NGUYỄN VĂN TUẤN

Điều trị bệnh dựa vào màu da ?

Nguyễn Văn Tuấn

Trong tuần qua, Cơ quan quản lí thực phẩm và dược phẩm liên bang Mĩ (FDA) ra một quyết định lịch sử: phê chuẩn thuốc BiDiL dùng cho điều trị chứng suy tim sung huyết (congestive heart failure) ở người Mĩ da đen. Quyết định này, và nhiều nghiên cứu trước đó, đã gây ra gây ra nhiều tranh cãi sôi nổi trong giới khoa học cũng như công chúng. Cũng như nhiều vấn đề khác, trong cuộc tranh luận này có hai trường phái rõ rệt: một bên thì quả quyết rằng điều trị bệnh tật cần phải dựa vào màu da hay chủng tộc, còn một bên thì dứt khoát bác bỏ khái niệm “chủng tộc” cũng như việc xem xét đến màu da để điều trị bệnh tật. Qua bài viết này, tác giả cho rằng điều trị là một quyết định cá nhân và phải dựa vào bằng chứng y học.

Màu da, bệnh tật và hiệu ứng của thuốc

Trước hết là vài thông tin căn bản. Chúng ta biết rằng nhiều bệnh do các yếu tố di truyền gây ra, và có xu hướng tập trung vào một nhóm dân nào đó. Chẳng hạn như người Bắc Âu có nguy cơ mắc bệnh xơ nang (cystic fibrosis) hơn bất cứ sắc dân nào khác. Bệnh Tay-Sachs, một bệnh cực nguy hiểm có liên quan đến hệ thống thần kinh, rất hiếm trên thế giới, nhưng lại đặc biệt hay thấy trong người gốc Do Thái thuộc bộ tộc Ashkenazi. Người da đen ở Mĩ có nguy cơ bị bệnh cao huyết áp cao hơn người da trắng, bởi vì tính trung bình độ dung nạp muối (và ảnh hưởng đến áp suất máu) trong người da đen cao hơn một cách đáng kể so với người da trắng.

Không những khác nhau về nguy cơ bệnh tật, mà ngay cả hiệu ứng của thuốc cũng có khuynh hướng khác biệt giữa các sắc dân. Các thuốc trong nhóm beta-blockers (dùng để điều trị cao huyết áp) có hiệu quả rất thấp ở người da đen hay người gốc Phi châu, nhưng lại có hiệu quả cao ở người da trắng hay người gốc Âu châu. Đối với việc điều trị bệnh hen, người da đen cần một liều lượng thuốc cao hơn người da trắng để đạt đến một hiệu suất lâm sàng tương đương. Thuốc Prozac (dùng để điều trị chứng trầm cảm) khi dùng ở người da đen phải giảm liều lượng so với người da trắng, bởi vì độ chuyển hóa thuốc đó ở người da đen chậm hơn ở người da trắng. Trong một bài điểm báo gần đây trên tập san Nature Genetics [1], hai tác giả Tate và Goldstein điểm qua 29 loại thuốc, trong đó 4 loại thuốc mà độ hiệu ứng khác biệt rõ ràng giữa các nhóm người dựa theo biến thể của gien, 9 loại thuốc có bằng chứng khác biệt về hiệu ứng nhưng chưa rõ ràng, và 16 loại thuốc còn lại không có khác biệt nào giữa các sắc dân.

Liên quan đến điều trị bệnh suy tim, một số nghiên cứu mới đây mới đây cho thấy thuốc BiDiL (hóa hợp hai loại thuốc isosorbide và dinitrate) khi dùng trong một quần thể chung không có hiệu quả gì đáng kể, nhưng khi dùng ở người da đen nó có hiệu quả rất cao. Trong một nghiên cứu ở người da đen (vừa công bố trên tập san y học danh tiếng New England Journal of Medicine [2]) các nhà nghiên cứu ghi nhận rằng sau 18 tháng tỉ lệ tử vong vì chứng suy tim sung huyết trong nhóm điều trị bằng BiDiL giảm đến 43% so với nhóm giả dược! Đó là một hiệu quả có thể nói là rất ấn tượng.

