NGUYỄN VĂN TUẤN

Vấn đề truy tìm ung thư phổi và hiệu quả 

Nguyễn Văn Tuấn

“Báo nguy! Tỉ lệ người Việt khám ung thư quá thấp.”  Đó là tiêu đề của một bản tin trên một tờ báo tiếng Việt tại California.  “Báo nguy”!  “Ung thư”!  Toàn những danh từ nghe qua phát sợ.  Bài báo còn cho biết “Ung thư đứng hàng thứ hai sau bệnh tim về nguyên nhân tử vong ở California và trên toàn quốc.  Phương thức cốt yếu để đề phòng ngừa là các cuộc xét nghiệm rà ung thư hầu phát hiện sớm khi bệnh dễ chữa trị nhất, và trong nhiều trường hợp, có thể chữa khỏi hoàn toàn.”.

Phát hiện ung thư sớm, điều trị có khả năng thành công cao.  Đó là thông điệp mà một số người trong giới y tế không ngừng cho chúng ta biết.  Thoạt đầu mới đọc qua những bản tin như trên thì thấy quá có lí: phát hiện sớm, chữa trị sớm, hết bệnh.  Có gì phải bàn cãi đâu!  Ấy thế mà có đấy.  Nói phát hiện sớm để có thể chữa trị sớm là gián tiếp đề cập đến một giả định: đã có phương pháp chữa trị hiệu quả.  Nhưng cũng như nhiều chuyện khác, đó là một giả định không đúng, và câu phát biểu trên quá đơn giản, đơn giản đến độ nguy hiểm.  Hai nghiên cứu mới nhất vừa công bố trên tờ tập san New England Journal of Medicine (NEJM) và tập san của Hiệp hội Y khoa Mĩ (Journal of the American Medical Association hay JAMA) cung cấp cho chúng ta vài bài học đắt giá về cách hiểu và diễn dịch hiệu quả của các chương trình truy tìm ung thư.

Trong số các bệnh ung thư, ung thư phổi là một bệnh nguy hiểm nhất.  Nguy hiểm là vì số trường hợp tử vong do bệnh này gây ra thuộc vào hàng cao nhất so với các bệnh ung thư khác [1].  Ở nước ta, ung thư phổi ở đàn ông là loại ung thư phát sinh với tần số cao nhất (với tỉ lệ 39 trên 100,000 dân số tại Thành phố Hồ Chí Minh) so với tất cả các bệnh ung thư khác [2].  Do đó, có thể hiểu được tại sao chúng ta tìm mọi phương cách để phát hiện bệnh càng sớm càng tốt, với hi vọng sẽ điều trị trước khi ung thư phát triển đến giai đoạn khó cứu chữa.  Một trong những phương pháp đó là chương trình truy tìm ung thư bằng X quang hay các thiết bị hiện đại khác mà giới y tế Tây phương gọi là “screening”.

(Động từ screen không phải dễ dịch, vì nó không có nghĩa chiếu phim hay che chắn; nó có nghĩa đen là sàng lọc.  Khái niệm screening cũng giống như khái niệm truy tầm những tên khủng bố trong nước Mĩ vậy.  Nói một cách tóm tắt, giới chức dựa vào những thông tin liên quan đến đối tượng và từ đó ước đoán xác suất đối tượng có thể là một người có tiềm năng khủng bố.  Do đó, tôi dịch chữ cancer screening truy tìm ung thư, vì trong thực tế nó là một cách truy tìm.)

Vấn đề đặt ra là các chương trình truy tìm ung thư như thế có hiệu quả hay không.  Năm ngoái (2006), một bài bào công bố trên tập san NEJM kết luận rằng chương trình truy tìm ung thư phổi bằng CT (một dạng X quang ba chiều) có thể cứu sống bệnh nhân ung thư phổi [3].  Ngay sau khi công trình nghiên cứu được công bố, các nhóm vận động truy tìm ung thư ở Mĩ phát động một chiến dịch thông qua các tài tử điện ảnh và các ngôi sao thể thao để kêu gọi mọi người nên tham gia vào các dự án truy tìm ung thư phổi. 

