NGUYỄN VĂN TUẤN

Tản mạn cuối tuần:

Quyền phê phán và trí thức

Nguyễn Văn Tuấn 

YKHOANET 10/04/2008 - Hôm nay đọc trên ykhoanet.com bài “Tâm sự về thông tin dịch bệnh” của một bác sĩ kí tên ĐKT rất thú vị.  Qua bài này tôi mới biết báo Sức khỏe & Đời sống có đăng ý kiến của Bs Bùi Trọng Chiến (viện trưởng Viện Pasteur Nha Trang) về mấy bài của tôi và Bs Lê Đình Phương trên báo chí.  Trong bài, BS Chiến có mở đầu: “Trong thời gian gần đây, có rất nhiều tác giả, nhiều cơ quan báo chí nói về E.Coli, Coliforms, vai trò của chúng và sự liên quan giữa chúng đến các bệnh tiêu chảy, trong đó có bệnh tả. Nhiều tác giả phân tích lý giải theo hướng sai lầm, chủ yếu là phê phán ảnh hưởng đến công tác chuyên môn. Chúng tôi thấy cần thiết phải giải thích lại rõ ràng hơn để tránh hiểu lầm”.

Bs ĐKT đã chỉ ra sai lầm trong phát biểu trên rằng “Rõ ràng […] chỉ có chỉ số E.Coli là chỉ điểm tốt nhất cho sự ô nhiễm nước từ phân người (hoặc động vật); còn Coliform tổng số, Coliform chịu nhiệt là chỉ điểm không chắc chắn cho sự nhiễm bẩn từ phân vì nó còn bao gồm nhiều vi khuẩn không xuất phát từ phân. Nhưng BS Chiến lại kết luận trong bài viết là ‘Như vậy, việc các cơ quan chức năng sử dụng coliforms tổng số hay coliforms chịu nhiệt để đánh giá sự ô nhiễm của nguồn nước, thực phẩm có nguồn gốc là từ phân liên quan đến vi khuẩn đường ruột là đúng’; như vậy ai là người ‘hiểu lầm’ hoặc ‘lý giải theo hướng sai lầm’ hay làm cho người khác trở nên như vậy?”

            Bạn đọc nào muốn biết thêm về vi khuẩn/vi trùng trong thực phẩm có thể đọc tài liệu sau đây để biết người ta làm ra sao. Chú ý trong đó, có đoạn viết về E. coli và các vi trùng / khuẩn khác (trang 6): “However valuable such information may be, it should never be interpreted as indicating with certainty that faecal contamination has occurred.”  Các quan như Bs Chiến nên đọc (và hiểu nhé) để biết ai là người “hiểu lầm”.

Tuy nhiên, tôi chú ý đến câu trên của ông Chiến không phải vì thông tin hay kiến thức dịch tễ học hay kiến thức về vi trùng / vi khuẩn (mà theo tôi là có vấn đề) nhưng vì thái độ của các quan chức y tế.  Theo bạn Chiến thì các bài của tôi và Bs Phương “chủ yếu là phê phán ảnh hưởng đến công tác chuyên môn.”  Nói cách khác, chúng tôi không nên phê phán các quan chức, hay nói một cách thẳng thừng như ông quan NVDũng là “không được quyền phê phán” họ.   

Một xã hội mà trong đó người dân không được quyền hay không được khuyến khích phê phán, phản biện thì xã hội đó rất nghèo nàn và sẽ chẳng bao giờ phát triển được.  Truyền thống phê phán và phản biện thật ra chẳng mới gì đối với Việt Nam ta.  Có thể xem Trạng Quỳnh, Tú Xương, Phan Khôi, hay gần hơn chút như Bút Tre, hay đương thời như Gs Nguyễn Lân Dũng, Gs Nguyễn Sĩ Dũng, Ts Lê  Đăng Doanh, Ts Nguyễn Quang A, cựu thủ tướng Võ Văn Kiệt, v.v… là những nhà phản biện xã hội.  Họ là những nhà trí thức thật sự theo cách hiểu của tác giả Chu Hảo  

