NGUYỄN VĂN TUẤN

Hàm lượng đạm trong sữa công nghiệp và sữa mẹ

Nguyễn Văn Tuấn

Thông tin trên báo chí trong thời gian qua cho biết hàm lượng đạm trong một số sữa mà các nhà sản xuất quảng cáo trên bao bì không đúng với hàm lượng thật.  Hàm lượng đạm thật trong các sản phẩm này được đánh giá là “siêu thấp”. Nhưng đọc kĩ các thông tin trên báo, tôi lại nghĩ hàm lượng đạm trong các sản phẩm sữa đó quá cao, hay ít ra là cao hơn những chuẩn quốc tế đề ra.  Vấn đề hàm lượng đạm quá cao đặt ra câu hỏi về các thành phần dinh dưỡng khác trong các sản phẩm sữa này có thể bất bình thường và có khả năng tác động tiêu cực đến sức khỏe.

Không cần nói ra, ai cũng biết rằng sữa là một nguồn dinh dưỡng quan trọng cho trẻ trong thời kì tăng trưởng.  Dinh dưỡng trong những năm đầu cuộc sống có ảnh hưởng đến sự phát triển của cơ thể và bệnh tật về sau.  Sữa mẹ là một nguồn dinh dưỡng lí tưởng nhất cho trẻ sơ sinh, bởi vì sữa mẹ cung cấp đầy đủ các chất đạm, khoáng và carbohydrate cần thiết và an toàn để cơ thể phát triển.  Sữa mẹ còn có khả năng bảo vệ trẻ chống các bệnh nhiễm trong quá trình phát triển.  Chính vì thế mà các nhà y học khuyến khích các bà mẹ cho con bú sữa mẹ trong 6 tháng đầu sau khi sinh.

Nhưng một số bà mẹ thiếu sữa, hay do một lí do bất khả kháng nào đó, không thể cho con mình bú sữa, thì sữa công nghiệp là một nguồn dinh dưỡng cũng quan trọng không kém sữa mẹ.  Sữa công nghiệp được sản xuất bằng qui trình kĩ nghệ, và mô phỏng theo các thành phần dinh dưỡng trong sữa mẹ.  Các thành phần dinh dưỡng trong sữa có thể chia thành 4 nhóm chính: đạm (protein), chất béo, carbohydrate, và chất khoáng (bao gồm calcium và các sinh tố A, C và phosphorus).  Vì vai trò đặc biệt của sữa đối với sự phát triển của trẻ (và ý nghĩa nòi giống dân tộc), cho nên hàm lượng và phẩm chất của các chất dinh dưỡng này phải được kiểm soát chặt chẽ.  Tổ chức Y tế thế giới (WHO), Tổ chức Lương nông thế giới (FAO), và các hiệp hội nhi khoa đã đề ra những qui định về hàm lượng các chất dinh dưỡng tối thiểu cần có trong sữa (1), và đề nghị các nhà sản xuất phải ghi rõ hàm lượng ngoài bao bì (1,2). 

Tuần qua, qua báo chí, công chúng mới biết rằng có nhiều sữa hiện lưu hành trên thị trường có hàm lượng đạm không giống như những gì nhà sản xuất công bố.  Trong số 99 mẫu sữa được Viện Vệ sinh y tế công cộng kiểm nghiệm, có đến 37 mẫu có hàm lượng đạm thấp hơn hàm lượng ghi trên bao bì!  Rất dễ hiểu khi công chúng phản ứng rất gay gắt trước thông tin này. 

Thông tin mù mờ

Một thông tin khác cho biết gần 100% mẫu sữa ở TP.HCM có hàm lượng đạm thấp.  Tuy nhiên, đọc kĩ các thông tin trong bài báo, người viết bài này không tìm thấy một chuẩn nào để xác định hàm lượng đạm là thấp hay cao.  Những gì nhà sản xuất ghi trên bao bì chỉ có thể nói là quảng cáo, chào hàng, chứ không thể xem là “chuẩn” được.  Do đó, không thể dựa vào những gì nhà sản xuất công bố hay quảng cáo để phát biểu sản phẩm của họ có đạt chuẩn hay không. 

