Vị thế của nền khoa học Việt Nam
"Có lẽ vì "văn hóa" công bố quốc tế chưa được nhận thức một cách đúng mức, hay chưa được phát triển thành một chuẩn mực hoạt động khoa học, nên cho đến nay, hệ quả là chúng ta thua kém các nước trong vùng".
Ảnh minh họa: crystalinks.com |
Cách đây khoảng 10 năm (giữa năm 1998), tập san khoa học số 1 trên thế giới Science có một loạt bài điểm qua tình hình khoa học ở các nước châu Á và đặc biệt là Đông Nam Á. Trong loạt bài này, Science không có đến một chữ nào nói về khoa học ở Việt Nam. Thậm chí, hai chữ “Việt Nam” cũng không được nhắc đến, làm như Việt Nam không có mặt trong bản đồ khoa học Á châu!
Có lẽ do chút tự ái dân tộc, lúc đó tôi có viết một lá thư ngắn tới ban biên tập để "nhắc nhở" Science rằng nước Việt Nam vẫn tồn tại, vẫn có người làm nghiên cứu khoa học ở Việt Nam, và Việt Nam cũng có cống hiến cho khoa học thế giới.
Ban biên tập công bố lá thư đó. Nhưng trước đó, họ có viết cho tôi một lá thư lịch sự xin lỗi rằng sở dĩ không nhắc đến nền khoa học Việt Nam, vì họ không tìm thấy bao nhiêu bài báo khoa học từ Việt Nam trên các tập san khoa học quốc tế.
Trong vòng 10 năm qua, kinh tế nước ta phát triển thuộc vào hàng nhất nhì trong vùng, và một bộ phận lớn dân số đã thoát cảnh nghèo đói. Thành tựu xóa đói giảm nghèo ở nước ta được quốc tế ghi nhận và ca ngợi. Các chuyên gia kinh tế xem công tác xóa đói giảm nghèo ở nước ta như là một tấm gương sáng, một bài học cho các nước đang phát triển noi theo.
Nhưng trong 10 năm qua, khoa học Việt Nam có phát triển tương đồng với tốc độ phát triển kinh tế hay không? Tôi e rằng câu trả lời là: “không”. Một cách đánh giá khách quan tình hình khoa học là qua số lượng bài báo khoa học công bố trên các tập san khoa học quốc tế.
Những con số có thể "đánh lừa" chúng ta
Năm 1996, các nhà khoa học Việt Nam công bố được 202 bài báo khoa học, năm 2000 có 300 bài. Khoảng 3 năm sau, con số tăng lên hàng 500, và hiện nay là khoảng 600 bài.
Những con số tăng trưởng về công trình nghiên cứu khoa học trên có thể làm cho chúng ta lạc quan. Nhưng những con số đó có thể đánh lừa chúng ta, nếu ta không đặt chúng vào bối cảnh phát triển trong vùng, chẳng hạn như so sánh với Singapore và Thái Lan. Con số bài báo khoa học từ Việt Nam chỉ bằng khoảng 1 phần 10 bài báo khoa học từ Singapore, và tỉ số này không thay đổi trong vòng 10 năm qua (Bảng 1).
Nhưng Singapore là nước đã phát triển, nên một so sánh như thế e rằng không có ý nghĩa mấy. Có lẽ so sánh với Thái Lan (một nước đang phát triển) có thể cho ra vài thông tin có ích.
Khi so sánh với Thái Lan, mới thấy khoa học của ta có xu hướng đi lùi. Năm 1996 số lượng bài báo khoa học từ Việt Nam bằng khoảng 28% số bài báo từ Thái Lan; 10 năm sau, tỉ lệ này giảm xuống còn 20%! Nói cách khác, tuy số bài báo khoa học từ nước ta có phần gia tăng trong 10 năm qua, nhưng tỉ lệ tăng trưởng còn quá thấp, và hệ quả là nước ta càng ngày càng trượt dài so với các nước đang phát triển trong vùng.