Còn ở Tây phương, có thể nói đó là những xã hội phê phán.  Hàng ngày chúng tôi theo dõi báo chí Tây phương đầy dẫy những phản biện xã hội, nhưng phê phán (có khi rất nặng) các quan chức Nhà nước.  Chỉ một vụ tử vong vì nhầm lẫn y khoa là ông Bộ trưởng y tế suýt mất chức, và một ê kíp phẫu thuật phải chịu búa rìu của dư luận báo chí.  Trong các trường trung học và đại học họ có những “Debate Society” (hội tranh luận) mà trong đó các sinh viên chia thành nhiều phe để tranh luận về một đề tài thời sự nào đó.  Thật ra, ngay từ tiểu học, văn hóa tranh luận đã được phát huy triệt để.  Tôi còn nhớ lúc theo đứa con tôi vào lớp tiểu học, thấy cô giáo chia lớp học thành hai nhóm bắt chước như trong Quốc hội Úc: một nhóm đóng vai “chính phủ” và một nhóm đóng vai “đối lập”.  Mấy cô cậu “chính trị gia” cãi nhau chí chóe về ô nhiễm môi trường và đủ thứ vấn đề xã hội khác.   

Thành ra, không ngạc nhiên khi thấy khi lên đại học, sinh viên được khuyến khích chất vấn tối đa.  Trong lớp học sau giờ thầy giảng một là đến phần sinh viên đặt câu hỏi.  Anh chị nào đặt câu hỏi hay nhất (hiểu theo nghĩa có suy nghĩ nhất hay thậm chí hóc búa nhất) được đánh giá là sinh viên giỏi.  Sinh viên nào chỉ ra những sai sót trong bài giảng của giáo sư hay “bắt bí” được giáo sư họ được xem là sinh viên tốt.  Do đó, trong các chương trình học sau đại học, khi đánh giá sinh viên, giáo sư không chỉ dựa vào điểm thi mà còn dựa vào sự năng nổ và thói quen đặt câu hỏi, đặt vấn đề của sinh viên.   

Quay lại câu chuyện một số (tôi nhấn mạnh chữ “một số”, chứ không phải tất cả) quan chức y tế nước ta không quen với văn hóa phản biện, không quen với việc bị phê phán, tôi thấy đó là một điều đáng tiếc.  Theo giới tâm lí học, không dám tham gia phản biện là dấu hiệu của những triệu chứng sau đây:  

  • Quan liêu và xem dân như những kẻ ngu dốt;
  • Làm dáng ta đây là người quan trọng;
  • Thiếu tự tin về chuyên môn ;
  • Thiếu kiến thức khoa học;
  • Bất tài.

(Bạn đọc có thể thêm vài triệu chứng khác nữa, nhưng tôi sẽ dừng lại 4 triệu chứng trên).  

Nói đến vấn đề thông tin, tuần qua tôi có nhận một email từ một bác sĩ trẻ khác đại khái nói rằng các thông tin từ các tập san khoa học mà tôi trình bày rất có ích cho anh ấy, nhưng còn băn khoăn không biết tôi trích dẫn thông tin có chính xác hay không, hay là chỉ trích dẫn cái gì phù hợp với quan điểm của tôi.  Đọc câu này tôi hơi ngỡ ngàng: chẳng lẽ từng tuổi này với bao nhiêu năm làm việc trong y khoa mà tôi không biết trích dẫn thông tin khoa học ư?  Trích dẫn những gì phù hợp với quan điểm mình chẳng có gì sai nhưng đó là cách làm phản khoa học và phiến diện.  Đó là bài học căn bản, bài học 101 của nghiên cứu khoa học mà tôi thiết tưởng ai cũng phải biết!  Thật ra, tôi biết có nhiều bác sĩ thậm chí còn không biết tìm tài liệu trong PubMed ra sao, chứ nói gì đến việc trích dẫn thông tin!  Đó là chưa nói đến chuyện hiểu tiếng Anh, cũng là một rào cản đáng kể cho các chuyên gia trong nước.  