Một khó khăn khác là hầu hết các bài báo nói đến phần trăm hàm lượng đạm (như câu văn “hàm lượng protid của sữa bột […] theo công bố là 34%, nhưng thực tế kiểm nghiệm là 14,97%”) nhưng chúng ta không biết những con số phần trăm này là gì.  Cố nhiên, con số phần trăm phải có tử số và mẫu số.  Ở đây chúng ta biết (hay hi vọng là biết) rằng tử số là hàm lượng đạm, nhưng còn mẫu số là gì thì không ai rõ cả, và cũng chẳng có phóng viên nào giải thích!

Trong thực tế, có hai cách đánh giá hàm lượng đạm trong sữa.  Cách thứ nhất là lấy hàm lượng đạm (thường đo bằng gram) chia cho trọng lượng sữa (tính bằng gram hoặc millilitre).  Cách thứ hai là lấy hàm lượng đạm chia cho số năng lượng (tính bằng joule hoặc calorie; 1 joule bằng 0,2390 calorie).  Trong y học, các nhà nghiên cứu thường mô tả hàm lượng đạm tương đối với năng lượng, và đơn vị đo lường là g/kcal.  Nhưng các nhà sản xuất thường mô tả hàm lượng đạm so với trọng lượng, tức đơn vị đo lường phần trăm. 

Giá trị tham chiếu

Nếu các chỉ số hàm lượng đạm được báo chí tường thuật hiện nay là số gram đạm trên 100 g sữa, thì câu hỏi đặt ra là hàm lượng đạm trong sữa trên thị trường nước ta cao hay thấp?  Hàm lượng đạm trong sữa là một đề tài vẫn còn trong vòng tranh cãi giữa các chuyên gia nhi khoa, và chưa ai biết được hàm lượng tối ưu.  Hàm lượng các chất dinh dưỡng nói chung thay đổi theo thời gian, sau khi có bằng chứng khoa học mới nhất.  Trong thời gian gần đây, có ý kiến được nhiều người chấp nhận là nên giảm hàm lượng đạm trong sữa công nghiệp, vì có bằng chứng cho thấy khi trẻ uống nhiều chất đạm trong những năm đầu dễ trở thành béo phì khi trưởng thành (3,4). 

            Ở các nước phương Tây ngày nay, hàm lượng đạm (trong sữa cho trẻ) tính trên kcal năng lượng là khoảng 2 g / 100 kcal (tức khoảng 1,3% trọng lượng sữa).  Một nghiên cứu mới đây cho thấy tỉ số đạm trên năng lượng khoảng 1,7 g / 100 kcal là đầy đủ cho hệ thống nội tiết – chuyển hóa nhưng có thể không “an toàn” bởi vì có thể làm tăng trọng lượng cho trẻ (5).  Tuy nhiên, quan tâm “an toàn” này có lẽ không thích hợp cho phần lớn trẻ Việt Nam vì trọng lượng sinh của trẻ nước ta tương đối thấp hơn trẻ người da trắng. 

            Hai năm trước, các chuyên gia nhi khoa quốc tế qua hội thảo đã đề suất giá trị tham chiếu cho hàm lượng tối thiểu và tối đa cho một số chất dinh dưỡng trong sữa dành cho trẻ.  Theo đề suất này, hàm lượng đạm trong sữa bò tối thiểu là 1,8 g /100 kcal và tối đa 3 g /100 kcal (xem bảng dưới đây).

