesterol, bệnh tim và statins: xét lại bằng chứng
Chất keo xã hội: hormones
Chất lượng nghiên cứu dịch tễ học và y tế cộng đồng của Việt Nam qua chỉ số H
Chất lượng nghiên cứu khoa học ở Việt Nam qua chỉ số trích dẫn
Chất vấn chuẩn chẩn đoán béo phì
Chế độ ăn uống với nhiều thịt động vật và nguy cơ tử vong
Chủng vi khuẩn tả hiện nay ở nước ta có phải mới xuất hiện?
Cuộc chiến hóa học phi pháp lớn nhất trong lịch sử chiến tranh
Câu chuyện y học: Leptin và béo phì
Có bao nhiêu bác sĩ viết chữ khó đọc
Có nên tập trung vào vi khuẩn E. coli ?
Có thể xảy ra đại dịch cúm gia cầm?
Công cụ đơn giản để chẩn đoán tiểu đường ở người Đông Nam Á
Cúm gia cầm và nhiễu thông tin
Cúm H1N1: biết và chưa biết
Cơ hội để khép lại một chương lịch sử đau lòng
Cần hiểu đúng về Ung thư và nguy cơ ung thư
Cần qui ước đạo đức cho kĩ nghệ thực phẩm
Cần tiêm chủng ngừa bệnh tả vùng có nguy cơ cao
Cần điều tra về chất lượng bệnh viện
Cổ phần hóa bệnh viện công và chất lượng
Cổ phần hóa: chưa phải cách duy nhất
DDT và vấn đề cân đối giữa lợi ích và nguy hiểm
Dinh dưỡng: một nguồn thuốc quí giá
DNA không nói dối, nhưng DNA có thể nói … sai
Dịch cúm gà: hoang mang và sự thật khoa học
Dịch cúm heo và tác hại kinh tế
Dịch tay-chân-miệng
Dịch tả: gọi đúng tên để phòng ngừa
Dựa vào khoa học, đừng dựa vào niềm tin!
E. coli – vài câu hỏi thông thường
Gen và bệnh tật
Ghen tuông dưới cái nhìn của tâm lí y khoa
Gian lận trong nghiên cứu khoa học: áp lực kinh tế và cơ chế bình duyệt
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC: KHƠI DẬY VÀ NUÔI DƯỠNG TÍNH HAM HỌC
Giải nobel y học hay sinh lí học 2007 và lợi ích cho người bệnh
Giải Nobel Y sinh học 2008 và những tranh chấp khoa học
Giải Nobel y sinh học 2010 vinh danh người đem niềm vui cho người vô sinh
Giải Nobel y sinh học năm 2005: Một cõi đi về với vi khuẩn
Giải Nobel y sinh học: Nhìn lại quãng đường 100 năm
Giải phẫu ghép mặt và vấn đề y đức
Gout ở xương sống
Gãy xương và tử vong: một vấn nạn y tế cộng đồng
Hiệu quả vắcxin có nghĩa gì?
Hoa vàng mấy độc
Hàm lượng đạm trong sữa “siêu thấp” hay “siêu cao”?
Hóa chất khai hoang trong cuộc chiến Viện Nam: Qui mô và tầm ảnh hưởng
Hướng đi nào để giải quyết vấn đề chất độc da cam ở Việt Nam
Hậu “mắm tôm được minh oan”: bằng chứng khoa học, nhà xí và nghiên cứu
Hệ Thống Học Vị Và Học Hàm Khoa Học Ở Vài Nước Tây Phương
Hợp tác khoa học kiểu nhảy dù - Nguyễn Văn Tuấn
Khi bác sĩ trẻ “khoe” quá nhiều
Khoa học và ngụy khoa học: một vài đặc điểm và khác biệt cần biết
Khoa học, xã hội, và rủi ro
Không thể thành Phù Đổng trong 20 năm!
Khẩu trang và phòng chống cúm A/H1N1
Kiểm định giả thuyết mắm tôm và vi khuẩn tả
Liều lượng melamine bao nhiêu là an toàn?
Lí lịch sinh học của heo và dấu vết văn minh nông nghiệp Đông Nam Á
Lượng giá mạng sống con người
Lợi ích của vitamin D
Miệng nhà quan
Mắm tôm có phải là “thủ phạm” gây bệnh tả? Xét lại bằng chứng khoa học
Mắm tôm và chuyện xin lỗi
Mắm tôm và dịch tả: phân biệt yếu tố nguy cơ và nguyên nhân
Mắm tôm vô tội!