Dựa vào kết quả nghiên cứu trên, thuốc BiDiL này được FDA phê chuẩn để điều trị chứng suy tim ở người da đen. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử y học hiện đại một loại thuốc được sử dụng dựa vào màu da hay chủng tộc của bệnh nhân. Vấn đề nảy sinh là y học có nên phân biệt chủng tộc và nhiều loại thuốc điều trị trong tương lai có cần xem xét đến thành phần sắc tộc trong xã hội hay không [3]?

Khái niệm “chủng tộc”

Chủng tộc không phải là một ý tưởng mới chỉ xuất hiện vào thời Đức quốc xã, mà thực ra đã xuất hiện từ thế kỉ 18. Danh từ “race” (chủng tộc) được dùng để phân biệt Homo sapiens. Người đặt ra danh từ này là Carl von Linne, một nhà sinh học người Thụy Điển [4], và sau này Johann Blumenbach, một nhà nhân chủng học người Đức [5], cũng dùng danh từ này.

Dựa vào hình dạng và tâm lí, von Linne phân chia con người thành 4 nhóm: Âu châu (Europeans), Mĩ (Americans), Á châu (mà ông ta gọi là “Asiatics”), và Phi châu (Africans). Ông này nhận xét (dĩ nhiên là chủ quan) rằng: người Âu châu có nước da trắng, dịu dàng, sắc sảo, sáng tạo, và chịu chi phối bằng luật pháp; người Mĩ châu có nước da màu đồng, ngoan cố, thiếu sáng tạo, và bị chi phối bằng phong tục; người Á châu có nước da bồ hóng, dữ dội, ngạo mạn, và bị chi phối bằng dư luận; và người Phi châu có nước da màu đen, xảo quyệt, lười biếng, cẩu thả, và bị chi phối bằng đồng bóng [4].

Ông Blumenbach phân chia con người thành 5 nhóm: Caucasian, Mongolian, Ethiopian, American, và Malay. Ông này còn viết rằng người Caucasian là chủng tộc đẹp nhất (nguyên văn: “the most beautiful race of men”) [5].

Chủng tộc trong thời đại di truyền học

Có thể nói các nhận xét này là sản phẩm của thành kiến hay ngạo mạn thời đó, hơn là dựa vào bằng chứng khoa học khách quan. Thực vậy, theo một quan điểm khoa học, chủng tộc là một khái niệm hoàn toàn vô nghĩa, vì nó không bao giờ hiện hữu. Tất cả con người đều có một số gien cố định (chưa ai biết cơ thể chúng ta có bao nhiên gien, nhưng theo nghiên cứu mới nhất thì con số này là 35.000). Cái khác biệt là biến thể của gien (tức là alleles), chứ không phải gien. Trong một nghiên cứu năm 1972 (được xem là cổ điển) của Richard Lewontin, ông so sánh tần số biến thể của gien trong một sắc dân và giữa các sắc dân; ông khám phá rằng 85.4% là do những khác biệt là giữa cá nhân với nhau trong một sắc dân, chỉ có 6.3% là do khác biệt giữa các sắc dân! Phát hiện này làm thay đổi suy nghĩ của giới khoa học về khái niệm gọi là “chủng tộc”.

Không những chỉ trong biến thể gien, theo kinh nghiệm của người viết bài này, bất cứ tiêu chí sinh học nào cũng có khuynh hướng trên: mức độ khác biệt giữa cá nhân cao hơn rất nhiều so với mức độ khác biệt giữa các sắc dân (hay cái-gọi-là chủng tộc). Chẳng hạn như các kích thích tố IGF-I, IGF-BP3, ALS, PINP, ICTP, P3NP, v.v… yếu tố chủng tộc chỉ giải thích khoảng 1% đến 6% độ biến đổi trong dân số. Nếu tôi đo hormone IGF trong người của tôi và vài đồng nghiệp người Việt khác thì mức độ khác biệt giữa chúng tôi có thể gấp 2 lần, nhưng nếu tôi đo IGF trong một nhóm người Việt và một nhóm người Tây phương thì mức độ khác biệt chỉ tối đa khoảng 5%.

Các nghiên cứu trên có nghĩa là con người nói chung là những sinh vật tương đối thuần nhất. Phần lớn những khác biệt di truyền giữa chúng ta xảy ra ở mức độ cá nhân, chứ không phải ở mức độ cộng đồng. Khái niệm “chủng tộc” vì thế không có cơ sở khoa học. Có thể nói nó là một ý niệm mang tính xã hội (social construct). Đó cũng chính là kết luận của giới nghiên cứu nhân chủng học.