 

Thành phần chất dinh dưỡng trong sữa cho trẻ do các chuyên gia nhi khoa đề nghị

 

Thành phần

Đơn vị

Hàm lượng tối thiểu

Hàm lượng tối đa

Năng lượng

kcal / 100 g

60

70

Đạm sữa bò

g / 100 kcal

1,8

3,0

Chất béo

g / 100 kcal

4,4

6,0

Carbohydrate

g / 100 kcal

9,0

14,0

Calcium

mg / 100 kcal

50,0

140,0

 

Nguồn: Koletzko B, et al. Global standard for the composition of infant formula: recommendations of an ESPGHAN coordinated international expert group.  Journal of Pediatric Gastroenterology and Nutrition 2005; 41:584-599.

 

            Nhưng có lẽ câu hỏi quan trọng hơn là hàm lượng đạm trên 100 g sữa bao nhiêu là đầy đủ?  Trả lời câu hỏi này còn tùy thuộc vào số năng lượng trên mỗi 100 g sữa.  Ở các nước phương Tây, các sản phẩm sữa của các nhà sản xuất lớn và có uy tín có khoảng 60 đến 70 kilocalorie (kcal) trên 100 g sữa.  Do đó, các chuẩn trong bảng trên có thể tương đương với 1,2 g (tối thiểu) và 1,95 g (tối đa) hàm lượng đạm cho mỗi 100 g sữa (hay nói theo ngôn ngữ báo chí hiện nay là từ 1,2% đến 2%). 

“Siêu thấp” hay “siêu cao”?

            Ở Úc, loại sữa thông dụng nhất hàm chứa 3,4 g / 100 kcal, tức tương đương 2,2% trọng lượng (6).  Ở Việt Nam, sữa của một số hãng cũng hàm chứa khoảng 3 đến 4 g đạm trong 100 mL (xem bảng dưới đây). 

Thành phần chất dinh dưỡng trong một số sữa lưu hành trên thị trường

 

Sản phẩm sữa

Hàm lượng một số chất dinh dưỡng trong 100 mL sữa

Đạm (g)

Chất béo (g)

Carbohydrate (g)

Vinamilk

3,0

3,4

4,5

Ensure Gold

3,72

3,27

13,4

Enplus (Nuti)

3,74

3,35

14,7

Cô gái Hà Lan (trẻ)

2,7

3,1

9,1

Similac (trẻ)

1,9

4,1

7,7

Dumex

1,4

3,3

7,8

 

            Nhưng kết quả phân tích hàm lượng đạm do Sở Y tế TPHCM báo cáo cho ra một “bức tranh” khác.  Trong số 27 sản phẩm sữa phân tích, có 6 sản phẩm có hàm lượng đạm thấp hơn 1,2%, 19 sản phẩm với hàm lượng đạm cao hơn 2% (có sản phẩm với hàm lượng đạm lên đến 27,8%!)  Chỉ có 2 sản phẩm mà hàm lượng đạm nằm trong khoảng 1,2% đến 2%.  Như vậy, dù lượng đạm trong sữa của các nhà sản xuất thấp hơn những gì họ quảng cáo, nhưng không phải tất cả đều “siêu thấp”.  Thật ra, “siêu cao” thì đúng hơn! 

            Thật ra, như đề cập trên, chúng ta không biết 27,8% có nghĩa là 27,8 g đạm trên 100 mL sữa, hay 27,8 g trên 100 kcal năng lượng.  Nhưng giả dụ rằng 27,8 g trên 100 kcal năng lượng, và cứ 100 mL sữa hàm chứa 70 kcal năng lượng, thì con số 27,8% cũng có nghĩa là trong mỗi 100 mL có 19,4 g trên 100 mL sữa, tức vẫn còn cao. 

            Nếu thật sự (vì vẫn chưa chắc chắn) hàm lượng đạm quá cao của các sản phẩm sữa này đặt ra nhiều câu hỏi khác: tại sao hàm lượng đạm quá cao?  Các thành phần dinh dưỡng khác như chất béo, carbohydrate, calcium, v.v.. là bao nhiêu?  Nếu hàm lượng đạm thực tế không như các nhà sản xuất quảng cáo (ghi trên bao bì) thì các thành phần dinh dưỡng khác cũng có thể cũng không chính xác. 