Nhưng mới tuần qua (7/3/2007), tập san JAMA công bố một nghiên cứu khác [4] với kết luận rằng truy tìm ung thư bằng máy chụp cắt lớp điện toán tia xoay (spiral CT) không những vô hiệu quả, mà còn có thể gây tác hại cho bệnh nhân vì những phẫu thuật không cần thiết và có khi nguy hiểm.

Tại sao hai công trình nghiên cứu qui mô, được công bố trên hai tập san y học hàng đầu của Mĩ (và thế giới) lại đi đến hai kết luận hoàn toàn trái ngược nhau?  Để trả lời câu hỏi này, thiết tưởng chúng ta cần phải hiểu rõ khái niệm truy tìm ung thư và những khía cạnh “kĩ thuật” đằng sau mục tiêu của các chương trình truy tìm ung thư.

            Để trả lời câu hỏi này, cần phải thông hiểu hai khái niệm căn bản trong dịch tễ học: khả năng sống sót (survivorship) và tử vong (mortality).  Hai khái niệm này có liên quan, nhưng khác nhau, và phân biệt được có thể giúp cho chúng ta không hiểu lầm về các báo cáo y khoa.  Có thể hiểu hai khái niệm này qua một ví dụ sau đây: Giả dụ một quần thể gồm 100 người, và tất cả đều tham gia vào chương trình truy tìm ung thư trong vòng 10 năm.  Trong thời gian đó, chương trình truy tìm ung thư phát hiện được 30 người bị ung thư; và trong số này có 20 người tử vong vì ung thư trong thời gian theo dõi.  Sau thời gian theo dõi nghiên cứu (sau 10 năm) còn có thêm 5 người nữa tử vong.  Tỉ lệ sống sót trong thời gian theo dõi là 80%; tỉ lệ sống sót ở bệnh nhân được chẩn đoán ung thư là 33.3%. Thế nhưng, con số thực tế là 75% và 16.7%, tương ứng; nhưng con số này không có báo cáo vì chương trình truy tìm ung thư đã kết thúc!

            Do đó, nếu chỉ dựa vào tỉ lệ sống sót rất dễ sai lầm.  Một “hiệu ứng” khác của vấn đề thẩm định hiệu quả của các chương trình truy tìm ung thư là vấn đề mà giới dịch tễ học gọi là “lead-time bias” (tôi tạm dịch là “hiệu dịch thời gian” mượn khái niệm bias trong vật lí học).  Yếu tố này phát biểu rằng đơn thuần phát hiện bệnh sớm (như qua chẩn đoán bằng spiral CT trong các chương trình truy tìm ung thư) lúc nào cũng gia tăng chỉ số khả năng sống sót.  Hãy xem xét một ví dụ cụ thể: Bệnh nhân A tham gia chương trình chẩn đoán sớm (screening), được chẩn đoán bị ung thư lúc 60 tuổi, và tử vong ở tuổi 70. Như vậy bệnh nhân này sống được sau khi chẩn đoán là 10 năm. Trong khi đó bệnh nhân B, vì không tham gia vào chương trình chẩn đoán sớm, bệnh nhân phát bệnh ở tuổi 67, và chỉ sống được sau đó 3 năm. Như thế dễ nhận thấy bệnh nhân A có thời gian sống sau chẩn đoán ung thư dài hơn nhiều so với bệnh nhân B (7 năm). Nhưng trong thực tế hai bệnh nhân A và B đều tử vong và có cùng một tuổi thọ như nhau là 70 tuổi.

            Hiểu hai khái niệm đó, bây giờ chúng ta thử đánh giá hai nghiên cứu trên tập san NEJM và JAMA.  Trong công trình nghiên cứu công bố trên tập san NEJM [3], các nhà nghiên cứu rà soát 31,567 đối tượng bằng CT và phát hiện 484 (tức khoảng 1.5%) trường hợp ung thư phổi.  Tỉ lệ sống sót trong vòng 10 năm ở những bệnh nhân này là 80% — so với tỉ lệ 10% ở những bệnh nhân ung thư phổi trên toàn nước Mĩ.