Lại có người cho rằng tôi và bạn tôi trích dẫn thông tin khoa học nhiều quá, và nghĩ rằng chắc có lẽ tại chúng tôi muốn khoe, muốn lòe bạn đọc.  Đọc ý kiến này cũng làm tôi buồn một chút, nhưng chắc đó là ý kiến phản ảnh văn hóa khoa học mà thôi.  Điều này làm tôi nhớ đến những lần thảo luận với các sếp lớn của tôi ngày xưa.  Hôm đó, chúng ta thảo luận về một đề tài liên quan đến neuroendocrinology (thần kinh nội tiết học), có đồng nghiệp nói rằng anh ta tin có sự liên quan giữa não và hệ thống điều tiết trong xương.  Sếp tôi quay lại hỏi: bằng chứng đâu?  Anh đồng nghiệp nói chỉ là niềm tin cá nhân thôi, chứ anh ấy không có bằng chứng.  Sếp quát lớn: Đây là y học chứ không phải tôn giáo nghe chưa, nói cái gì thì phải có bằng chứng: ai viết, tập san nào, năm mấy, số liệu ra sao. Lần sau anh đừng có làm tôi mất thì giờ nữa nhé!  Một bài học nhớ đời cho anh bạn và cho cả tôi.  Do đó, chúng tôi trở thành có thói quen rất dị ứng (hay nói thẳng ra là rất ghét) những phát biểu không có bằng chứng.  Trình bày dữ liệu và nguồn dữ liệu không phải để lòe ai, mà là để nói rằng: có bằng chứng đấy nhé.  Còn cách hiểu và diễn giải dữ liệu như thế nào thì là một lĩnh vực khác.  

Các quan chức cho rằng chúng ta – người dân – không có quyền phê phán ảnh hưởng đến công tác phòng bệnh của họ.  Có lẽ chúng ta nên đặt câu hỏi ngược lại: nếu họ vẫn khăng khăng làm theo những gì họ tin là đúng thì có thể gây tác hại, ảnh hưởng xấu đến cộng đồng, đến doanh nghiệp?  Có một câu chuyện mà sinh viên y khoa ngoài này thường được kể và tôi xin kể lại như sau.  Hôm đó, một giáo sư là một nhà phẫu thuật nổi tiếng thế giới nói chuyện trong buổi “grand round”, ông giới thiệu kĩ thuật mổ mới của ông mà theo ông là rất hiệu quả có thể cứu sống nhiều bệnh nhân.  Khi ông giảng xong, một bác sĩ trẻ giơ tay xin hỏi: “Thưa thầy, em xin hỏi kĩ thuật mới của thầy đã được đánh giá qua một nghiên cứu lâm sàng chưa ạ?”  Vị giáo sư già, với một thái độ kẻ cả đầy tự tin, một tay tháo kính trắng ra, mắt nhìn thẳng vào đám đông phía dưới, ông giễu cợt: “Thế ý anh muốn nói rằng tôi phải để cho phân nửa bệnh nhân của tôi phải chết vì không được điều trị bằng kĩ thuật của tôi à?”  (Xin nói thêm rằng để làm nghiên cứu lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên – randomized clinical trial – phân nửa bệnh nhân được điều trị bằng phương pháp chuẩn và phân nửa được điều trị bằng phương pháp mới).  Cả hội trường cười ầm lên và ông giáo sư thấy mình đắc thắng.  Thế nhưng anh bác sĩ trẻ vẫn chưa chịu thua, anh ta nhỏ nhẹ hỏi lại “Xin hỏi thầy là phân nửa nào phải chết ạ?” Ông giáo sư hiểu ra ngay câu nói, sắc diện đi từ đỏ sang xanh, và bắt đầu nói tiếng … Đan Mạch.  

Hàm ý của câu chuyện trên là: không có bằng chứng thì đứng có nói huyênh hoang.  Thấy một nhóm bệnh nhân từng ăn mắm tôm không có nghĩa mắm tôm là nguyên nhân gây bệnh.  Quan sát một nhóm là điều kiện cần, nhưng chưa đủ để đi đến kết luận.  Không có lí do gì để tin rằng các quan điểm của quan chức là đúng, cho dù các quan chức đó có bao nhiêu học hàm hay học vị (bất kể thật hay dỏm) sau cái tên của họ.  Lịch sử y khoa đã trải qua quá nhiều sai lầm vì những niềm tin vô bằng chứng như thế.   