Vấn đề có lẽ quan trọng hơn là nếu hàm lượng đạm quá cao, có thể thành phần các chất dinh dưỡng khác cũng sẽ bất bình thường.  Như đề cập trong phần đầu của bài viết, sữa công nghiệp được sản xuất với công thức hóa học “bắt chước” theo thành phần dinh dưỡng trong sữa mẹ.  Nói cách khác sữa mẹ là chuẩn.  Do đó, nếu thành phần dinh dưỡng của các loại sữa “có vấn đề” hiện nay không phù hợp với chuẩn của sữa mẹ, và xã hội có lí do để quan tâm.

Về với sữa mẹ!

Sữa công nghiệp không thể thay thế sữa mẹ (7).  Đó là một chân lí mà giới y khoa phương Tây đã nhận thức được trong thời gian qua (nhưng chân lí chẳng có gì mới đối với Việt Nam vì ông bà chúng ta đã biết điều đó cả ngàn năm qua).  Tuy nhiên, một xu hướng không mấy tích cực hiện nay ở nước ta là càng ngày càng có ít bà mẹ cho con bú sữa mẹ.  Theo một nghiên cứu thực hiện tại Thành phố Hồ Chí Minh vào năm 2002, chỉ có 53% bà mẹ cho con bú sữa mẹ, một tỉ lệ thấp hơn cả những bà mẹ ở các nước phương Tây (8).  Trước đó, một điều tra do Tổ chức Y tế thế giới thực hiện ở nước ta cũng ghi nhận một tỉ lệ tương tự.  Những nghiên cứu này cũng chỉ ra rằng có một số không nhỏ bà mẹ trẻ ở Việt Nam nghĩ rằng sữa công nghiệp bổ dưỡng hơn sữa mẹ, nhưng rất tiếc đó là một suy nghĩ không đúng.

            Sữa công nghiệp chứa nhiều sinh tố, chất khoáng, đạm và chất béo với thành phần cấu trúc được bào chế giống như sữa mẹ.  Nhưng phần lớn sữa công nghiệp hoặc thiếu hoặc không hàm chứa kháng thể, không có các tế bào sống, không có yếu tố tăng trưởng (growth factors), không có enzymes hay hormone, những yếu tố sinh học này vốn có trong sữa mẹ và đóng vai trò quan trọng cho sự phát triển của trẻ.  Ngược lại, sữa công nghiệp hàm chứa nhiều chất đạm (hay trong trường hợp hiện nay có một số sữa chứa quá nhiều chất đạm) hơn sữa mẹ, và đó là một điều không tốt. 

            Tóm lại, những phân tích trên đây cho thấy hàm lượng đạm trong một số sữa đang lưu hành trên thị trường có thể cao hơn trung bình, chứ chưa hẳn “siêu thấp”.  Và, vấn đề này đặt ra nhiều câu hỏi liên quan đến hàm lượng các chất dinh dưỡng khác có thể mất cân đối so với sữa mẹ.  Đó cũng là một lời nhắc nhở về sự quí báu của sữa mẹ mà một số bà mẹ Việt chưa nhận thức đầy đủ.  Những lùm xùm chung quanh vấn đề hàm lượng đạm trong sữa công nghiệp là một lời cảnh tỉnh rằng: đối với trẻ mới sinh không có chất dinh dưỡng gì có thể thay thế sữa mẹ.

             

Chú thích và tài liệu tham khảo:

(1) Koletzko B. Standards for infant formular milk.  British Medical Journal 18/3/2006.

(2) Koletzko B, et al. Global standard for the composition of infant formula: recommendations of an ESPGHAN coordinated international expert group.  Journal of Pediatric Gastroenterology and Nutrition 2005; 41:584-599.