Công trình nghiên cứu công bố trên tập san JAMA [4] thăm dò 3,246 đối tượng và phát hiện 144 (hay 4.4%) trường hợp ung thư phổi.  (Tỉ lệ phát hiện trong nghiên cứu này cao hơn vì phần lớn đối tượng là người cao tuổi và được theo dõi lâu hơn).  Trong số 3,246 người này, 38 người chết vì ung thư phổi – và con số này tương đương với tỉ lệ tử vong ở những người cùng độ tuổi từng hút thuốc lá và không chụp spiral CT.

            Mục tiêu tối hậu của các chương trình truy tìm ung thư là giảm tử vong — tức cứu người.  Bởi vì công trình nghiên cứu trên tập san NEJM chỉ xem xét chỉ số sống sót, và do đó không cho chúng ta biết bao nhiêu người đã được cứu sống.  Ngược lại, vì công trình trên tập san JAMA phân tích chỉ số tử vong (tức trực tiếp giải quyết mục tiêu của chương trình truy tìm ung thư), và do đó kết quả này cho chúng ta biết được rằng chương trình truy tìm ung thư không có hiệu quả.  Kết quả của nghiên cứu trên tập san JAMA cũng phù hợp với các nghiên cứu trước: truy tìm ung thư phổi sớm có thể làm gia tăng chỉ số khả năng sống sót, nhưng không cứu sống bệnh nhân.

            Chỉ số khả năng sống sót không phản ảnh được hiệu quả của chương trình truy tìm ung thư.  Và, đây chính là sai lầm của kết luận trong bài báo trên tập san NEJM, mà một số bác sĩ và nhà nghiên cứu đã chỉ ra sau khi bài báo được công bố.

            Hai nghiên cứu này còn cho chúng ta một khía cạnh khác của các chương trình truy tìm ung thư: Đó là hiện tượng “overdiagnosis” – hay “gán bệnh”. Đây là một vấn đề đáng quan tâm đối với phương pháp CT, bởi vì phương pháp này có thể phát hiện nhiều dấu hiệu bất bình thường hơn là phương pháp chụp X quang thông thường.  Nói cách khác, các chương trình truy tìm ung thư thường phát hiện những trường hợp ung thư giai đoạn đầu.  Thật vậy, các trường hợp ung thư giai đoạn I và II hay N0M0 chiếm khoảng 70% đến 93% tổng số trường hợp ung thư phổi phát hiện bằng CT trong các chương trình truy tìm ung thư [5-6]  Cụ thể, một chương trình truy tìm ung thư phổi ở Nhật cho thấy sử dụng máy chụp spiral CT phát hiện số trường hợp ung thư cao gấp 10 lần so với X quang lồng ngực.  Quan trọng hơn nữa, xác suất phát hiện ung thư phổi (qua chẩn đoán bằng máy spiral CT) ở những người hút thuốc lá bằng với xác suất ở người không hút thuốc lá [7]!

Nhưng tất cả các bệnh nhân với chẩn đoán ung thư phổi đều phải được điều trị, “gán bệnh” cũng có nghĩa là một số người được điều trị một cách không cần thiết hay điều trị sẽ chẳng đem lại lợi ích sức khỏe cho họ, và có thể gây tác hại.  Phần lớn bệnh nhân được chẩn đoán ung thư phổi sớm được điều trị bằng phẫu thuật để cắt bỏ một phần lá phổi, một cuộc giải phẫu lớn với khoảng 5% tử vong trong vòng 1 tháng [8].  Cần nói thêm rằng một phân tích tổng hợp (meta-analysis) năm 2005 cho thấy tỉ lệ tử vong ở những người tham gia các chương trình truy tìm ung thư phổi cao hơn những người không tham gia các chương trình đó [9].