Yếu tố chủng tộc trong y khoa

Do đó, quan điểm chính thống của y học hiện đại là người thầy thuốc không cần phải xem xét đến yếu tố màu da của bệnh nhân để quyết định một loại thuốc hay thuật điều trị. Nhưng với nhiều bằng chứng nghiên cứu mới, một số khoa học gia và bác sĩ không đồng ý với quan điểm “chính thống” trên, họ lí giải và đưa ra nhiều kinh nghiệm thực tế để chứng minh rằng có thể nâng cao hiệu quả của thuốc bằng cách quan tâm đến yếu tố chủng tộc của bệnh nhân. Lí do đằng sau của quan điểm này là hệ thống nội tiết và sự chuyển hóa trong người da trắng khác với người da đen.

Thế nhưng chủng tộc không nhất thiết phải là kim chỉ nam để chọn thuốc điều trị. Đã từ lâu người ta nghĩ rằng bệnh thiếu hồng huyết cầu (sickle cell anemia) là bệnh của người da đen, nhưng gần đây bằng chứng nghiên cứu cho thấy nhận xét này không đúng. Bệnh thiếu hồng huyết cầu là bệnh xuất phát từ những vùng có nhiều bệnh sốt rét. Một số bệnh nhân là người da đen, một số là người Á châu da vàng và người Âu châu da trắng. Gien hồng huyết cầu thường tìm thấy trong những người Phi châu sống gần xích đạo, một số vùng thuộc miền Nam Âu châu, miền Nam Thổ Nhĩ Kì, một vài vùng ở Trung Đông, và miền Trung Ấn Độ. Tuy nhiên, người ta chỉ biết bệnh này thường hay gặp ở người Mĩ da đen (gốc Phi châu). Và, với nhận thức thông thường về chủng tộc, họ mặc nhiên cho rằng cái gì ứng dụng vào người Mĩ da đen cũng có thể ứng dụng vào người da đen. Nhưng có lẽ chính xác hơn, đó là một sự tưởng tượng, chứ không phải là một thực tế sinh học.

Như đề cập trên, vì phần lớn những biến thể di truyền xảy ra ở cấp cá nhân, giới nghiên cứu khoa học có tham vọng phát họa toàn bộ cơ cấu di truyền để có thể đoán trước những bệnh tật và hiệu ứng của các loại thuốc cho một bệnh nhân. Một bộ môn khoa học mới ra đời có tên là pharmacogenetics (tạm dịch là dược liệu di truyền học), với mục tiêu nghiên cứu hiệu ứng của thuốc cho từng cá nhân. Bộ môn này còn non trẻ, nhưng cũng đã có những bước tiến ngoạn mục. Trong ngành loãng xương, chúng tôi đã nghiên cứu mối liên hệ giữa gien và hiệu ứng của các thuốc chống loãng xương, và phát hiện rằng thuốc raloxifene và HRT có hiệu quả cao trong những người có biến thể BB của gien VDR, nhưng thuốc alendronate thì có hiệu quả cao trong những người có biến thể bb. Người ta tiên đoán trong tương lai, mỗi người chúng ta sẽ có một thẻ căn cước sinh học như thẻ tín dụng ngày nay nhưng trong đó chứa hàng chục ngàn gien, và mỗi khi khám bệnh, bác sĩ chỉ việc đưa thẻ vào máy vi tính để biết thuốc gì nên dùng cho bệnh nhân.

Nhưng việc phân tích hàng chục ngàn gien hay phát họa toàn bộ cơ cấu di truyền trong một cá nhân là một việc làm qui mô lớn. Dù phương tiện công nghệ hiện nay có khả năng, nhưng vì điều kiện tài chính cũng như khó khăn về y đức, một công trình như thế vẫn chưa thực thi được cho từng bệnh nhân. Do đó, giới thầy thuốc phải dựa vào một tiêu chí đại diện cho các thông tin di truyền: đó là chủng tộc hay màu da.