(3) Rolland-Cachera MF, et al. Influence of macronutrients on adiposity development: a follow-up study of nutrition and growth from 10 months to 8 years.  International Journal of Obesity and Related Metabolic Disorders 1995; 19:573-578.

(4) Agostoni C, et al. How much protein is safe?  International Journal of Obesity 2005; 29:S8-S13.

(5) Fomon SJ, et al. Infant formula with protein-energy ratio of 1.76 g / 100 kcal is adequate but may not be safe.  Journal of Pediatric Gastroenterology and Nutrition 1999; 28:495-501.

(6) Sữa mà tôi chọn là sản phẩm của nhà sản xuất Dairy Farmers.  Theo thông tin ghi trên bao bì, năng lượng là 65 kcal trên 100 g sữa.  Thành phần dinh dưỡng ghi trên bao bì (tính trên 100 kcal) như sau: đạm 3,4 g; chất béo 3,6 g; carbohydrate 4,8 g; sodium 49 mg; và calcium 118 mg.

(7) Motil K, et al. Infant feeding: a critical look at infant formulas. Current Opinions in Pediatrics 2000; 12:469-476.

(8) Liubai L, et al. Prevalence of breast-feeding and its correlates in Ho Chi Minh City, Vietnam. Pediatrics International, 2002; 44:47-54.


