NGUYỄN VĂN TUẤN

Vài thông tin cần biết về các chương trình truy tìm ung thư vú

Nguyễn Văn Tuấn

Một bản tin ngắn trên trang nhà VnExpress.net cho biết tỉ lệ ung thư vú trong phụ nữ người Việt hiện nay là 18 trên 100,000 người, gần bằng tỉ lệ trong phụ nữ Tây phương, và các chuyên gia “khuyến cáo phụ nữ trên 35 tuổi cần đi khám tầm soát bệnh tuyến vú định kỳ 2 năm / lần” (1). Có nhiều lí do để có thể nói rằng lời khuyến cáo này quá đơn giản, thiếu cơ sở khoa học, và không giúp ích cho quần chúng.

Theo thống kê của Viện ung thư quốc gia Mĩ (National Cancer Institute), trong thời gian từ 1996 đến 2000, tỉ lệ phát hiện ung thư vú trong các phụ nữ da trắng là 141 trên 100.000 phụ nữ. Một nghiên cứu từ Việt Nam cho thấy tỉ lệ ung thư vú tại Hà Nội là 26,7 trên 100.000 phụ nữ, cao hơn tỉ suất tại Thành phố Hồ Chí Minh với tỉ suất khoảng 12,2 trên 100.000 phụ nữ (2). Ngay cả trong cộng đồng người Việt tại Mĩ, phụ nữ thường hay tham gia vào các chương trình truy tìm ung thư vú, tỉ suất bị ung thư vú trong phụ nữ Việt Nam là 35 trên 100,000 phụ nữ (3). Như vậy, tỉ suất ung thư vú trong phụ nữ Mĩ cao hơn phụ nữ Việt Nam từ 5 đến 11 lần. Không thể và không nên nói nói tỉ lệ ung thư vú phụ nữ Việt Nam “tiệm cận với các nước phương Tây” (1) được.

Hiện nay, có nhiều cách để khám nghiệm ung thư vú, nhưng tựu trung lại, có thể nói là 3 cách: dùng quang tuyến X (mammography), do bác sĩ khám, và tự khám. Các chương trình khám nghiệm ung thư vú thường kêu gọi phụ nữ nên đi khám bằng quang tuyến X ít nhất là một lần, và thường xuyên tự khám hay đến bác sĩ để được khám. Nhưng vì mức độ nguy cơ bị ung thư vú tăng theo tuổi tác, những lời khuyên thường được dựa vào tuổi của mỗi cá nhân.

Trên thế giới chưa có một tổ chức y tế nào khuyên phụ nữ tuổi từ 35 trở lên nên đi khám nghiệm ung thư vú 2 năm một lần. Tại Mĩ, nơi mà việc phòng ngừa ung thư vú được phát động trong cộng đồng một cách sâu rộng, các giới chức y tế thuộc Trung tâm phòng ngừa ung thư vú (Mĩ) khuyến cáo các phụ nữ chỉ nên đi chụp quang tuyến vú mỗi năm (hay hai năm) một lần, nhưng không phải từ độ tuổi 40 mà kể từ lúc 50 tuổi trở lên. Điều này cũng có lí do, bởi vì phần lớn phụ nữ bị ung thư trên độ tuổi 50.

Nhưng quyết định có nên đi khám nghiệm ung thư vú thường xuyên hay không là quyết định cá nhân của người phụ nữ, chứ không phải quyết định của bác sĩ. Muốn đi đến một quyết định sáng suốt, người phụ nữ cần phải có thông tin vừa đầy đủ vừa chính xác. Nhưng thông tin mà người phụ nữ cần biết là mục tiêu của việc khám nghiệm thường xuyên là gì. Ngoài ra, người phụ nữ cần biết những sự thật sau đây:

(a) Việc khám nghiệm ung thư vú đại trà như người ta hằng kêu gọi có thể không đem lại lợi ích cho họ;

(b) Một khám nghiệm ung thư vú có thể đưa người phụ nữ vào một vòng tròn thử nghiệm và tái thử nghiệm, tốn nhiều tiền, mà lợi ích chưa rõ;

(c) Họ có thể được chẩn đoán có ung thư, nhưng trong thực tế họ không hề bị ung thư;

(d) Họ có thể trải qua những đợt điều trị không cần thiết.