Tuy nhiên, cả hai nghiên cứu (trên tập san JAMA và NEJM) đều không thể xem là kết luận sau cùng được, bởi vì cả hai đều không phải là những nghiên cứu lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên, một chuẩn vàng trong nghiên cứu y học.  Hiện nay, hai nghiên cứu lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên đang được tiến hành (một công trình hợp tác giữa Bỉ và Hà Lan, và một công trình do Viện ung thư quốc gia Mĩ – National Cancer Institute– tài trợ).  Kinh nghiệm gần đây cho thấy niềm tin có thể sai trước ánh sáng khoa học.  Chẳng hạn như trường hợp thay thế kích thích tố nữ (hormone replacement therapy) ở những phụ nữ sau mãn kinh, những giả định về lợi ích trong điều kiện thiếu chứng cứ khoa học có thể gây tác hại cho bệnh nhân.  Để tránh lặp lại sai lầm đó một lần nữa trong y học, chúng ta không nên khuyến khích truy tìm ung thư phổi đại trà bằng các thiết bị đắt tiền nếu chưa có bằng chứng về hiệu quả cứu sống bệnh nhân.

Tài liệu tham khảo:

1.  Nguyễn Văn Tuấn.  Truy tìm ung thư: lợi và hại.  Thành phố Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Trẻ, 2007.

2. Anh PH, et al. The situation with cancer control in Vietnam. Japanese J Clin Oncol 2002;32:S92-S97.

3. Henschke CI, et al. Survival of patients with stage I lung cancer detected on CT screening. N Engl J Med 2006;355:1763-71.

4. Bach PB, et al. Computed tomography screening and lung cancer outcomes. JAMA 2007;297:953-61.

5.  Nawa T, et al. Lung cancer screening using low-dose spiral CT: results of baseline and 1-year follow-up studies. Chest 2002;122(1):15-20.

6.  McWilliams A, et al.  Lung cancer screening: a different paradigm. Am J Respir Crit Care Med 2003;168(10):1167-73.

7. Sone S, et al.  Mass screening for lung cancer with mobile spiral computed tomography scanner.  Lancet 1998; 351:1242-5.

8.  Birkmeyer D, et al. Operative mortality with elective surgery in older adults. Effect Clin Pract 2001;4:172-7.

9.  Manser R, et al. Surgery for early stage non-small cell lung cancer. Cochrane Database Syst Rev 2005;(1):CD004699

 

 