Từ xưa đến nay, con người thường có xu hướng kết hôn với người láng giềng hay người đồng chủng tộc, cùng màu da, cùng tiếng nói, hơn là kết hôn với những người ngoại quốc ở những vùng đất xa xôi. Thành ra, khi hai sắc dân cách biệt nhau trên mặt địa lí, mức độ khác biệt di truyền giữa hai sắc dân cũng càng lớn. Trên phương diện di truyền, người Việt Nam khác với người Trung Quốc, nhưng hai sắc dân này càng khác xa so với người Hi Lạp. Nói là khác biệt, nhưng mức độ khác biệt không lớn, và dù không lớn, mức độ khác biệt vẫn có ý nghĩa y khoa. Biết được cội nguồn của chúng ta có thể cung cấp cho chúng ta một vài dấu vết bề những gen mà chúng ta mang trong người. Do đó, phân biệt bệnh nhân qua màu da, chủng tộc cũng có thể là một công cụ của người nghèo trong việc nâng cao hiệu quả của thuốc.

Nhưng “công cụ của người nghèo” đó chỉ có độ đáng tin cậy như một bản báo cáo tình báo mà thôi. Trước hết, như đã nói trên và xin nhấn mạnh một lần nữa, lằn ranh phân chia chủng tộc không phải bao giờ cũng rõ ràng. Bất cứ chủng tộc nào, sắc tộc nào cũng có nhiều biến thể gien giống nhau và một số biến thể gien khác nhau. Bệnh xơ nang có thể phổ biến trong người Bắc Âu châu, nhưng họ không phải là sắc dân duy nhất bị bệnh này.

Thành ra, một trong những nguy hiểm của việc phê chuẩn thuốc BiDiL chỉ dành riêng cho người da đen là nó có thể không có hiệu quả cho một số (chẳng hạn như 50%) người da đen, và người da trắng bị từ chối không được điều trị. Thứ hai, nhiều gen khác nhau phân phối một cách khác biệt giữa các quần thể. Chẳng hạn như xu hướng phân phối của gien bện xơ nang không giống như phân phối của gien bệnh thiếu hồng huyết cầu. Do đó những khác biệt ở qui mô quần thể làm thay đổi từ bệnh này đến bệnh khác. Sau cùng là những khác biệt giữa các chủng tộc có thể là hệ quả của môi trường hơn là di truyền, hoặc cũng có thể do sự tương tác giữa môi trường và các yếu tố di truyền. Trong trường hợp khác biệt về hiệu quả của thuốc BiDiL không ai biết đó là do các yếu tố di truyền hay môi trường.

Tất cả những vấn đề này cho thấy câu hỏi điều trị bằng dược liệu có nên dựa vào màu da hay chủng tộc còn tùy thuộc vào vấn đề chúng ta muốn giải quyết. Đây là một vấn đề thực tế, chứ không phải vấn đề xuất phát từ nguyên lí khoa học hay chính trị. Chủng tộc là một vấn đề nhạy cảm mà thực tiễn khó mà có vai trò trong những tranh luận sáng suốt. Một bên thì quả quyết rằng những khác biệt giữa các sắc dân là một sự thật và quan trọng, cho nên điều trị bằng thuốc men phải dựa vào màu da của bệnh nhân. Mặt khác, các nhà khoa học chống lại chủ nghĩa kì thị chủng tộc dứt khoát đòi tẩy chay nền y học dựa trên màu da vì họ sợ những hậu quả xã hội và chính trị của một chính sách phân biệt chủng tộc.

Có lẽ cả hai phe đều có lí, và có sai. Sự thật là mức độ hiệu ứng của một số thuốc có thể khác biệt giữa các nhóm bệnh nhân, không phải do màu da hay chủng tộc, mà do cấu trúc di truyền khác nhau. Vấn đề đặt ra cho bệnh nhân và bác sĩ là phải chọn thuốc sao cho đem lại hiệu quả tối ưu cho bệnh nhân. Tôi đề nghị vấn đề này nên được tiếp cận qua các nguyên lí của lí thuyết y học thực chứng (evidence-based medicine). Nói một cách ngắn gọn, y học thực chứng là một phương pháp thực hành y khoa dựa vào các dữ kiện y học một cách sáng suốt và có ý thức, nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc bệnh nhân. Các dữ kiện y học ở đây là kết quả nghiên cứu y khoa đã được công bố trên các tập san y học chuyên môn. Sử dụng dữ kiện y học một cách “sáng suốt và có ý thức” có nghĩa là người thầy thuốc phải cân nhắc, đánh giá, phân loại các dữ kiện nghiên cứu y học, kết hợp cùng kinh nghiệm lâm sàng và thông tin từ bệnh nhân. Tóm lại, cái “giáo lí” căn bản của y học thực chứng là bệnh nhân cùng làm việc với bác sĩ, trang bị bằng các dữ kiện khoa học, để đi đến một quyết định, một sự lựa chọn tối ưu cho bệnh nhân [6].