Tôi phải quay lại với vai trò phản biện của trí thức.  Bs ĐKT sợ “phạm thượng” và tôi cũng thông cảm.  Nhưng tôi vẫn thấy có cái gì lấn cấn ở đây.  Tôi xem giới y khoa là một thành phần “trí thức” (cứ tạm gọi như thế).  Mà, trí thức thì phải có “đạo đức trí thức” như Lão Tử từng nói: Biết mà không làm là bất nhân. Thấy mà không nói là bất nghĩa. Nếu biết chuyện và có bằng chứng rõ ràng thì mình phải lên tiếng.  Nếu thấy chuyện mà mình nghĩ là sai quấy thì cũng cần phải phát biểu bày tỏ ý kiến.  Viết đến đây tôi chợt nhớ một tuồng cải lương nay tôi quên mất tựa đề mà trong đó nghệ sĩ Út Trà Ôn nói: Kiến nghĩa bất vì vô dõng giả, lâm nguy bất cứu mạc anh hùng.  Ở Nam Bộ, cuối thế kỉ 18, nổi tiếng có võ Ba Giồng (nay thuộc tỉnh Tiền Giang), chuyên dạy võ để rèn luyện thể chất, giúp con người vượt qua thử thách, hiểm nguy, bệnh tật ở vùng đất mới, và trau dồi nhân cách theo tinh thần thượng võ.  Tôi đang lạc đề…

Trong một bài viết mới đây, giáo sư Chu Hảo viết về trí thức mà tôi xin trích để làm câu kết của bài tản mạn lan man nhân ngày cuối tuần này:  

tầng lớp trí thức của xã hội có thiên chức sau: Tiếp thu và truyền bá tri thức hoặc/và văn hóa; Sáng tạo các giá trị mới của tri thức hoặc/và văn hóa; Đề xuất, phản biện một cách độc lập các chủ trương chính sách và biện pháp giải quyết các vấn đề của xã hội; Dự báo và định hướng dư luận xã hội. 

Xã hội văn minh nào cũng phải có một tầng lớp trí thức ưu tú như vậy. Trong lịch sử dân tộc ta, thời nào cũng có những trí thức kiệt xuất. Tầng lớp sỹ phu trong những triều đại hưng thịnh của nước ta rõ ràng có nhiều điểm tương đồng với khái niệm tầng lớp trí thức như được nói đến ở trên.  

Ngày nay trong cụm từ “Liên minh Công – Nông – Trí” tôi ngờ rằng chúng ta đã dùng từ “trí” để chỉ những người lao động trí óc (kỹ sư, bác sỹ, nhà văn, họa sỹ, v.v…) chứ không phải là trí thức theo cách hiểu thông thường của thế giới hiện đại. Trong số rất đông những người lao động trí óc đó chỉ có một số là trí thức thực thụ mà thôi. “Một số” này đã quy tụ lại (chủ yếu là thông qua diễn đàn, dư luận) thành một tầng lớp trí thức với đúng nghĩa của nó hay chưa vẫn còn là một vấn đề cần được thảo luận. 

Đã là trí thức thì ở nước nào cũng vậy, thời đại nào cũng vậy, đều có tính cách chung là: tôn thờ lý tưởng Chân – Thiện – Mỹ; độc lập tư duy; hoài nghi lành mạnh; và tự do sáng tạo. Tuy nhiên mỗi dân tộc đều có tính cách riêng, tầng lớp trí thức của mỗi dân tộc cũng có bản sắc riêng. 