Mục đích chính của những chương trình thử nghiệm ung thư vú ở qui mô cộng đồng là, qua phát hiện ung thư sớm, hi vọng sẽ điều trị và quản lí căn bệnh sớm, và làm giảm tỉ lệ tử vong. Nói một cách khác, mục đích chính của việc khám nghiệm ung thư vú là để cứu người, ngăn ngừa những cái chết không cần thiết.

Nhưng khám nghiệm ung thư vú thường xuyên có thật sự cứu sống phụ nữ? Trong thời gian khoảng 10 năm trở lại đây, đã có 10 công trình nghiên cứu lớn, với tổng số đối tượng hơn 500 ngàn phụ nữ, được tiến hành ở Mĩ, Tô Cách Lan (Scotland), Canada, và Thụy Điển. Kết quả các cuộc nghiên cứu này có thể tóm gọn như sau: Đối với các phụ nữ trong độ tuổi 40, khám nghiệm ung thư vú không làm giảm tỉ lệ tử vong. Đối với các phụ nữ trong độ tuổi 50 hay cao hơn, có 3 nghiên cứu cho thấy sau thời gian theo dõi từ 7 đến 8 năm, khám nghiệm thường xuyên có thể làm giảm tỉ lệ tử vong do ung thư vú gây ra, còn 5 nghiên cứu còn lại cho thấy không có khác biệt gì về tỉ suất tử vong do ung thư vú gây ra giữa hai nhóm, hay sự khác biệt quá nhỏ không có ý nghĩa thống kê và lâm sàng. Nói tóm lại, chưa có bằng chứng nào khẳng định lợi ích của việc khám nghiệm ung thư vú.

Một kết quả dương tính từ X quang chưa phải là một chẩn đoán sau cùng, vì bệnh nhân còn phải qua sinh thiết (biopsy). Sinh thiết là một thử nghiệm có thể cho ra một chẩn đoán chính xác hơn. Sinh thiết là một phương pháp thử nghiệm: bác sĩ cắt một mô nhỏ trong vú, và dùng kính hiển vi để xem có ung thư hay không. Trong thực tế sinh thiết là một cuộc phẫu thuật nhỏ, và cũng như bất cứ cuộc phẫu thuật nào, nó cũng để lại cho người bệnh nỗi đau đớn, và có thể dẫn đến những biến chứng phức tạp tiếp theo. Do đó, sinh thiết không phải là phương pháp thử nghiệm bác sĩ nào cũng muốn tiến hành cho tất cả bệnh nhân, nhất là những bệnh nhân không có triệu chứng ung thư. Một mục tiêu của việc truy tìm ung thư là xác định xem ai cần (và ai không cần) phải qua thử nghiệm sinh thiết. Nếu kết quả sinh thiết là dương tính (tức bệnh nhân bị ung thư) thì bước kế tiếp là điều trị. Nếu kết quả sinh thiết là âm tính, bệnh nhân có thể phải qua một vòng thử nghiệm nữa (như siêu âm, hay quay lại từ đầu, có nghĩa là tái khám X quang) để xác định xem đó có phải là âm tính thật sự hay không.

Biểu đồ sau đây sẽ minh họa (một cách đơn giản, vì trong thực tế phức tạp hơn nhiều) cho các bước cần thiết:

Đến đây, nhìn qua vào biểu đồ này, có lẽ bạn đọc đã có một vài ý niệm về quá trình chẩn đoán ung thư. Như biểu đồ cho thấy, một kết quả dương tính trong truy tìm ung thư (bước đầu) có thể sai vì kết quả sinh thiết có thể cho thấy không có ung thư. Và truy tìm ung thư bằng X quang chỉ là bước đầu, bước sơ khởi để truy tìm ung thư.

Một điều cần phải nói rõ ở đây là không có một phương pháp thử nghiệm nào hoàn hảo cả. Tất cả thử nghiệm, dù đơn giản hay tinh vi, đều có thể cho ra kết quả sai. Một trong những sai sót quan trọng là kết quả dương tính giả, có nghĩa là thử nghiệm cho biết người phụ nữ bị ung thư vú nhưng trong thực tế họ chẳng bị ung thư vú! Có bao nhiêu trường hợp dương tính giả trong các phương pháp thử nghiệm ung thư thông thường? Đối với X quang để truy tìm ung thư vú, một số nghiên cứu Âu châu cho thấy tỉ lệ dương tính giả khoảng 5% trong lần khám đầu tiên. Ở Mĩ, tỉ lệ dương tính giả thường dao động vào khoảng 6% đến 7%. Nhưng trong lần khám thứ hai, tỉ lệ dương tính giả có thể giảm xuống còn 2,5% đến 4%. Tại sao? Lần đầu tiên khám X quang vú, bác sĩ không có một hình ảnh nào trước để so sánh. Tất cả vú đều khác nhau, và rất mà khó để biết thế nào là độ khác nhau bình thường và mức độ khác nhau một cách bất bình thường. Trong điều kiện không có một kết quả thử nghiệm nào trước đây, bác sĩ có xu hướng chẩn đoán dương tính khi thấy chưa rõ ràng. Nhưng khi có thêm một kết quả mới, họ có hình ảnh để so sánh, và có thể tìm thấy những thay đổi trong vú. Thành ra, các lần khám sau có tỉ lệ dương tính giả thấp hơn lần đầu.