Dựa vào các nguyên lí của y học thực chứng, một nghiên cứu đơn thuần cho phải là bằng chứng đáng tin cậy nhất. Thật vậy, trong nghiên cứu [2] các bác sĩ không có nhóm bệnh nhân người da trắng hay người Á châu; thành ra, khái quát hóa kết quả nghiên cứu cho người da đen vẫn còn hạn chế. Nếu quả thật có sự khác biệt về hiệu ứng của thuốc BiDiL thì có lẽ mức độ khác biệt là do biến thể gien, chứ không phải do màu da. Nhưng rất tiếc nghiên cứu đó không xem xét đến gien, nên vấn đề vẫn còn là một giả thuyết cần điều tra thêm. Đã đến lúc vấn đề cần được xem xét một cách bình tĩnh dựa trên lí trí và nhu cầu thực tế của bệnh nhân, thay vì dựa vào màu da hay chủng tộc.

Tài liệu tham khảo:

[1] Tate SK, Goldstein DB. Will tomorrow’s medicines work for everyone? Nature Genetics 2004; Suppl S36-S7.

[2] Taylor AL, et al. Combination of isosorbide dinitrate and hydralazine in Blacks with heart failure. N Engl J Med 2004; 351:2049-57.

[3] Bloche MG. Race-based therapeutics. N Engl J Med 2004; 351:2035-7.

[4] von Linne C. Systema Naturae: A photographic facsimile of the first volume of the 10th Edition. London: British Museum of Nature History; 1956:20-2.

[5] Bendyshe T. Ed. The anthropological treaties of Johann Friedrich Blummenbach. London: Anthropological Society; 1865; 99:269.

[6] Có thể xem các bài viết về y học thực chứng sau đây: (i) Evidence based medicine: what it is and what it isn’t. BMJ 1996; 312: 71-2; Evidence based medicine. Lancet 1995; 346: 1171; và một loạt bài viết trên Tập san JAMA trong các số sau đây [theo thứ tự: năm, bộ: trang]: JAMA 1993; 270: 2093-95; JAMA 1993; 270: 2598-601; JAMA 1993; 271: 59-63; JAMA 1994; 271: 389-91; JAMA 1994; 271: 703-7; JAMA 1995; 274: 1800-4.