Chúng ta thường nghe nói: trí thức Trung Hoa thâm thúy (thâm nho), trí thức Nhật khiêm tốn (đến khách khí), trí thức Nga sâu sắc đôn hậu, trí thức Mỹ thực dụng, trí thức Anh lạnh lùng tỉnh táo, trí thức Pháp hào hoa phong nhã v.v… Vậy trí thức Việt Nam có đặc điểm gì? Tôi đã từng nghe ông K.G. nói đến tính cách “phò chính thống”; bà P.T.H. nói đến tính cách “quan văn”, tựu chung lại là tính “thích được chính quyền sử dụng”. Có nhiều người nói là tính cách “tùy thời”, nghe có vẻ dễ chịu hơn chữ “cơ hội” hay là “hèn” mà một số bạn đồng nghiệp của chúng ta không ngại ngần khẳng định. Nguyên cớ gì mà phải “hèn”? Đã “hèn” làm sao có nhân cách? Thiếu nhân cách liệu có xứng đáng là trí thức? Nhiều ý kiến cho rằng bi kịch của giới trí thức Việt Nam chính là ở chỗ này! Nhưng như vậy có lẽ chưa được công bằng cho lắm! Vậy thực sự trí thức Việt Nam có đặc tính gì? 

[…] Ngày nay, khi đất nước ta đang bước sang một thời kỳ mới, thời kỳ tiếp tục đổi mới toàn diện, hội nhập vào nền kinh tế tri thức toàn cầu thì vai trò và trách nhiệm của tầng lớp trí thức càng quan trọng và nặng nề hơn. Đổi mới càng sâu sắc và toàn diện càng đòi hỏi phải đổi mới tư duy triệt để; muốn vậy phải có tầm trí tuệ rất cao. Tầm trí tuệ cao ấy phải có sự can dự của tầng lớp trí thức ưu tú của dân tộc. 

Toàn cầu hóa buộc chúng ta phải hội nhập một cách ngang tầm trong mọi lĩnh vực. Trí thức Việt Nam cũng phải phấn đấu để có thể ngang tầm với tầng lớp trí thức của các nước tiên tiến khác. Điều đó thật không dễ dàng nếu chúng ta thẳng thắn và dũng cảm nhìn vào thực trạng đội ngũ trí thức nước nhà. Không ai nâng cao được vai trò của trí thức nếu giới trí thức của chúng ta không tự khẳng định được mình! Không ai san sẻ trách nhiệm với trí thức được; chỉ có trí thức mới thi hành được thiên chức của mình; vinh quang và cay đắng gắn liền với thiên chức ấy cũng chỉ dành riêng cho giới trí thức mà thôi! 

 