Nhưng vấn đề không chỉ dừng lại ở đó. Bởi vì thử nghiệm ung thư thường được lặp lại trong một thời gian, có khi lên đến 10 năm, nên câu hỏi đặt ra là trong n lần thử nghiệm như thế, tỉ lệ dương tính giả tối thiểu 1 lần là bao nhiêu? Để trả lời câu hỏi này, chúng ta có thể làm một bài toán xác suất cơ bản. Thử tưởng tượng một thử nghiệm với tỉ lệ dương tính giả là 10% (tức cứ mỗi lần thử nghiệm, xác suất dương tính giả là 10%). Nếu một người trải qua 2 lần thử nghiệm, xác suất ít nhất 1 kết quả dương tính giả là bao nhiêu? Chúng ta phải đảo ngược câu hỏi để trả lời: xác suất 2 kết quả dương tính thật trong 2 lần thử nghiệm là bao nhiêu? Bởi vì mỗi lần thử nghiệm, xác suất dương tính thật là 90% (tức 100 trừ cho tỉ lệ dương tính giả), cho nên xác suất cả 2 kết quả dương tính thật là 0.9 x 0.9 = 0.81 hay 81%. Nói cách khác, xác suất ít nhất một kết quả dương tính giả trong 2 lần thử nghiệm là 100 – 81 = 19%. Do đó, nếu một người trải qua 10 lần thử nghiệm, thì xác suất ít nhất 1 kết quả dương tính giả là 1 – 0.910 = 0.65 hay 65%. Nói cách khác, thử nghiệm càng nhiều, tỉ lệ dương tính giả càng tăng.

Thế nếu kết quả âm tính từ lần truy tìm ung thư đầu tiên bằng X quang có khả năng sai không? Trả lời: Vâng, rất có khả năng sai. Lí do đơn giản, như biểu đồ trên cho thấy, một khi kết quả âm tính, không ai đi thử nghiệm sinh thiết xem có thật là không bị ung thư hay không. Chỉ khi nào ung thư phát triển thành triệu chứng thì người ta mới đi thử nghiệm sinh thiết.

Nếu chẩn đoán đúng và ung thư được phát hiện kịp thời (sớm), thì điều trị có khả năng thành công cao. Đó là những trường hợp ung thư ác tính. Nhưng đối với nhiều người khác, tình hình khác hơn: ung thư trong họ phát triển rất chậm (hay có khi không phát triển) và chẳng bao giờ gây nên tác hại gì đáng kể. Đó là những trường hợp ung thư lành tính. Vấn đề khó khăn ở đây là bác sĩ không thể phân biệt một cách chính xác giữa hai trường hợp. Vì không phân biệt được, nên cách tốt nhất là chữa trị cả hai trường hợp. Đó chính là nhược điểm lớn nhất và hậu quả tiêu cực nhất của các chương trình truy tìm ung thư. Những vấn đề như kết quả dương tính giả hay thử nghiệm nhiều lần không gây tác hại bằng những trường hợp mà điều trị không cần thiết.