Mắm tôm, nguyên nhân và hệ quả
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Một bệnh hiếm X-linked recessive hypoparathyroidism
Một lần đi phỏng vấn
Một năm nhìn lại
Một phán quyết thiếu cơ sở khoa học
Một vài hiểu lầm tai hại
Một vài ngộ nhận về nghiên cứu khoa học
Một vài vấn đề về qui định chức danh giáo sư ở Việt Nam
Một vụ Madoff trong y khoa: Lại một ngôi sao y khoa rơi rụng!
Mỡ trắng, mỡ nâu
Mỡ  trong máu, huyết áp, và  tiểu đường
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nguyên nhân bệnh tiêu chảy
Ngó trên tay điếu thuốc đã lụi dần
Người cao tuổi và sự hạn chế của y khoa
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Nhân chuyện dịch tả nhớ lại John Snow
Nhân câu chuyện điện não đồ xét nghiệm nghiện ma túy:
Nhân năm khỉ_nguồn gốc con người hiện đại
Nhân năm Tý bàn chuyện thí nghiệm trên chuột
Nhìn lại khoa học Việt Nam năm 2008 qua công bố quốc tế
Nhầm lẫn trong y khoa: Khá phổ biến, nhưng ít ai biết!
Những câu hỏi và trả lời về dịch gia cầm
Những sai sót khó tin nhưng có thật
Những sai sót nguy hiểm trong toa thuốc
Những điều khó tin về “Bảy điều khó tin nhất trong y học”
Năm lí do cho mắm tôm “vô tội”
Phán quyết sau cùng: Chất béo không ảnh hưởng đến ung thư và bệnh tim
Phát hiện gien kiểm soát ráy tai: vài bài học về mò kim đáy biển
Phòng chống bệnh phải dựa vào bằng chứng khoa học!
Phòng chống H1N1 bằng rửa tay và khẩu trang: Biện pháp nào hiệu quả hơn?
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao và cân nặng: thiếu cơ sở khoa học và kì thị giới tính
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao: vấn đề giả định và bằng chứng khoa học
Quyền phê phán và trí thức
Quyền được tiếp cận hồ sơ bệnh án
Quản lý chất lượng: Thuốc phòng "tai nạn y khoa"
Rửa tay bằng xà phòng và tiêu chảy
Serotonin có liên quan đến chứng đột tử
Suy dinh dưỡng ở trẻ em: vấn đề của kinh tế
Sàng lọc trẻ sơ sinh trên phạm vi toàn quốc
Tai nạn y khoa trong bệnh viện
Thế nào là một "bài báo khoa học"
Thế nào là “Cơ sở khoa học” ?
Thịt chó là nguyên nhân của bệnh tiêu chảy cấp tính?
Thịt chó và bệnh tả: nguyên nhân và yếu tố nguy cơ
Tiên lượng bệnh Alzheimer bằng protein expression ?
Tiêu chuẩn chất lượng giáo dục đại học
Tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì cho người Việt - Nguyễn Văn Tuấn
Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh đái tháo đường (diabetes mellitus)
Tiêu chuẩn đề bạt giáo sư: Có nên căn cứ vào số lượng bài báo ?
Tiêu chảy cấp tính và bệnh tả: Định danh cho đúng
Truy tìm ung thư bằng mammography từ tuổi 50
Truyền thông và khoa học: Qui ước Ingelfinger
Truyền thông và y tế
Truyền thông, khoa học và … doanh nghiệp
Trà xanh và sức khỏe
Trách nhiệm và nhân đạo trong vấn đề chất độc da cam
Trái chanh và phòng chống bệnh tả
Trả lời những câu hỏi liên quan đến loãng xương
Trọng lượng cơ thể và tử vong ở người Trung Quốc: Ý nghĩa về việc xác định tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì
Tuổi thọ của người dân giảm 10 năm ?
Tác dụng Placebo trong y học: Tâm lí và ý nghĩa
Tình yêu, sắc đẹp nhìn dưới quan điểm di truyền học
Tín hiệu môi trường từ những “làng ung thư”
Tính khoa học và minh bạch đằng sau xét nghiệm doping
Tại sao không phát biểu về nguyên nhân và hệ quả ?