Thật ra, theo phân tích của chúng tôi, chỉ có 20% các công trình nghiên cứu khoa học từ Việt Nam là do nội lực, tức hoàn toàn thực hiện bởi các nhà khoa học trong nước mà không có sự giúp đỡ của đồng nghiệp nước ngoài.
Phần 80% còn lại là do hợp tác với với các nhà khoa học nước ngoài. Ở Thái Lan, tỉ lệ công trình nội lực khoảng 30%, và ở Singapore tỉ lệ này dao động từ 30 - 45% trong vòng 10 năm qua.
Điều đáng quan tâm hơn là tỉ lệ công trình nghiên cứu khoa học nội lực ở nước ta không tăng mà còn có xu hướng giảm. Điều này có nghĩa là hiện nay các nhà khoa học nước ta chỉ công bố được khoảng 120 bài báo khoa học mỗi năm.
Bảng 1. Số lượng bài báo khoa học từ Việt Nam, Thái Lan, và Singapore công bố trên các tập san khoa học quốc tế trong thời gian 1996 - 2006 |
|||||
Năm | Số bài báo khoa học | Tỉ số bài báo khoa học | |||
Việt Nam | Thái Lan | Singapore |
VN /
Thái Lan |
VN /
Singapore |
|
1996 | 202 | 723 | 1948 | 0,28 | 0,10 |
1997 | 222 | 797 | 2275 | 0,28 | 0,10 |
1998 | 239 | 971 | 2629 | 0,25 | 0,09 |
1999 | 248 | 1085 | 3210 | 0,23 | 0,08 |
2000 | 320 | 1214 | 3565 | 0,26 | 0,09 |
2001 | 355 | 1376 | 4040 | 0,26 | 0,09 |
2002 | 355 | 1625 | 4440 | 0,22 | 0,08 |
2003 | 496 | 2104 | 5117 | 0,24 | 0,10 |
2004 | 429 | 2090 | 5370 | 0,21 | 0,08 |
2005 | 590 | 2609 | 6426 | 0,23 | 0,09 |
2006 | 603 | 3007 | 6613 | 0,20 | 0,09 |
Nguồn: số liệu của tác giả, được thu thập từ các cơ sở dữ liệu như ISI, SCI, SCI-Expanded, SSCI, và AHCI. |
Nên đặt tiêu chuẩn công bố quốc tế?
Cần nhắc lại rằng nước ta có khoảng 14.000 tiến sĩ và 20.000 thạc sĩ. Theo một thống kê có lẽ chưa đầy đủ, nước ta có khoảng 6.000 người mang chức danh giáo sư và phó giáo sư. Đây là những người có khả năng nghiên cứu khoa học và công bố báo cáo khoa học. Nhưng qua con số bài báo khoa học vừa trình bày, chúng ta có thể nói rằng trung bình mỗi giáo sư và phó giáo sư nước ta công bố 0,58 bài báo trong vòng 10 năm qua!
Nói cách khác, cứ hai giáo sư mới có 1 công bố quốc tế - trong vòng 10 năm. Cũng cần nói thêm rằng ở các nước trong vùng như Thái Lan và Singapore, các đại học đặt ra tiêu chuẩn hay khuyến khích mỗi giáo sư cần công bố ít nhất 1 bài báo khoa học trong vòng 2 năm.
So sánh như thế chúng ta mới thấy chẳng những sản lượng khoa học nước ta quá thấp (thấp nhất trong vùng Đông Nam Á), mà còn có xu hướng giảm, và quan trọng hơn, năng suất khoa học của các giáo sư và nhà khoa học ở nước ta còn quá thấp.
Tại sao năng suất khoa học của nước ta còn quá thấp? Đã có nhiều người tìm câu trả lời cho câu hỏi đó, và tôi không có ý định lặp lại ở đây, nhưng có lẽ câu hỏi thực tế hơn và cá nhân hơn là: chúng ta phải làm gì?