Tất nhiên, một chẩn đoán sai sẽ dẫn đến điều trị không cần thiết. Mà các thuật điều trị hiện nay đều mang tính “mạnh” và xâm phạm. Chẳng hạn như cắt bỏ vú, quang tuyến trị liệu, hay hóa học trị liệu, tất cả đều mang đến cho người bệnh nhiều biến chứng. Có khi chính quang tuyến trị liệu là nguyên nhân gây ung thư! Đó là chưa nói đến ảnh hưởng tâm lí đến người bệnh, vì một kết quả không chắc chắn sẽ làm cho họ lo âu, và có thể dẫn đến nhiều hậu quả khó lường trước. Năm 2002, Tập san y học Western Medical Journal công bố một công trình nghiên cứu về đặc tính ung thư vú trong cộng đồng người Việt Nam ở vùng Bắc California, và kết quả rất đáng lo ngại. Một điều rất ngạc nhiên là trong số những phụ nữ Việt Nam bị loại ung thư “nhẹ”, có đến 61% giải phẫu cắt bỏ vú, so với chỉ 46% trong các phụ nữ người Mĩ da trắng và 52% các phụ nữ người Trung Quốc! Tính chung tất cả loại ung thư, tỉ lệ cắt bỏ vú trong phụ nữ Việt Nam vẫn rất cao (64%), so với 50% trong các phụ nữ người Mĩ da trắng, hay 56% trong các phụ nữ người Trung Quốc. Các nhà nghiên cứu bày tỏ ngạc nhiên về sự chênh lệch quan trọng trên đây, và tỏ ý muốn nghiên cứu thêm để biết tường tận vấn đề. Trong quá khứ đã có nhiều nghiên cứu cho thấy tỉ lệ cắt bỏ vú thường tùy thuộc vào: (i) thành phần bệnh nhân (người nghèo khó trong xã hội thường chọn/bị cắt bỏ vú); (ii) thành phần bác sĩ; và (iii) kinh nghiệm nghề nghiệp của bác sĩ. Công trình nghiên cứu trên đây không xem xét đến ba yếu tố này, nên chúng ta chưa biết tại sao phụ nữ Việt Nam lại bị nhiều giải phẫu như thế

Vấn đề lợi nhuận và thương mại cũng cần phải đặt ra trước những khuyến cáo không có cơ sở khoa học vững vàng. Có một câu chuyện ngoài lề khoa học, nhưng có ý nghĩa lớn đến vấn đề mâu thuẫn quyền lợi của bác sĩ: chuyện kể rằng trong một buổi tiệc một bác sĩ chuyên khoa ung thư nói với vị đồng nghiệp là một bác sĩ quang tuyến rằng ông không muốn giới thiệu bệnh nhân mình đến các trung tâm quang tuyến vì tỉ lệ dương tính giả cao và có thể có hại cho bệnh nhân. Vị bác sĩ quang tuyến hỏi lại vị bác sĩ ung thư là ông lấy những con số về tỉ lệ dương tính giả từ đâu. Bác sĩ ung thư trả lời: “Từ hàng trăm ngàn phụ nữ trong các nghiên cứu lâm sàng ở Mĩ, Thụy Điển và các nước khác.” Vị bác sĩ quang tuyến giận dữ quát tháo ầm ỉ: “Ở Mĩ họ không biết đọc kết quả X-quang tuyến vú,” và đứng dậy bước ra khỏi bàn tiệc trong khi chưa dùng xong bữa ăn! Vấn đề của vị bác sĩ quang tuyến này không phải là ở Mĩ hay kết quả quang tuyến, mà là cái “nồi cơm kinh tế” của ông ta. Trong quá khứ các bác sĩ ung thư và bác sĩ gia đình gửi bệnh nhân đến cho ông ta, và nếu mai đây chỉ cần phân nửa bệnh nhân không đến với ông, thì cơ sở thương mại của ông chắc sẽ gặp nguy cơ phá sản. Vị bác sĩ ung thư nọ rất đáng phục, vì ông không sợ mất một người bạn để nói lên sự thật cho bệnh nhân.

Ung thư vú là một căn bệnh khó chẩn đoán. Một số bướu phát triển rất nhanh, nhưng một số khác chẳng gây nên triệu chứng nào đáng để ý, và lại có một số bướu nằm trong hai loại trên. Khi quyết định tham gia vào một cuộc khám nghiệm ung thư vú bằng quang tuyến X, người phụ nữ đứng trước một tình thế mà trong đó ảo tưởng về sự tuyệt đối của y khoa và khả năng xử lí thông tin số liệu ảnh hưởng một cách sâu sắc. Ảo tưởng về sự kì diệu của y khoa thường được giới y tế, kể cả bác sĩ, dung dưỡng bằng cách trình bày những thông tin mang tính áp lực cho người bệnh phải chọn giữa hai thái cực về sự chắc chắn và nguy hiểm. Nhưng trong thực tế, sự lựa chọn nằm trong chỉ hai cái nguy hiểm: nguy hiểm khi đi khám, và nguy hiểm khi không đi khám bằng quang tuyến X. Cái ảo tưởng về sự chắc chắn của y khoa còn được gò ép qua những tờ truyền đơn do các cơ quan y tế cung cấp, mà trong đó lợi ích được trình bày một cách thổi phồng (có khả năng lừa dối công chúng), trong khi các tác hại thì lại được mô tả bằng một ngôn ngữ hời hợt, thậm chí còn dấu luôn cả những thông tin quan trọng như tỉ lệ dương tính giả trong các thử nghiệm ung thư vú. Ngoài ra, các thông tin về khám nghiệm bằng quang tuyến X thường được trình bày dưới dạng xác suất, mà ngay cả bác sĩ còn cảm thấy khó hiểu, khó diễn dịch, huống chi là người bệnh không quen với các khái niệm về xác suất. Thành ra, kiến thức về lợi ích và tác hại của việc khám nghiệm ung thư vú bằng quang tuyến X trong phụ nữ cực kì thấp.