200 năm Darwin
Agent Orange: collateral damage
Alexandre Yersin và Việt Nam
Bàn về hiệu quả vắcxin: lâm sàng và kinh tế
Bàn về vấn đề dịch thuật và đánh giá năng suất khoa học
Béo phì ở người Á châu
Béo phì ở trẻ em và virus
Bình luận từ Dr. Yến
Bưởi không gây ung thư vú
Bảo hiểm y tế cộng đồng
Bảo tồn môi sinh: Chiến tranh giữa hai thế giới
Bằng chứng khoa học thay vì lên lớp
Bệnh tả: không để Việt Nam thành Bangladesh thứ hai
Bệnh tật nhìn từ quan điểm của thuyết tiến hóa
Bệnh xơ hóa cơ delta qua y văn thế giới
Bổ sung kẽm và điều trị bệnh tả
Bộ gen trong cây lúa và triển vọng
Bộ Y tế phản ứng chậm với rét đậm
Chiều cao của người Việt
Chiều cao và tổng thống Mĩ
Cholesterol và bệnh Tim
Cholesterol: hung thần hay bạn?
Chuột và... các nhà khoa học
Chính sách y tế cần dựa vào bằng chứng khoa học
Chạy đua vũ khí và … dịch cúm
Chất béo, cholesterol, bệnh tim và statins: xét lại bằng chứng
Chất keo xã hội: hormones
Chất lượng nghiên cứu dịch tễ học và y tế cộng đồng của Việt Nam qua chỉ số H
Chất lượng nghiên cứu khoa học ở Việt Nam qua chỉ số trích dẫn
Chất vấn chuẩn chẩn đoán béo phì
Chế độ ăn uống với nhiều thịt động vật và nguy cơ tử vong
Chủng vi khuẩn tả hiện nay ở nước ta có phải mới xuất hiện?
Cuộc chiến hóa học phi pháp lớn nhất trong lịch sử chiến tranh
Câu chuyện y học: Leptin và béo phì
Có bao nhiêu bác sĩ viết chữ khó đọc
Có nên tập trung vào vi khuẩn E. coli ?
Có thể xảy ra đại dịch cúm gia cầm?
Công cụ đơn giản để chẩn đoán tiểu đường ở người Đông Nam Á
Cúm gia cầm và nhiễu thông tin
Cúm H1N1: biết và chưa biết
Cơ hội để khép lại một chương lịch sử đau lòng
Cần hiểu đúng về Ung thư và nguy cơ ung thư
Cần qui ước đạo đức cho kĩ nghệ thực phẩm
Cần tiêm chủng ngừa bệnh tả vùng có nguy cơ cao
Cần điều tra về chất lượng bệnh viện
Cổ phần hóa bệnh viện công và chất lượng
Cổ phần hóa: chưa phải cách duy nhất
DDT và vấn đề cân đối giữa lợi ích và nguy hiểm
Dinh dưỡng: một nguồn thuốc quí giá
DNA không nói dối, nhưng DNA có thể nói … sai
Dịch cúm gà: hoang mang và sự thật khoa học
Dịch cúm heo và tác hại kinh tế
Dịch tay-chân-miệng
Dịch tả: gọi đúng tên để phòng ngừa
Dựa vào khoa học, đừng dựa vào niềm tin!
E. coli – vài câu hỏi thông thường
Gen và bệnh tật
Ghen tuông dưới cái nhìn của tâm lí y khoa
Gian lận trong nghiên cứu khoa học: áp lực kinh tế và cơ chế bình duyệt
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC: KHƠI DẬY VÀ NUÔI DƯỠNG TÍNH HAM HỌC
Giải nobel y học hay sinh lí học 2007 và lợi ích cho người bệnh
Giải Nobel Y sinh học 2008 và những tranh chấp khoa học
Giải Nobel y sinh học 2010 vinh danh người đem niềm vui cho người vô sinh
Giải Nobel y sinh học năm 2005: Một cõi đi về với vi khuẩn
Giải Nobel y sinh học: Nhìn lại quãng đường 100 năm
Giải phẫu ghép mặt và vấn đề y đức
Gout ở xương sống
Gãy xương và tử vong: một vấn nạn y tế cộng đồng
Hiệu quả vắcxin có nghĩa gì?
Hoa vàng mấy độc
Hàm lượng đạm trong sữa “siêu thấp” hay “siêu cao”?
Hóa chất khai hoang trong cuộc chiến Viện Nam: Qui mô và tầm ảnh hưởng
Hướng đi nào để giải quyết vấn đề chất độc da cam ở Việt Nam
Hậu “mắm tôm được minh oan”: bằng chứng khoa học, nhà xí và nghiên cứu
Hệ Thống Học Vị Và Học Hàm Khoa Học Ở Vài Nước Tây Phương
Hợp tác khoa học kiểu nhảy dù - Nguyễn Văn Tuấn
Khi bác sĩ trẻ “khoe” quá nhiều
Khoa học và ngụy khoa học: một vài đặc điểm và khác biệt cần biết