200 năm Darwin
Agent Orange: collateral damage
Alexandre Yersin và Việt Nam
Bàn về hiệu quả vắcxin: lâm sàng và kinh tế
Bàn về vấn đề dịch thuật và đánh giá năng suất khoa học
Béo phì ở người Á châu
Béo phì ở trẻ em và virus
Bình luận từ Dr. Yến
Bưởi không gây ung thư vú
Bảo hiểm y tế cộng đồng
Bảo tồn môi sinh: Chiến tranh giữa hai thế giới
Bằng chứng khoa học thay vì lên lớp
Bệnh tả: không để Việt Nam thành Bangladesh thứ hai
Bệnh tật nhìn từ quan điểm của thuyết tiến hóa
Bệnh xơ hóa cơ delta qua y văn thế giới
Bổ sung kẽm và điều trị bệnh tả
Bộ gen trong cây lúa và triển vọng
Bộ Y tế phản ứng chậm với rét đậm
Chiều cao của người Việt
Chiều cao và tổng thống Mĩ
Cholesterol và bệnh Tim
Cholesterol: hung thần hay bạn?
Chuột và... các nhà khoa học
Chính sách y tế cần dựa vào bằng chứng khoa học
Chạy đua vũ khí và … dịch cúm
Chất béo, cholesterol, bệnh tim và statins: xét lại bằng chứng
Chất keo xã hội: hormones
Chất lượng nghiên cứu dịch tễ học và y tế cộng đồng của Việt Nam qua chỉ số H
Chất lượng nghiên cứu khoa học ở Việt Nam qua chỉ số trích dẫn
Chất vấn chuẩn chẩn đoán béo phì
Chế độ ăn uống với nhiều thịt động vật và nguy cơ tử vong
Chủng vi khuẩn tả hiện nay ở nước ta có phải mới xuất hiện?
Cuộc chiến hóa học phi pháp lớn nhất trong lịch sử chiến tranh
Câu chuyện y học: Leptin và béo phì
Có bao nhiêu bác sĩ viết chữ khó đọc
Có nên tập trung vào vi khuẩn E. coli ?
Có thể xảy ra đại dịch cúm gia cầm?
Công cụ đơn giản để chẩn đoán tiểu đường ở người Đông Nam Á
Cúm gia cầm và nhiễu thông tin
Cúm H1N1: biết và chưa biết
Cơ hội để khép lại một chương lịch sử đau lòng
Cần hiểu đúng về Ung thư và nguy cơ ung thư
Cần qui ước đạo đức cho kĩ nghệ thực phẩm
Cần tiêm chủng ngừa bệnh tả vùng có nguy cơ cao
Cần điều tra về chất lượng bệnh viện
Cổ phần hóa bệnh viện công và chất lượng
Cổ phần hóa: chưa phải cách duy nhất
DDT và vấn đề cân đối giữa lợi ích và nguy hiểm
Dinh dưỡng: một nguồn thuốc quí giá
DNA không nói dối, nhưng DNA có thể nói … sai
Dịch cúm gà: hoang mang và sự thật khoa học
Dịch cúm heo và tác hại kinh tế
Dịch tay-chân-miệng
Dịch tả: gọi đúng tên để phòng ngừa
Dựa vào khoa học, đừng dựa vào niềm tin!
E. coli – vài câu hỏi thông thường
Gen và bệnh tật
Ghen tuông dưới cái nhìn của tâm lí y khoa
Gian lận trong nghiên cứu khoa học: áp lực kinh tế và cơ chế bình duyệt
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC: KHƠI DẬY VÀ NUÔI DƯỠNG TÍNH HAM HỌC
Giải nobel y học hay sinh lí học 2007 và lợi ích cho người bệnh
Giải Nobel Y sinh học 2008 và những tranh chấp khoa học
Giải Nobel y sinh học 2010 vinh danh người đem niềm vui cho người vô sinh
Giải Nobel y sinh học năm 2005: Một cõi đi về với vi khuẩn
Giải Nobel y sinh học: Nhìn lại quãng đường 100 năm
Giải phẫu ghép mặt và vấn đề y đức
Gout ở xương sống
Gãy xương và tử vong: một vấn nạn y tế cộng đồng
Hiệu quả vắcxin có nghĩa gì?
Hoa vàng mấy độc
Hàm lượng đạm trong sữa “siêu thấp” hay “siêu cao”?
Hóa chất khai hoang trong cuộc chiến Viện Nam: Qui mô và tầm ảnh hưởng
Hướng đi nào để giải quyết vấn đề chất độc da cam ở Việt Nam
Hậu “mắm tôm được minh oan”: bằng chứng khoa học, nhà xí và nghiên cứu
Hệ Thống Học Vị Và Học Hàm Khoa Học Ở Vài Nước Tây Phương
Hợp tác khoa học kiểu nhảy dù - Nguyễn Văn Tuấn
Khi bác sĩ trẻ “khoe” quá nhiều
Khoa học và ngụy khoa học: một vài đặc điểm và khác biệt cần biết