Trong người Việt vấn đề thiếu thông tin còn trầm trọng hơn, và hậu quả là phần lớn đồng hương không nghe đến hay biết gì về quang tuyến X và ung thư vú. Có lẽ thiếu thông tin là một yếu tố dẫn đến tỉ lệ giải phẫu cắt bỏ vú quá cao trong phụ nữ Việt Nam ở California. Hiện nay, đang có nhiều nỗ lực cung cấp thông tin cho đồng hương do các nhóm bất vụ lợi chủ trương, nhưng nội dung vẫn còn khiêm tốn. Phần lớn thông tin vẫn được diễn đạt bằng những danh từ chuyên môn, khó hiểu, mà lại “hi sinh” những thông tin về tác hại (hay tiềm năng gây tác hại) của việc điều tra và chữa trị ung thư vú.

Trong những phương tiện có khả năng làm thay đổi tình trạng hiện nay, phương pháp thông tin là đơn giản nhất và có thể đem lại lợi ích cao nhất. Phương pháp này bao gồm việc diễn đạt tình trạng hiểm nguy một cách rõ ràng và đầy đủ, và giải hóa những thông tin sai lạc đang che phủ sự sáng suốt của công chúng. Một khi sự sáng suốt thay đổi sự lu mờ [đang chiếm ưu thế hiện nay], cải cách nghề nghiệp chuyên môn mới có thể đem lại hiệu quả cho y học hiện đại.

Hi vọng rằng qua những sự thật nêu trên sẽ giúp cho bạn đọc hiểu rằng truy tìm ung thư không phải lúc nào cũng suôn sẻ, và có khi gây ra tác hại. Nói “có thể gây ra tác hại” không có nghĩa là chương trình truy tìm ung thư nào cũng sẽ gây tác hại. Nhưng nếu có người khuyên bạn nên đi thử nghiệm ung thư, bạn phải hiểu những khía cạnh tiêu cực và nhược điểm của việc thử nghiệm, và phải cân nhắc cẩn thận trước khi đi đến một quyết định có nên tham gia hay không.

Chú thích:

(1) “BV Pháp Việt giảm giá dịch vụ chụp nhũ ảnh”, VNExpress, www.vnexpress.net/Vietnam/Suc-khoe/2004/10/3/B9D5F34/

(2) Anh PTH, Parkin DM, Hanh TN, Du NB. Camcer in the population of Hanoi, Vietnam 1988-1990. British Journal of Cancer 1993; 88:1236-42.

(3) Lin SS, Phan JC, Lin AY. Breast cancer characteristics of Vietnamese women in the Greater San Francisco Bay Area. West J Med 2002; 176:87-91.

(4) Tài liệu “Ung thư vú: Những điều phụ nữ Việt Nam nên biết” (Chương trình Health is Gold! – Sức khỏe là vàng, do Trường Y, Đại học California – San Francisco (UCSF) ấn hành).