Nói như Nhà văn Dostoievski là chúng ta tự quyết định vận mệnh của chúng ta; chẳng có ai tử tế giúp chúng ta mà không có kèm theo điều kiện. Không nên chỉ tay đổ thừa cho nguyên nhân khách quan và chủ quan (tuy cũng có cơ sở), nhưng mỗi cá nhân làm khoa học - có thể là nghiên cứu sinh, hay các nhà khoa học, nên tự hỏi mình phải làm gì để nâng cao vị thế của khoa học Việt Nam trên trường quốc tế.
Tôi [chủ quan] nghĩ rằng câu trả lời là nên đặt tiêu chuẩn công bố quốc tế thành một mục tiêu cá nhân để phấn đấu.
Ở nước ta không thiếu những chất liệu và những nghiên cứu khoa học có ý nghĩa và có tiềm năng đóng góp vào kho tàng tri thức khoa học quốc tế. Nhưng có lẽ vì "văn hóa" công bố quốc tế chưa được nhận thức một cách đúng mức, hay chưa được phát triển thành một chuẩn mực hoạt động khoa học, nên cho đến nay, hệ quả là chúng ta thua kém các nước trong vùng.
Vậy nên chăng mỗi chúng ta cần phải tự tạo cho mình một văn hóa khoa học. Đó là văn hóa đặt câu hỏi và phát hiện vấn đề; nói có sách, mách có chứng; tôn trọng sự thật khách quan; làm việc và thực hành dựa vào bằng chứng khách quan; hệ thống hóa những gì mình biết; và trách nhiệm xã hội.(*)
Người Việt chúng ta thường tự hào là một dân tộc thông minh, trí lực không thua kém ai, thậm chí còn trội hơn vài nhóm khác. Điều đó có thể không sai. Nếu dựa vào vài trường hợp cá biệt, với những nhà khoa học nổi tiếng trên thế giới hay những giải thưởng kiểu thi toán Olympic thì chúng ta cũng có lí do để tự hào. Nhưng những trường hợp cá biệt không phản ảnh trình độ khoa học của một quốc gia.
Nếu số lượng bài báo khoa học là một đo lường [có thể không hoàn hảo] về tri thức của một quốc gia, thì các con số mang tính phản biện vừa trình bày trên làm cho chúng ta phải và nên khiêm tốn hơn. Tôi vẫn nghĩ thay vì nói chúng ta thông minh và tài giỏi, tại sao không nhìn nhận rằng chúng ta còn dốt và thua kém người khác. Tại sao chúng ta không nhìn nhận rằng nước ta vẫn còn rất nghèo, nền khoa học của chúng ta còn rất thô sơ, và trình độ học vấn của cả nước, tính trung bình, cũng không cao hơn ai.
Nếu nhìn nhận như thế thì chúng ta biết mình cần phải làm gì: học, học nữa, và học mãi. Nhưng chúng ta học thì người khác cũng học, chúng ta phát triển thì người khác cũng phát triển. Do đó, vấn đề của chúng ta không phải chỉ học, mà còn phải vượt trội.
Tôi tâm đắc với câu nói của Thủ tướng khi ông nói “Phải vượt lên chính mình”. Nếu không vượt lên chính mình thì những con số trong Bảng 1 cho thấy chúng ta vẫn lẹt đẹt theo sau nước khác, và con số bài báo khoa học công bố quốc tế vẫn chỉ bằng 1/10 của Singapore hay 1/5 của Thái Lan. Vượt lên cái mình đang có. Đó là cách duy nhất để chúng ta nâng cao vị thế khoa học của nước nhà, để vài năm nữa khi một tập san nào đó làm tổng kết về tình hình khoa học ở Á châu, hai chữ Việt Nam sẽ xuất hiện trên bản đồ khoa học thế giới.
-
Nguyễn Văn Tuấn (Sydney, Australia)
(*) Xem thêm: "Tám đặc điểm của văn hóa khoa học", Nguyễn Văn Tuấn, tạp chí Tia Sáng 2006.