200 năm Darwin
Agent Orange: collateral damage
Alexandre Yersin và Việt Nam
Bàn về hiệu quả vắcxin: lâm sàng và kinh tế
Bàn về vấn đề dịch thuật và đánh giá năng suất khoa học
Béo phì ở người Á châu
Béo phì ở trẻ em và virus
Bình luận từ Dr. Yến
Bưởi không gây ung thư vú
Bảo hiểm y tế cộng đồng
Bảo tồn môi sinh: Chiến tranh giữa hai thế giới
Bằng chứng khoa học thay vì lên lớp
Bệnh tả: không để Việt Nam thành Bangladesh thứ hai
Bệnh tật nhìn từ quan điểm của thuyết tiến hóa
Bệnh xơ hóa cơ delta qua y văn thế giới
Bổ sung kẽm và điều trị bệnh tả
Bộ gen trong cây lúa và triển vọng
Bộ Y tế phản ứng chậm với rét đậm
Chiều cao của người Việt
Chiều cao và tổng thống Mĩ
Cholesterol và bệnh Tim
Cholesterol: hung thần hay bạn?
Chuột và... các nhà khoa học
Chính sách y tế cần dựa vào bằng chứng khoa học
Chạy đua vũ khí và … dịch cúm
Chất béo, cholesterol, bệnh tim và statins: xét lại bằng chứng
Chất keo xã hội: hormones
Chất lượng nghiên cứu dịch tễ học và y tế cộng đồng của Việt Nam qua chỉ số H
Chất lượng nghiên cứu khoa học ở Việt Nam qua chỉ số trích dẫn
Chất vấn chuẩn chẩn đoán béo phì
Chế độ ăn uống với nhiều thịt động vật và nguy cơ tử vong
Chủng vi khuẩn tả hiện nay ở nước ta có phải mới xuất hiện?
Cuộc chiến hóa học phi pháp lớn nhất trong lịch sử chiến tranh
Câu chuyện y học: Leptin và béo phì
Có bao nhiêu bác sĩ viết chữ khó đọc
Có nên tập trung vào vi khuẩn E. coli ?
Có thể xảy ra đại dịch cúm gia cầm?
Công cụ đơn giản để chẩn đoán tiểu đường ở người Đông Nam Á
Cúm gia cầm và nhiễu thông tin
Cúm H1N1: biết và chưa biết
Cơ hội để khép lại một chương lịch sử đau lòng
Cần hiểu đúng về Ung thư và nguy cơ ung thư
Cần qui ước đạo đức cho kĩ nghệ thực phẩm
Cần tiêm chủng ngừa bệnh tả vùng có nguy cơ cao
Cần điều tra về chất lượng bệnh viện
Cổ phần hóa bệnh viện công và chất lượng
Cổ phần hóa: chưa phải cách duy nhất
DDT và vấn đề cân đối giữa lợi ích và nguy hiểm
Dinh dưỡng: một nguồn thuốc quí giá
DNA không nói dối, nhưng DNA có thể nói … sai
Dịch cúm gà: hoang mang và sự thật khoa học
Dịch cúm heo và tác hại kinh tế
Dịch tay-chân-miệng
Dịch tả: gọi đúng tên để phòng ngừa
Dựa vào khoa học, đừng dựa vào niềm tin!
E. coli – vài câu hỏi thông thường
Gen và bệnh tật
Ghen tuông dưới cái nhìn của tâm lí y khoa
Gian lận trong nghiên cứu khoa học: áp lực kinh tế và cơ chế bình duyệt
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC: KHƠI DẬY VÀ NUÔI DƯỠNG TÍNH HAM HỌC
Giải nobel y học hay sinh lí học 2007 và lợi ích cho người bệnh
Giải Nobel Y sinh học 2008 và những tranh chấp khoa học
Giải Nobel y sinh học 2010 vinh danh người đem niềm vui cho người vô sinh
Giải Nobel y sinh học năm 2005: Một cõi đi về với vi khuẩn
Giải Nobel y sinh học: Nhìn lại quãng đường 100 năm
Giải phẫu ghép mặt và vấn đề y đức
Gout ở xương sống
Gãy xương và tử vong: một vấn nạn y tế cộng đồng
Hiệu quả vắcxin có nghĩa gì?
Hoa vàng mấy độc
Hàm lượng đạm trong sữa “siêu thấp” hay “siêu cao”?
Hóa chất khai hoang trong cuộc chiến Viện Nam: Qui mô và tầm ảnh hưởng
Hướng đi nào để giải quyết vấn đề chất độc da cam ở Việt Nam
Hậu “mắm tôm được minh oan”: bằng chứng khoa học, nhà xí và nghiên cứu
Hệ Thống Học Vị Và Học Hàm Khoa Học Ở Vài Nước Tây Phương
Hợp tác khoa học kiểu nhảy dù - Nguyễn Văn Tuấn
Khi bác sĩ trẻ “khoe” quá nhiều
Khoa học và ngụy khoa học: một vài đặc điểm và khác biệt cần biết