200 năm Darwin
Agent Orange: collateral damage
Alexandre Yersin và Việt Nam
Bàn về hiệu quả vắcxin: lâm sàng và kinh tế
Bàn về vấn đề dịch thuật và đánh giá năng suất khoa học
Béo phì ở người Á châu
Béo phì ở trẻ em và virus
Bình luận từ Dr. Yến
Bưởi không gây ung thư vú
Bảo hiểm y tế cộng đồng
Bảo tồn môi sinh: Chiến tranh giữa hai thế giới
Bằng chứng khoa học thay vì lên lớp
Bệnh tả: không để Việt Nam thành Bangladesh thứ hai
Bệnh tật nhìn từ quan điểm của thuyết tiến hóa
Bệnh xơ hóa cơ delta qua y văn thế giới
Bổ sung kẽm và điều trị bệnh tả
Bộ gen trong cây lúa và triển vọng
Bộ Y tế phản ứng chậm với rét đậm
Chiều cao của người Việt
Chiều cao và tổng thống Mĩ
Cholesterol và bệnh Tim
Cholesterol: hung thần hay bạn?
Chuột và... các nhà khoa học
Chính sách y tế cần dựa vào bằng chứng khoa học
Chạy đua vũ khí và … dịch cúm
Chất béo, cholesterol, bệnh tim và statins: xét lại bằng chứng
Chất keo xã hội: hormones
Chất lượng nghiên cứu dịch tễ học và y tế cộng đồng của Việt Nam qua chỉ số H
Chất lượng nghiên cứu khoa học ở Việt Nam qua chỉ số trích dẫn
Chất vấn chuẩn chẩn đoán béo phì
Chế độ ăn uống với nhiều thịt động vật và nguy cơ tử vong
Chủng vi khuẩn tả hiện nay ở nước ta có phải mới xuất hiện?
Cuộc chiến hóa học phi pháp lớn nhất trong lịch sử chiến tranh
Câu chuyện y học: Leptin và béo phì
Có bao nhiêu bác sĩ viết chữ khó đọc
Có nên tập trung vào vi khuẩn E. coli ?
Có thể xảy ra đại dịch cúm gia cầm?
Công cụ đơn giản để chẩn đoán tiểu đường ở người Đông Nam Á
Cúm gia cầm và nhiễu thông tin
Cúm H1N1: biết và chưa biết
Cơ hội để khép lại một chương lịch sử đau lòng
Cần hiểu đúng về Ung thư và nguy cơ ung thư
Cần qui ước đạo đức cho kĩ nghệ thực phẩm
Cần tiêm chủng ngừa bệnh tả vùng có nguy cơ cao
Cần điều tra về chất lượng bệnh viện
Cổ phần hóa bệnh viện công và chất lượng
Cổ phần hóa: chưa phải cách duy nhất
DDT và vấn đề cân đối giữa lợi ích và nguy hiểm
Dinh dưỡng: một nguồn thuốc quí giá
DNA không nói dối, nhưng DNA có thể nói … sai
Dịch cúm gà: hoang mang và sự thật khoa học
Dịch cúm heo và tác hại kinh tế
Dịch tay-chân-miệng
Dịch tả: gọi đúng tên để phòng ngừa
Dựa vào khoa học, đừng dựa vào niềm tin!
E. coli – vài câu hỏi thông thường
Gen và bệnh tật
Ghen tuông dưới cái nhìn của tâm lí y khoa
Gian lận trong nghiên cứu khoa học: áp lực kinh tế và cơ chế bình duyệt
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC: KHƠI DẬY VÀ NUÔI DƯỠNG TÍNH HAM HỌC
Giải nobel y học hay sinh lí học 2007 và lợi ích cho người bệnh
Giải Nobel Y sinh học 2008 và những tranh chấp khoa học
Giải Nobel y sinh học 2010 vinh danh người đem niềm vui cho người vô sinh
Giải Nobel y sinh học năm 2005: Một cõi đi về với vi khuẩn
Giải Nobel y sinh học: Nhìn lại quãng đường 100 năm
Giải phẫu ghép mặt và vấn đề y đức
Gout ở xương sống
Gãy xương và tử vong: một vấn nạn y tế cộng đồng
Hiệu quả vắcxin có nghĩa gì?
Hoa vàng mấy độc
Hàm lượng đạm trong sữa “siêu thấp” hay “siêu cao”?
Hóa chất khai hoang trong cuộc chiến Viện Nam: Qui mô và tầm ảnh hưởng
Hướng đi nào để giải quyết vấn đề chất độc da cam ở Việt Nam
Hậu “mắm tôm được minh oan”: bằng chứng khoa học, nhà xí và nghiên cứu
Hệ Thống Học Vị Và Học Hàm Khoa Học Ở Vài Nước Tây Phương
Hợp tác khoa học kiểu nhảy dù - Nguyễn Văn Tuấn
Khi bác sĩ trẻ “khoe” quá nhiều