200 năm Darwin
Agent Orange: collateral damage
Alexandre Yersin và Việt Nam
Bàn về hiệu quả vắcxin: lâm sàng và kinh tế
Bàn về vấn đề dịch thuật và đánh giá năng suất khoa học
Béo phì ở người Á châu
Béo phì ở trẻ em và virus
Bình luận từ Dr. Yến
Bưởi không gây ung thư vú
Bảo hiểm y tế cộng đồng
Bảo tồn môi sinh: Chiến tranh giữa hai thế giới
Bằng chứng khoa học thay vì lên lớp
Bệnh tả: không để Việt Nam thành Bangladesh thứ hai
Bệnh tật nhìn từ quan điểm của thuyết tiến hóa
Bệnh xơ hóa cơ delta qua y văn thế giới
Bổ sung kẽm và điều trị bệnh tả
Bộ gen trong cây lúa và triển vọng
Bộ Y tế phản ứng chậm với rét đậm
Chiều cao của người Việt
Chiều cao và tổng thống Mĩ
Cholesterol và bệnh Tim
Cholesterol: hung thần hay bạn?
Chuột và... các nhà khoa học
Chính sách y tế cần dựa vào bằng chứng khoa học
Chạy đua vũ khí và … dịch cúm
Chất béo, cholesterol, bệnh tim và statins: xét lại bằng chứng
Chất keo xã hội: hormones
Chất lượng nghiên cứu dịch tễ học và y tế cộng đồng của Việt Nam qua chỉ số H
Chất lượng nghiên cứu khoa học ở Việt Nam qua chỉ số trích dẫn
Chất vấn chuẩn chẩn đoán béo phì
Chế độ ăn uống với nhiều thịt động vật và nguy cơ tử vong
Chủng vi khuẩn tả hiện nay ở nước ta có phải mới xuất hiện?
Cuộc chiến hóa học phi pháp lớn nhất trong lịch sử chiến tranh
Câu chuyện y học: Leptin và béo phì
Có bao nhiêu bác sĩ viết chữ khó đọc
Có nên tập trung vào vi khuẩn E. coli ?
Có thể xảy ra đại dịch cúm gia cầm?
Công cụ đơn giản để chẩn đoán tiểu đường ở người Đông Nam Á
Cúm gia cầm và nhiễu thông tin
Cúm H1N1: biết và chưa biết
Cơ hội để khép lại một chương lịch sử đau lòng
Cần hiểu đúng về Ung thư và nguy cơ ung thư
Cần qui ước đạo đức cho kĩ nghệ thực phẩm
Cần tiêm chủng ngừa bệnh tả vùng có nguy cơ cao
Cần điều tra về chất lượng bệnh viện
Cổ phần hóa bệnh viện công và chất lượng
Cổ phần hóa: chưa phải cách duy nhất
DDT và vấn đề cân đối giữa lợi ích và nguy hiểm
Dinh dưỡng: một nguồn thuốc quí giá
DNA không nói dối, nhưng DNA có thể nói … sai
Dịch cúm gà: hoang mang và sự thật khoa học
Dịch cúm heo và tác hại kinh tế
Dịch tay-chân-miệng
Dịch tả: gọi đúng tên để phòng ngừa
Dựa vào khoa học, đừng dựa vào niềm tin!
E. coli – vài câu hỏi thông thường
Gen và bệnh tật
Ghen tuông dưới cái nhìn của tâm lí y khoa
Gian lận trong nghiên cứu khoa học: áp lực kinh tế và cơ chế bình duyệt
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC: KHƠI DẬY VÀ NUÔI DƯỠNG TÍNH HAM HỌC
Giải nobel y học hay sinh lí học 2007 và lợi ích cho người bệnh
Giải Nobel Y sinh học 2008 và những tranh chấp khoa học
Giải Nobel y sinh học 2010 vinh danh người đem niềm vui cho người vô sinh
Giải Nobel y sinh học năm 2005: Một cõi đi về với vi khuẩn
Giải Nobel y sinh học: Nhìn lại quãng đường 100 năm
Giải phẫu ghép mặt và vấn đề y đức
Gout ở xương sống
Gãy xương và tử vong: một vấn nạn y tế cộng đồng
Hiệu quả vắcxin có nghĩa gì?
Hoa vàng mấy độc
Hàm lượng đạm trong sữa “siêu thấp” hay “siêu cao”?
Hóa chất khai hoang trong cuộc chiến Viện Nam: Qui mô và tầm ảnh hưởng
Hướng đi nào để giải quyết vấn đề chất độc da cam ở Việt Nam
Hậu “mắm tôm được minh oan”: bằng chứng khoa học, nhà xí và nghiên cứu
Hệ Thống Học Vị Và Học Hàm Khoa Học Ở Vài Nước Tây Phương
Hợp tác khoa học kiểu nhảy dù - Nguyễn Văn Tuấn
Khi bác sĩ trẻ “khoe” quá nhiều
Khoa học và ngụy khoa học: một vài đặc điểm và khác biệt cần biết