Khoa học, xã hội, và rủi ro
Không thể thành Phù Đổng trong 20 năm!
Khẩu trang và phòng chống cúm A/H1N1
Kiểm định giả thuyết mắm tôm và vi khuẩn tả
Liều lượng melamine bao nhiêu là an toàn?
Lí lịch sinh học của heo và dấu vết văn minh nông nghiệp Đông Nam Á
Lượng giá mạng sống con người
Lợi ích của vitamin D
Miệng nhà quan
Mắm tôm có phải là “thủ phạm” gây bệnh tả? Xét lại bằng chứng khoa học
Mắm tôm và chuyện xin lỗi
Mắm tôm và dịch tả: phân biệt yếu tố nguy cơ và nguyên nhân
Mắm tôm vô tội!
Mắm tôm, nguyên nhân và hệ quả
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Một bệnh hiếm X-linked recessive hypoparathyroidism
Một lần đi phỏng vấn
Một năm nhìn lại
Một phán quyết thiếu cơ sở khoa học
Một vài hiểu lầm tai hại
Một vài ngộ nhận về nghiên cứu khoa học
Một vài vấn đề về qui định chức danh giáo sư ở Việt Nam
Một vụ Madoff trong y khoa: Lại một ngôi sao y khoa rơi rụng!
Mỡ trắng, mỡ nâu
Mỡ  trong máu, huyết áp, và  tiểu đường
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nguyên nhân bệnh tiêu chảy
Ngó trên tay điếu thuốc đã lụi dần
Người cao tuổi và sự hạn chế của y khoa
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Nhân chuyện dịch tả nhớ lại John Snow
Nhân câu chuyện điện não đồ xét nghiệm nghiện ma túy:
Nhân năm khỉ_nguồn gốc con người hiện đại
Nhân năm Tý bàn chuyện thí nghiệm trên chuột
Nhìn lại khoa học Việt Nam năm 2008 qua công bố quốc tế
Nhầm lẫn trong y khoa: Khá phổ biến, nhưng ít ai biết!
Những câu hỏi và trả lời về dịch gia cầm
Những sai sót khó tin nhưng có thật
Những sai sót nguy hiểm trong toa thuốc
Những điều khó tin về “Bảy điều khó tin nhất trong y học”
Năm lí do cho mắm tôm “vô tội”
Phán quyết sau cùng: Chất béo không ảnh hưởng đến ung thư và bệnh tim
Phát hiện gien kiểm soát ráy tai: vài bài học về mò kim đáy biển
Phòng chống bệnh phải dựa vào bằng chứng khoa học!
Phòng chống H1N1 bằng rửa tay và khẩu trang: Biện pháp nào hiệu quả hơn?
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao và cân nặng: thiếu cơ sở khoa học và kì thị giới tính
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao: vấn đề giả định và bằng chứng khoa học
Quyền phê phán và trí thức
Quyền được tiếp cận hồ sơ bệnh án
Quản lý chất lượng: Thuốc phòng "tai nạn y khoa"
Rửa tay bằng xà phòng và tiêu chảy
Serotonin có liên quan đến chứng đột tử
Suy dinh dưỡng ở trẻ em: vấn đề của kinh tế
Sàng lọc trẻ sơ sinh trên phạm vi toàn quốc
Tai nạn y khoa trong bệnh viện
Thế nào là một "bài báo khoa học"
Thế nào là “Cơ sở khoa học” ?
Thịt chó là nguyên nhân của bệnh tiêu chảy cấp tính?
Thịt chó và bệnh tả: nguyên nhân và yếu tố nguy cơ
Tiên lượng bệnh Alzheimer bằng protein expression ?
Tiêu chuẩn chất lượng giáo dục đại học
Tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì cho người Việt - Nguyễn Văn Tuấn
Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh đái tháo đường (diabetes mellitus)
Tiêu chuẩn đề bạt giáo sư: Có nên căn cứ vào số lượng bài báo ?
Tiêu chảy cấp tính và bệnh tả: Định danh cho đúng
Truy tìm ung thư bằng mammography từ tuổi 50
Truyền thông và khoa học: Qui ước Ingelfinger
Truyền thông và y tế
Truyền thông, khoa học và … doanh nghiệp
Trà xanh và sức khỏe
Trách nhiệm và nhân đạo trong vấn đề chất độc da cam
Trái chanh và phòng chống bệnh tả
Trả lời những câu hỏi liên quan đến loãng xương