Khoa học, xã hội, và rủi ro
Không thể thành Phù Đổng trong 20 năm!
Khẩu trang và phòng chống cúm A/H1N1
Kiểm định giả thuyết mắm tôm và vi khuẩn tả
Liều lượng melamine bao nhiêu là an toàn?
Lí lịch sinh học của heo và dấu vết văn minh nông nghiệp Đông Nam Á
Lượng giá mạng sống con người
Lợi ích của vitamin D
Miệng nhà quan
Mắm tôm có phải là “thủ phạm” gây bệnh tả? Xét lại bằng chứng khoa học
Mắm tôm và chuyện xin lỗi
Mắm tôm và dịch tả: phân biệt yếu tố nguy cơ và nguyên nhân
Mắm tôm vô tội!
Mắm tôm, nguyên nhân và hệ quả
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Một bệnh hiếm X-linked recessive hypoparathyroidism
Một lần đi phỏng vấn
Một năm nhìn lại
Một phán quyết thiếu cơ sở khoa học
Một vài hiểu lầm tai hại
Một vài ngộ nhận về nghiên cứu khoa học
Một vài vấn đề về qui định chức danh giáo sư ở Việt Nam
Một vụ Madoff trong y khoa: Lại một ngôi sao y khoa rơi rụng!
Mỡ trắng, mỡ nâu
Mỡ  trong máu, huyết áp, và  tiểu đường
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nguyên nhân bệnh tiêu chảy
Ngó trên tay điếu thuốc đã lụi dần
Người cao tuổi và sự hạn chế của y khoa
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Nhân chuyện dịch tả nhớ lại John Snow
Nhân câu chuyện điện não đồ xét nghiệm nghiện ma túy:
Nhân năm khỉ_nguồn gốc con người hiện đại
Nhân năm Tý bàn chuyện thí nghiệm trên chuột
Nhìn lại khoa học Việt Nam năm 2008 qua công bố quốc tế
Nhầm lẫn trong y khoa: Khá phổ biến, nhưng ít ai biết!
Những câu hỏi và trả lời về dịch gia cầm
Những sai sót khó tin nhưng có thật
Những sai sót nguy hiểm trong toa thuốc
Những điều khó tin về “Bảy điều khó tin nhất trong y học”
Năm lí do cho mắm tôm “vô tội”
Phán quyết sau cùng: Chất béo không ảnh hưởng đến ung thư và bệnh tim
Phát hiện gien kiểm soát ráy tai: vài bài học về mò kim đáy biển
Phòng chống bệnh phải dựa vào bằng chứng khoa học!
Phòng chống H1N1 bằng rửa tay và khẩu trang: Biện pháp nào hiệu quả hơn?
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao và cân nặng: thiếu cơ sở khoa học và kì thị giới tính
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao: vấn đề giả định và bằng chứng khoa học
Quyền phê phán và trí thức
Quyền được tiếp cận hồ sơ bệnh án
Quản lý chất lượng: Thuốc phòng "tai nạn y khoa"
Rửa tay bằng xà phòng và tiêu chảy
Serotonin có liên quan đến chứng đột tử
Suy dinh dưỡng ở trẻ em: vấn đề của kinh tế
Sàng lọc trẻ sơ sinh trên phạm vi toàn quốc
Tai nạn y khoa trong bệnh viện
Thế nào là một "bài báo khoa học"
Thế nào là “Cơ sở khoa học” ?
Thịt chó là nguyên nhân của bệnh tiêu chảy cấp tính?
Thịt chó và bệnh tả: nguyên nhân và yếu tố nguy cơ
Tiên lượng bệnh Alzheimer bằng protein expression ?
Tiêu chuẩn chất lượng giáo dục đại học
Tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì cho người Việt - Nguyễn Văn Tuấn
Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh đái tháo đường (diabetes mellitus)
Tiêu chuẩn đề bạt giáo sư: Có nên căn cứ vào số lượng bài báo ?
Tiêu chảy cấp tính và bệnh tả: Định danh cho đúng
Truy tìm ung thư bằng mammography từ tuổi 50
Truyền thông và khoa học: Qui ước Ingelfinger
Truyền thông và y tế
Truyền thông, khoa học và … doanh nghiệp
Trà xanh và sức khỏe
Trách nhiệm và nhân đạo trong vấn đề chất độc da cam
Trái chanh và phòng chống bệnh tả
Trả lời những câu hỏi liên quan đến loãng xương