Khoa học, xã hội, và rủi ro
Không thể thành Phù Đổng trong 20 năm!
Khẩu trang và phòng chống cúm A/H1N1
Kiểm định giả thuyết mắm tôm và vi khuẩn tả
Liều lượng melamine bao nhiêu là an toàn?
Lí lịch sinh học của heo và dấu vết văn minh nông nghiệp Đông Nam Á
Lượng giá mạng sống con người
Lợi ích của vitamin D
Miệng nhà quan
Mắm tôm có phải là “thủ phạm” gây bệnh tả? Xét lại bằng chứng khoa học
Mắm tôm và chuyện xin lỗi
Mắm tôm và dịch tả: phân biệt yếu tố nguy cơ và nguyên nhân
Mắm tôm vô tội!
Mắm tôm, nguyên nhân và hệ quả
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Một bệnh hiếm X-linked recessive hypoparathyroidism
Một lần đi phỏng vấn
Một năm nhìn lại
Một phán quyết thiếu cơ sở khoa học
Một vài hiểu lầm tai hại
Một vài ngộ nhận về nghiên cứu khoa học
Một vài vấn đề về qui định chức danh giáo sư ở Việt Nam
Một vụ Madoff trong y khoa: Lại một ngôi sao y khoa rơi rụng!
Mỡ trắng, mỡ nâu
Mỡ  trong máu, huyết áp, và  tiểu đường
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nguyên nhân bệnh tiêu chảy
Ngó trên tay điếu thuốc đã lụi dần
Người cao tuổi và sự hạn chế của y khoa
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Nhân chuyện dịch tả nhớ lại John Snow
Nhân câu chuyện điện não đồ xét nghiệm nghiện ma túy:
Nhân năm khỉ_nguồn gốc con người hiện đại
Nhân năm Tý bàn chuyện thí nghiệm trên chuột
Nhìn lại khoa học Việt Nam năm 2008 qua công bố quốc tế
Nhầm lẫn trong y khoa: Khá phổ biến, nhưng ít ai biết!
Những câu hỏi và trả lời về dịch gia cầm
Những sai sót khó tin nhưng có thật
Những sai sót nguy hiểm trong toa thuốc
Những điều khó tin về “Bảy điều khó tin nhất trong y học”
Năm lí do cho mắm tôm “vô tội”
Phán quyết sau cùng: Chất béo không ảnh hưởng đến ung thư và bệnh tim
Phát hiện gien kiểm soát ráy tai: vài bài học về mò kim đáy biển
Phòng chống bệnh phải dựa vào bằng chứng khoa học!
Phòng chống H1N1 bằng rửa tay và khẩu trang: Biện pháp nào hiệu quả hơn?
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao và cân nặng: thiếu cơ sở khoa học và kì thị giới tính
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao: vấn đề giả định và bằng chứng khoa học
Quyền phê phán và trí thức
Quyền được tiếp cận hồ sơ bệnh án
Quản lý chất lượng: Thuốc phòng "tai nạn y khoa"
Rửa tay bằng xà phòng và tiêu chảy
Serotonin có liên quan đến chứng đột tử
Suy dinh dưỡng ở trẻ em: vấn đề của kinh tế
Sàng lọc trẻ sơ sinh trên phạm vi toàn quốc
Tai nạn y khoa trong bệnh viện
Thế nào là một "bài báo khoa học"
Thế nào là “Cơ sở khoa học” ?
Thịt chó là nguyên nhân của bệnh tiêu chảy cấp tính?
Thịt chó và bệnh tả: nguyên nhân và yếu tố nguy cơ
Tiên lượng bệnh Alzheimer bằng protein expression ?
Tiêu chuẩn chất lượng giáo dục đại học
Tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì cho người Việt - Nguyễn Văn Tuấn
Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh đái tháo đường (diabetes mellitus)
Tiêu chuẩn đề bạt giáo sư: Có nên căn cứ vào số lượng bài báo ?
Tiêu chảy cấp tính và bệnh tả: Định danh cho đúng
Truy tìm ung thư bằng mammography từ tuổi 50
Truyền thông và khoa học: Qui ước Ingelfinger
Truyền thông và y tế
Truyền thông, khoa học và … doanh nghiệp
Trà xanh và sức khỏe
Trách nhiệm và nhân đạo trong vấn đề chất độc da cam
Trái chanh và phòng chống bệnh tả
Trả lời những câu hỏi liên quan đến loãng xương