Tại sao uống rượu gây đỏ mặt và nguy cơ ung thư thực quản
Tạo sinh vô tính và cái chết của Thượng đế
Tạo sinh vô tính và vấn đề sinh đạo đức
Tản mạn về SARS
Tỉ lệ tử vong do cúm heo là bao nhiêu ?
Tự trị, chất lượng và y đức thay vì cổ phần hóa bệnh viện công
Ung thư vú và vấn đề thông tin y khoa
Uống bia hấp dẫn muỗi
Vaccine phòng chống AIDS hiệu quả đến đâu ?
Vaccine phòng chống cúm A/H1N1
Vi khuẩn gây tiêu chảy và ý nghĩa tiêm chủng
Vi khuẩn tả trong chó ?
Viết văn có thể chữa nhiều loại bệnh
Viết văn và trị liệu
Việc ta, ta cứ làm!
Vài nhận xét về 12 điều lệ y đức của Việt Nam
Vài thông tin cần biết về các chương trình truy tìm ung thư vú
Vài đóng góp quan trọng của người Việt khoa học thống kê
Văn hóa khoa học
Văn hóa tranh luận và vấn đề ngụy biện
Vấn đề sinh tố: kẽm và đồng
Vấn đề truy tìm ung thư phổi và hiệu quả 
Vấn đề y đức trong nghiên cứu tế bào mầm (stem cells)
Vấn đề đo lường melamine
Vấn đề đào tạo tiến sĩ: kinh nghiệm từ Australia
Vắc-xin phòng chống ung thư cổ tử cung
Vắcxin ngừa viêm gan B: cẩn thận với “nhiễu thông tin”
Vắcxin ngừa viêm gan B: kinh nghiệm từ nước ngoài
Vắcxin phòng bệnh sởi - quai bị - Rubella: lợi và hại
Vắcxin phòng chống ung thư cổ tử cung: hiệu quả lâm sàng và kinh tế
Vắcxin phòng ngừa bệnh tả: rất cần thiết
Về chấn chỉnh đào tạo tiến sĩ: Công bố bài báo khoa học là một thách thức lớn ?
Về học vị tiến sĩ
Về một sự hiểu lầm thuật ngữ "prospective"
Về phản ứng phụ của bisphosphonates liên quan đến hoại tử xương hàm và rung nhĩ
Vệ sinh như là một loại hàng hóa
Vị thế của nền khoa học Việt Nam
Xung quang xì căng đan về nghiên cứu tế bào mầm
Xã hội hóa và an toàn thực phẩm
Xếp hạng đại học: cần minh bạch hóa phương pháp
Y học hiện đại và những hứa hẹn
Y học thực chứng: vài nét khái quát
Y Khoa và những nhầm lẫn chết người
Y tế dự phòng: nền tảng của y khoa hiện đại
Y đức và nghiên cứu y học
Ói mửa, cao huyết áp và hôn mê
Ăn chay như là một trị liệu
Ăn chay và loãng xương
Điều trị bệnh dựa vào màu da ?
Điều trị đau dây thần kinh tọa bằng phẫu thuật: không có hiệu quả
Đo lường hiệu suất khoa học
Đánh giá đúng tầm quan trọng của ung thư vú 
Đại dịch H1N1
Đại dịch và đại dịch ảo
Đại dịch đã đến ?
Đạo văn trong hoạt động khoa học
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đằng sau những con số hàm lượng đạm trong sữa
Đế quốc Trà
Đề bạt các chức danh khoa bảng: vài kinh nghiệm từ Úc
Đọc lại 12 điều y đức của Việt Nam
Đồi điều về sữa nhiễm melamine
Đừng quên melamine trong các thực phẩm khác!
Ước vọng 200 ?
“Kỹ năng mềm” cho nhà khoa học
“Sẽ” và “có thể”


Trang nhiều tác giả
Trang riêng của Lê Ngọc Dũng
Trang riêng của Lương Lễ Hoàng
Trang riêng của Nguyễn Bảo Trung
Trang riêng của Nguyễn Hoài Nam
Trang riêng của Nguyễn Hữu Đức
Trang riêng của Nguyễn Văn Tuấn
Trang riêng của Nguyễn Ý Đức
Trang riêng của Nguyễn Đình Nguyên
Trang riêng của Phan Xuân Trung
Trang riêng của Đỗ Hồng Ngọc
Trang riêng của Đỗ Minh Tuấn