Khoa học và ngụy khoa học: một vài đặc điểm và khác biệt cần biết
Khoa học, xã hội, và rủi ro
Không thể thành Phù Đổng trong 20 năm!
Khẩu trang và phòng chống cúm A/H1N1
Kiểm định giả thuyết mắm tôm và vi khuẩn tả
Liều lượng melamine bao nhiêu là an toàn?
Lí lịch sinh học của heo và dấu vết văn minh nông nghiệp Đông Nam Á
Lượng giá mạng sống con người
Lợi ích của vitamin D
Miệng nhà quan
Mắm tôm có phải là “thủ phạm” gây bệnh tả? Xét lại bằng chứng khoa học
Mắm tôm và chuyện xin lỗi
Mắm tôm và dịch tả: phân biệt yếu tố nguy cơ và nguyên nhân
Mắm tôm vô tội!
Mắm tôm, nguyên nhân và hệ quả
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Một bệnh hiếm X-linked recessive hypoparathyroidism
Một lần đi phỏng vấn
Một năm nhìn lại
Một phán quyết thiếu cơ sở khoa học
Một vài hiểu lầm tai hại
Một vài ngộ nhận về nghiên cứu khoa học
Một vài vấn đề về qui định chức danh giáo sư ở Việt Nam
Một vụ Madoff trong y khoa: Lại một ngôi sao y khoa rơi rụng!
Mỡ trắng, mỡ nâu
Mỡ  trong máu, huyết áp, và  tiểu đường
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nguyên nhân bệnh tiêu chảy
Ngó trên tay điếu thuốc đã lụi dần
Người cao tuổi và sự hạn chế của y khoa
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Nhân chuyện dịch tả nhớ lại John Snow
Nhân câu chuyện điện não đồ xét nghiệm nghiện ma túy:
Nhân năm khỉ_nguồn gốc con người hiện đại
Nhân năm Tý bàn chuyện thí nghiệm trên chuột
Nhìn lại khoa học Việt Nam năm 2008 qua công bố quốc tế
Nhầm lẫn trong y khoa: Khá phổ biến, nhưng ít ai biết!
Những câu hỏi và trả lời về dịch gia cầm
Những sai sót khó tin nhưng có thật
Những sai sót nguy hiểm trong toa thuốc
Những điều khó tin về “Bảy điều khó tin nhất trong y học”
Năm lí do cho mắm tôm “vô tội”
Phán quyết sau cùng: Chất béo không ảnh hưởng đến ung thư và bệnh tim
Phát hiện gien kiểm soát ráy tai: vài bài học về mò kim đáy biển
Phòng chống bệnh phải dựa vào bằng chứng khoa học!
Phòng chống H1N1 bằng rửa tay và khẩu trang: Biện pháp nào hiệu quả hơn?
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao và cân nặng: thiếu cơ sở khoa học và kì thị giới tính
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao: vấn đề giả định và bằng chứng khoa học
Quyền phê phán và trí thức
Quyền được tiếp cận hồ sơ bệnh án
Quản lý chất lượng: Thuốc phòng "tai nạn y khoa"
Rửa tay bằng xà phòng và tiêu chảy
Serotonin có liên quan đến chứng đột tử
Suy dinh dưỡng ở trẻ em: vấn đề của kinh tế
Sàng lọc trẻ sơ sinh trên phạm vi toàn quốc
Tai nạn y khoa trong bệnh viện
Thế nào là một "bài báo khoa học"
Thế nào là “Cơ sở khoa học” ?
Thịt chó là nguyên nhân của bệnh tiêu chảy cấp tính?
Thịt chó và bệnh tả: nguyên nhân và yếu tố nguy cơ
Tiên lượng bệnh Alzheimer bằng protein expression ?
Tiêu chuẩn chất lượng giáo dục đại học
Tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì cho người Việt - Nguyễn Văn Tuấn
Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh đái tháo đường (diabetes mellitus)
Tiêu chuẩn đề bạt giáo sư: Có nên căn cứ vào số lượng bài báo ?
Tiêu chảy cấp tính và bệnh tả: Định danh cho đúng
Truy tìm ung thư bằng mammography từ tuổi 50
Truyền thông và khoa học: Qui ước Ingelfinger
Truyền thông và y tế
Truyền thông, khoa học và … doanh nghiệp
Trà xanh và sức khỏe
Trách nhiệm và nhân đạo trong vấn đề chất độc da cam