Khoa học, xã hội, và rủi ro
Không thể thành Phù Đổng trong 20 năm!
Khẩu trang và phòng chống cúm A/H1N1
Kiểm định giả thuyết mắm tôm và vi khuẩn tả
Liều lượng melamine bao nhiêu là an toàn?
Lí lịch sinh học của heo và dấu vết văn minh nông nghiệp Đông Nam Á
Lượng giá mạng sống con người
Lợi ích của vitamin D
Miệng nhà quan
Mắm tôm có phải là “thủ phạm” gây bệnh tả? Xét lại bằng chứng khoa học
Mắm tôm và chuyện xin lỗi
Mắm tôm và dịch tả: phân biệt yếu tố nguy cơ và nguyên nhân
Mắm tôm vô tội!
Mắm tôm, nguyên nhân và hệ quả
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Một bệnh hiếm X-linked recessive hypoparathyroidism
Một lần đi phỏng vấn
Một năm nhìn lại
Một phán quyết thiếu cơ sở khoa học
Một vài hiểu lầm tai hại
Một vài ngộ nhận về nghiên cứu khoa học
Một vài vấn đề về qui định chức danh giáo sư ở Việt Nam
Một vụ Madoff trong y khoa: Lại một ngôi sao y khoa rơi rụng!
Mỡ trắng, mỡ nâu
Mỡ  trong máu, huyết áp, và  tiểu đường
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nguyên nhân bệnh tiêu chảy
Ngó trên tay điếu thuốc đã lụi dần
Người cao tuổi và sự hạn chế của y khoa
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Nhân chuyện dịch tả nhớ lại John Snow
Nhân câu chuyện điện não đồ xét nghiệm nghiện ma túy:
Nhân năm khỉ_nguồn gốc con người hiện đại
Nhân năm Tý bàn chuyện thí nghiệm trên chuột
Nhìn lại khoa học Việt Nam năm 2008 qua công bố quốc tế
Nhầm lẫn trong y khoa: Khá phổ biến, nhưng ít ai biết!
Những câu hỏi và trả lời về dịch gia cầm
Những sai sót khó tin nhưng có thật
Những sai sót nguy hiểm trong toa thuốc
Những điều khó tin về “Bảy điều khó tin nhất trong y học”
Năm lí do cho mắm tôm “vô tội”
Phán quyết sau cùng: Chất béo không ảnh hưởng đến ung thư và bệnh tim
Phát hiện gien kiểm soát ráy tai: vài bài học về mò kim đáy biển
Phòng chống bệnh phải dựa vào bằng chứng khoa học!
Phòng chống H1N1 bằng rửa tay và khẩu trang: Biện pháp nào hiệu quả hơn?
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao và cân nặng: thiếu cơ sở khoa học và kì thị giới tính
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao: vấn đề giả định và bằng chứng khoa học
Quyền phê phán và trí thức
Quyền được tiếp cận hồ sơ bệnh án
Quản lý chất lượng: Thuốc phòng "tai nạn y khoa"
Rửa tay bằng xà phòng và tiêu chảy
Serotonin có liên quan đến chứng đột tử
Suy dinh dưỡng ở trẻ em: vấn đề của kinh tế
Sàng lọc trẻ sơ sinh trên phạm vi toàn quốc
Tai nạn y khoa trong bệnh viện
Thế nào là một "bài báo khoa học"
Thế nào là “Cơ sở khoa học” ?
Thịt chó là nguyên nhân của bệnh tiêu chảy cấp tính?
Thịt chó và bệnh tả: nguyên nhân và yếu tố nguy cơ
Tiên lượng bệnh Alzheimer bằng protein expression ?
Tiêu chuẩn chất lượng giáo dục đại học
Tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì cho người Việt - Nguyễn Văn Tuấn
Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh đái tháo đường (diabetes mellitus)
Tiêu chuẩn đề bạt giáo sư: Có nên căn cứ vào số lượng bài báo ?
Tiêu chảy cấp tính và bệnh tả: Định danh cho đúng
Truy tìm ung thư bằng mammography từ tuổi 50
Truyền thông và khoa học: Qui ước Ingelfinger
Truyền thông và y tế
Truyền thông, khoa học và … doanh nghiệp
Trà xanh và sức khỏe
Trách nhiệm và nhân đạo trong vấn đề chất độc da cam
Trái chanh và phòng chống bệnh tả
Trả lời những câu hỏi liên quan đến loãng xương