Trọng lượng cơ thể và tử vong ở người Trung Quốc: Ý nghĩa về việc xác định tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì
Tuổi thọ của người dân giảm 10 năm ?
Tác dụng Placebo trong y học: Tâm lí và ý nghĩa
Tình yêu, sắc đẹp nhìn dưới quan điểm di truyền học
Tín hiệu môi trường từ những “làng ung thư”
Tính khoa học và minh bạch đằng sau xét nghiệm doping
Tại sao không phát biểu về nguyên nhân và hệ quả ?
Tại sao uống rượu gây đỏ mặt và nguy cơ ung thư thực quản
Tạo sinh vô tính và cái chết của Thượng đế
Tạo sinh vô tính và vấn đề sinh đạo đức
Tản mạn về SARS
Tỉ lệ tử vong do cúm heo là bao nhiêu ?
Tự trị, chất lượng và y đức thay vì cổ phần hóa bệnh viện công
Ung thư vú và vấn đề thông tin y khoa
Uống bia hấp dẫn muỗi
Vaccine phòng chống AIDS hiệu quả đến đâu ?
Vaccine phòng chống cúm A/H1N1
Vi khuẩn gây tiêu chảy và ý nghĩa tiêm chủng
Vi khuẩn tả trong chó ?
Viết văn có thể chữa nhiều loại bệnh
Viết văn và trị liệu
Việc ta, ta cứ làm!
Vài nhận xét về 12 điều lệ y đức của Việt Nam
Vài thông tin cần biết về các chương trình truy tìm ung thư vú
Vài đóng góp quan trọng của người Việt khoa học thống kê
Văn hóa khoa học
Văn hóa tranh luận và vấn đề ngụy biện
Vấn đề sinh tố: kẽm và đồng
Vấn đề truy tìm ung thư phổi và hiệu quả 
Vấn đề y đức trong nghiên cứu tế bào mầm (stem cells)
Vấn đề đo lường melamine
Vấn đề đào tạo tiến sĩ: kinh nghiệm từ Australia
Vắc-xin phòng chống ung thư cổ tử cung
Vắcxin ngừa viêm gan B: cẩn thận với “nhiễu thông tin”
Vắcxin ngừa viêm gan B: kinh nghiệm từ nước ngoài
Vắcxin phòng bệnh sởi - quai bị - Rubella: lợi và hại
Vắcxin phòng chống ung thư cổ tử cung: hiệu quả lâm sàng và kinh tế
Vắcxin phòng ngừa bệnh tả: rất cần thiết
Về chấn chỉnh đào tạo tiến sĩ: Công bố bài báo khoa học là một thách thức lớn ?
Về học vị tiến sĩ
Về một sự hiểu lầm thuật ngữ "prospective"
Về phản ứng phụ của bisphosphonates liên quan đến hoại tử xương hàm và rung nhĩ
Vệ sinh như là một loại hàng hóa
Vị thế của nền khoa học Việt Nam
Xung quang xì căng đan về nghiên cứu tế bào mầm
Xã hội hóa và an toàn thực phẩm
Xếp hạng đại học: cần minh bạch hóa phương pháp
Y học hiện đại và những hứa hẹn
Y học thực chứng: vài nét khái quát
Y Khoa và những nhầm lẫn chết người
Y tế dự phòng: nền tảng của y khoa hiện đại
Y đức và nghiên cứu y học
Ói mửa, cao huyết áp và hôn mê
Ăn chay như là một trị liệu
Ăn chay và loãng xương
Điều trị bệnh dựa vào màu da ?
Điều trị đau dây thần kinh tọa bằng phẫu thuật: không có hiệu quả
Đo lường hiệu suất khoa học
Đánh giá đúng tầm quan trọng của ung thư vú 
Đại dịch H1N1
Đại dịch và đại dịch ảo
Đại dịch đã đến ?
Đạo văn trong hoạt động khoa học
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đằng sau những con số hàm lượng đạm trong sữa
Đế quốc Trà
Đề bạt các chức danh khoa bảng: vài kinh nghiệm từ Úc
Đọc lại 12 điều y đức của Việt Nam
Đồi điều về sữa nhiễm melamine
Đừng quên melamine trong các thực phẩm khác!
Ước vọng 200 ?
“Kỹ năng mềm” cho nhà khoa học
“Sẽ” và “có thể”


Trang nhiều tác giả
Trang riêng của Lê Ngọc Dũng
Trang riêng của Lương Lễ Hoàng
Trang riêng của Nguyễn Bảo Trung
Trang riêng của Nguyễn Hoài Nam
Trang riêng của Nguyễn Hữu Đức
Trang riêng của Nguyễn Văn Tuấn
Trang riêng của Nguyễn Ý Đức
Trang riêng của Nguyễn Đình Nguyên
Trang riêng của Phan Xuân Trung
Trang riêng của Đỗ Hồng Ngọc
Trang riêng của Đỗ Minh Tuấn