Trọng lượng cơ thể và tử vong ở người Trung Quốc: Ý nghĩa về việc xác định tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì
Tuổi thọ của người dân giảm 10 năm ?
Tác dụng Placebo trong y học: Tâm lí và ý nghĩa
Tình yêu, sắc đẹp nhìn dưới quan điểm di truyền học
Tín hiệu môi trường từ những “làng ung thư”
Tính khoa học và minh bạch đằng sau xét nghiệm doping
Tại sao không phát biểu về nguyên nhân và hệ quả ?
Tại sao uống rượu gây đỏ mặt và nguy cơ ung thư thực quản
Tạo sinh vô tính và cái chết của Thượng đế
Tạo sinh vô tính và vấn đề sinh đạo đức
Tản mạn về SARS
Tỉ lệ tử vong do cúm heo là bao nhiêu ?
Tự trị, chất lượng và y đức thay vì cổ phần hóa bệnh viện công
Ung thư vú và vấn đề thông tin y khoa
Uống bia hấp dẫn muỗi
Vaccine phòng chống AIDS hiệu quả đến đâu ?
Vaccine phòng chống cúm A/H1N1
Vi khuẩn gây tiêu chảy và ý nghĩa tiêm chủng
Vi khuẩn tả trong chó ?
Viết văn có thể chữa nhiều loại bệnh
Viết văn và trị liệu
Việc ta, ta cứ làm!
Vài nhận xét về 12 điều lệ y đức của Việt Nam
Vài thông tin cần biết về các chương trình truy tìm ung thư vú
Vài đóng góp quan trọng của người Việt khoa học thống kê
Văn hóa khoa học
Văn hóa tranh luận và vấn đề ngụy biện
Vấn đề sinh tố: kẽm và đồng
Vấn đề truy tìm ung thư phổi và hiệu quả 
Vấn đề y đức trong nghiên cứu tế bào mầm (stem cells)
Vấn đề đo lường melamine
Vấn đề đào tạo tiến sĩ: kinh nghiệm từ Australia
Vắc-xin phòng chống ung thư cổ tử cung
Vắcxin ngừa viêm gan B: cẩn thận với “nhiễu thông tin”
Vắcxin ngừa viêm gan B: kinh nghiệm từ nước ngoài
Vắcxin phòng bệnh sởi - quai bị - Rubella: lợi và hại
Vắcxin phòng chống ung thư cổ tử cung: hiệu quả lâm sàng và kinh tế
Vắcxin phòng ngừa bệnh tả: rất cần thiết
Về chấn chỉnh đào tạo tiến sĩ: Công bố bài báo khoa học là một thách thức lớn ?
Về học vị tiến sĩ
Về một sự hiểu lầm thuật ngữ "prospective"
Về phản ứng phụ của bisphosphonates liên quan đến hoại tử xương hàm và rung nhĩ
Vệ sinh như là một loại hàng hóa
Vị thế của nền khoa học Việt Nam
Xung quang xì căng đan về nghiên cứu tế bào mầm
Xã hội hóa và an toàn thực phẩm
Xếp hạng đại học: cần minh bạch hóa phương pháp
Y học hiện đại và những hứa hẹn
Y học thực chứng: vài nét khái quát
Y Khoa và những nhầm lẫn chết người
Y tế dự phòng: nền tảng của y khoa hiện đại
Y đức và nghiên cứu y học
Ói mửa, cao huyết áp và hôn mê
Ăn chay như là một trị liệu
Ăn chay và loãng xương
Điều trị bệnh dựa vào màu da ?
Điều trị đau dây thần kinh tọa bằng phẫu thuật: không có hiệu quả
Đo lường hiệu suất khoa học
Đánh giá đúng tầm quan trọng của ung thư vú 
Đại dịch H1N1
Đại dịch và đại dịch ảo
Đại dịch đã đến ?
Đạo văn trong hoạt động khoa học
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đằng sau những con số hàm lượng đạm trong sữa
Đế quốc Trà
Đề bạt các chức danh khoa bảng: vài kinh nghiệm từ Úc
Đọc lại 12 điều y đức của Việt Nam
Đồi điều về sữa nhiễm melamine
Đừng quên melamine trong các thực phẩm khác!
Ước vọng 200 ?
“Kỹ năng mềm” cho nhà khoa học
“Sẽ” và “có thể”


Trang nhiều tác giả
Trang riêng của Lê Ngọc Dũng
Trang riêng của Lương Lễ Hoàng
Trang riêng của Nguyễn Bảo Trung
Trang riêng của Nguyễn Hoài Nam
Trang riêng của Nguyễn Hữu Đức
Trang riêng của Nguyễn Văn Tuấn
Trang riêng của Nguyễn Ý Đức
Trang riêng của Nguyễn Đình Nguyên
Trang riêng của Phan Xuân Trung
Trang riêng của Đỗ Hồng Ngọc
Trang riêng của Đỗ Minh Tuấn