Trọng lượng cơ thể và tử vong ở người Trung Quốc: Ý nghĩa về việc xác định tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì
Tuổi thọ của người dân giảm 10 năm ?
Tác dụng Placebo trong y học: Tâm lí và ý nghĩa
Tình yêu, sắc đẹp nhìn dưới quan điểm di truyền học
Tín hiệu môi trường từ những “làng ung thư”
Tính khoa học và minh bạch đằng sau xét nghiệm doping
Tại sao không phát biểu về nguyên nhân và hệ quả ?
Tại sao uống rượu gây đỏ mặt và nguy cơ ung thư thực quản
Tạo sinh vô tính và cái chết của Thượng đế
Tạo sinh vô tính và vấn đề sinh đạo đức
Tản mạn về SARS
Tỉ lệ tử vong do cúm heo là bao nhiêu ?
Tự trị, chất lượng và y đức thay vì cổ phần hóa bệnh viện công
Ung thư vú và vấn đề thông tin y khoa
Uống bia hấp dẫn muỗi
Vaccine phòng chống AIDS hiệu quả đến đâu ?
Vaccine phòng chống cúm A/H1N1
Vi khuẩn gây tiêu chảy và ý nghĩa tiêm chủng
Vi khuẩn tả trong chó ?
Viết văn có thể chữa nhiều loại bệnh
Viết văn và trị liệu
Việc ta, ta cứ làm!
Vài nhận xét về 12 điều lệ y đức của Việt Nam
Vài thông tin cần biết về các chương trình truy tìm ung thư vú
Vài đóng góp quan trọng của người Việt khoa học thống kê
Văn hóa khoa học
Văn hóa tranh luận và vấn đề ngụy biện
Vấn đề sinh tố: kẽm và đồng
Vấn đề truy tìm ung thư phổi và hiệu quả 
Vấn đề y đức trong nghiên cứu tế bào mầm (stem cells)
Vấn đề đo lường melamine
Vấn đề đào tạo tiến sĩ: kinh nghiệm từ Australia
Vắc-xin phòng chống ung thư cổ tử cung
Vắcxin ngừa viêm gan B: cẩn thận với “nhiễu thông tin”
Vắcxin ngừa viêm gan B: kinh nghiệm từ nước ngoài
Vắcxin phòng bệnh sởi - quai bị - Rubella: lợi và hại
Vắcxin phòng chống ung thư cổ tử cung: hiệu quả lâm sàng và kinh tế
Vắcxin phòng ngừa bệnh tả: rất cần thiết
Về chấn chỉnh đào tạo tiến sĩ: Công bố bài báo khoa học là một thách thức lớn ?
Về học vị tiến sĩ
Về một sự hiểu lầm thuật ngữ "prospective"
Về phản ứng phụ của bisphosphonates liên quan đến hoại tử xương hàm và rung nhĩ
Vệ sinh như là một loại hàng hóa
Vị thế của nền khoa học Việt Nam
Xung quang xì căng đan về nghiên cứu tế bào mầm
Xã hội hóa và an toàn thực phẩm
Xếp hạng đại học: cần minh bạch hóa phương pháp
Y học hiện đại và những hứa hẹn
Y học thực chứng: vài nét khái quát
Y Khoa và những nhầm lẫn chết người
Y tế dự phòng: nền tảng của y khoa hiện đại
Y đức và nghiên cứu y học
Ói mửa, cao huyết áp và hôn mê
Ăn chay như là một trị liệu
Ăn chay và loãng xương
Điều trị bệnh dựa vào màu da ?
Điều trị đau dây thần kinh tọa bằng phẫu thuật: không có hiệu quả
Đo lường hiệu suất khoa học
Đánh giá đúng tầm quan trọng của ung thư vú 
Đại dịch H1N1
Đại dịch và đại dịch ảo
Đại dịch đã đến ?
Đạo văn trong hoạt động khoa học
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đằng sau những con số hàm lượng đạm trong sữa
Đế quốc Trà
Đề bạt các chức danh khoa bảng: vài kinh nghiệm từ Úc
Đọc lại 12 điều y đức của Việt Nam
Đồi điều về sữa nhiễm melamine
Đừng quên melamine trong các thực phẩm khác!
Ước vọng 200 ?
“Kỹ năng mềm” cho nhà khoa học
“Sẽ” và “có thể”


Trang nhiều tác giả
Trang riêng của Lê Ngọc Dũng
Trang riêng của Lương Lễ Hoàng
Trang riêng của Nguyễn Bảo Trung
Trang riêng của Nguyễn Hoài Nam
Trang riêng của Nguyễn Hữu Đức
Trang riêng của Nguyễn Văn Tuấn
Trang riêng của Nguyễn Ý Đức
Trang riêng của Nguyễn Đình Nguyên
Trang riêng của Phan Xuân Trung
Trang riêng của Đỗ Hồng Ngọc
Trang riêng của Đỗ Minh Tuấn