Trọng lượng cơ thể và tử vong ở người Trung Quốc: Ý nghĩa về việc xác định tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì
Tuổi thọ của người dân giảm 10 năm ?
Tác dụng Placebo trong y học: Tâm lí và ý nghĩa
Tình yêu, sắc đẹp nhìn dưới quan điểm di truyền học
Tín hiệu môi trường từ những “làng ung thư”
Tính khoa học và minh bạch đằng sau xét nghiệm doping
Tại sao không phát biểu về nguyên nhân và hệ quả ?
Tại sao uống rượu gây đỏ mặt và nguy cơ ung thư thực quản
Tạo sinh vô tính và cái chết của Thượng đế
Tạo sinh vô tính và vấn đề sinh đạo đức
Tản mạn về SARS
Tỉ lệ tử vong do cúm heo là bao nhiêu ?
Tự trị, chất lượng và y đức thay vì cổ phần hóa bệnh viện công
Ung thư vú và vấn đề thông tin y khoa
Uống bia hấp dẫn muỗi
Vaccine phòng chống AIDS hiệu quả đến đâu ?
Vaccine phòng chống cúm A/H1N1
Vi khuẩn gây tiêu chảy và ý nghĩa tiêm chủng
Vi khuẩn tả trong chó ?
Viết văn có thể chữa nhiều loại bệnh
Viết văn và trị liệu
Việc ta, ta cứ làm!
Vài nhận xét về 12 điều lệ y đức của Việt Nam
Vài thông tin cần biết về các chương trình truy tìm ung thư vú
Vài đóng góp quan trọng của người Việt khoa học thống kê
Văn hóa khoa học
Văn hóa tranh luận và vấn đề ngụy biện
Vấn đề sinh tố: kẽm và đồng
Vấn đề truy tìm ung thư phổi và hiệu quả 
Vấn đề y đức trong nghiên cứu tế bào mầm (stem cells)
Vấn đề đo lường melamine
Vấn đề đào tạo tiến sĩ: kinh nghiệm từ Australia
Vắc-xin phòng chống ung thư cổ tử cung
Vắcxin ngừa viêm gan B: cẩn thận với “nhiễu thông tin”
Vắcxin ngừa viêm gan B: kinh nghiệm từ nước ngoài
Vắcxin phòng bệnh sởi - quai bị - Rubella: lợi và hại
Vắcxin phòng chống ung thư cổ tử cung: hiệu quả lâm sàng và kinh tế
Vắcxin phòng ngừa bệnh tả: rất cần thiết
Về chấn chỉnh đào tạo tiến sĩ: Công bố bài báo khoa học là một thách thức lớn ?
Về học vị tiến sĩ
Về một sự hiểu lầm thuật ngữ "prospective"
Về phản ứng phụ của bisphosphonates liên quan đến hoại tử xương hàm và rung nhĩ
Vệ sinh như là một loại hàng hóa
Vị thế của nền khoa học Việt Nam
Xung quang xì căng đan về nghiên cứu tế bào mầm
Xã hội hóa và an toàn thực phẩm
Xếp hạng đại học: cần minh bạch hóa phương pháp
Y học hiện đại và những hứa hẹn
Y học thực chứng: vài nét khái quát
Y Khoa và những nhầm lẫn chết người
Y tế dự phòng: nền tảng của y khoa hiện đại
Y đức và nghiên cứu y học
Ói mửa, cao huyết áp và hôn mê
Ăn chay như là một trị liệu
Ăn chay và loãng xương
Điều trị bệnh dựa vào màu da ?
Điều trị đau dây thần kinh tọa bằng phẫu thuật: không có hiệu quả
Đo lường hiệu suất khoa học
Đánh giá đúng tầm quan trọng của ung thư vú 
Đại dịch H1N1
Đại dịch và đại dịch ảo
Đại dịch đã đến ?
Đạo văn trong hoạt động khoa học
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đằng sau những con số hàm lượng đạm trong sữa
Đế quốc Trà
Đề bạt các chức danh khoa bảng: vài kinh nghiệm từ Úc
Đọc lại 12 điều y đức của Việt Nam
Đồi điều về sữa nhiễm melamine
Đừng quên melamine trong các thực phẩm khác!
Ước vọng 200 ?
“Kỹ năng mềm” cho nhà khoa học
“Sẽ” và “có thể”


Trang nhiều tác giả
Trang riêng của Lê Ngọc Dũng
Trang riêng của Lương Lễ Hoàng
Trang riêng của Nguyễn Bảo Trung
Trang riêng của Nguyễn Hoài Nam
Trang riêng của Nguyễn Hữu Đức
Trang riêng của Nguyễn Văn Tuấn
Trang riêng của Nguyễn Ý Đức
Trang riêng của Nguyễn Đình Nguyên
Trang riêng của Phan Xuân Trung
Trang riêng của Đỗ Hồng Ngọc
Trang riêng của Đỗ Minh Tuấn