Trái chanh và phòng chống bệnh tả
Trả lời những câu hỏi liên quan đến loãng xương
Trọng lượng cơ thể và tử vong ở người Trung Quốc: Ý nghĩa về việc xác định tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì
Tuổi thọ của người dân giảm 10 năm ?
Tác dụng Placebo trong y học: Tâm lí và ý nghĩa
Tình yêu, sắc đẹp nhìn dưới quan điểm di truyền học
Tín hiệu môi trường từ những “làng ung thư”
Tính khoa học và minh bạch đằng sau xét nghiệm doping
Tại sao không phát biểu về nguyên nhân và hệ quả ?
Tại sao uống rượu gây đỏ mặt và nguy cơ ung thư thực quản
Tạo sinh vô tính và cái chết của Thượng đế
Tạo sinh vô tính và vấn đề sinh đạo đức
Tản mạn về SARS
Tỉ lệ tử vong do cúm heo là bao nhiêu ?
Tự trị, chất lượng và y đức thay vì cổ phần hóa bệnh viện công
Ung thư vú và vấn đề thông tin y khoa
Uống bia hấp dẫn muỗi
Vaccine phòng chống AIDS hiệu quả đến đâu ?
Vaccine phòng chống cúm A/H1N1
Vi khuẩn gây tiêu chảy và ý nghĩa tiêm chủng
Vi khuẩn tả trong chó ?
Viết văn có thể chữa nhiều loại bệnh
Viết văn và trị liệu
Việc ta, ta cứ làm!
Vài nhận xét về 12 điều lệ y đức của Việt Nam
Vài thông tin cần biết về các chương trình truy tìm ung thư vú
Vài đóng góp quan trọng của người Việt khoa học thống kê
Văn hóa khoa học
Văn hóa tranh luận và vấn đề ngụy biện
Vấn đề sinh tố: kẽm và đồng
Vấn đề truy tìm ung thư phổi và hiệu quả 
Vấn đề y đức trong nghiên cứu tế bào mầm (stem cells)
Vấn đề đo lường melamine
Vấn đề đào tạo tiến sĩ: kinh nghiệm từ Australia
Vắc-xin phòng chống ung thư cổ tử cung
Vắcxin ngừa viêm gan B: cẩn thận với “nhiễu thông tin”
Vắcxin ngừa viêm gan B: kinh nghiệm từ nước ngoài
Vắcxin phòng bệnh sởi - quai bị - Rubella: lợi và hại
Vắcxin phòng chống ung thư cổ tử cung: hiệu quả lâm sàng và kinh tế
Vắcxin phòng ngừa bệnh tả: rất cần thiết
Về chấn chỉnh đào tạo tiến sĩ: Công bố bài báo khoa học là một thách thức lớn ?
Về học vị tiến sĩ
Về một sự hiểu lầm thuật ngữ "prospective"
Về phản ứng phụ của bisphosphonates liên quan đến hoại tử xương hàm và rung nhĩ
Vệ sinh như là một loại hàng hóa
Vị thế của nền khoa học Việt Nam
Xung quang xì căng đan về nghiên cứu tế bào mầm
Xã hội hóa và an toàn thực phẩm
Xếp hạng đại học: cần minh bạch hóa phương pháp
Y học hiện đại và những hứa hẹn
Y học thực chứng: vài nét khái quát
Y Khoa và những nhầm lẫn chết người
Y tế dự phòng: nền tảng của y khoa hiện đại
Y đức và nghiên cứu y học
Ói mửa, cao huyết áp và hôn mê
Ăn chay như là một trị liệu
Ăn chay và loãng xương
Điều trị bệnh dựa vào màu da ?
Điều trị đau dây thần kinh tọa bằng phẫu thuật: không có hiệu quả
Đo lường hiệu suất khoa học
Đánh giá đúng tầm quan trọng của ung thư vú 
Đại dịch H1N1
Đại dịch và đại dịch ảo
Đại dịch đã đến ?
Đạo văn trong hoạt động khoa học
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đằng sau những con số hàm lượng đạm trong sữa
Đế quốc Trà
Đề bạt các chức danh khoa bảng: vài kinh nghiệm từ Úc
Đọc lại 12 điều y đức của Việt Nam
Đồi điều về sữa nhiễm melamine
Đừng quên melamine trong các thực phẩm khác!
Ước vọng 200 ?
“Kỹ năng mềm” cho nhà khoa học
“Sẽ” và “có thể”


Trang nhiều tác giả
Trang riêng của Lê Ngọc Dũng
Trang riêng của Lương Lễ Hoàng
Trang riêng của Nguyễn Bảo Trung
Trang riêng của Nguyễn Hoài Nam
Trang riêng của Nguyễn Hữu Đức
Trang riêng của Nguyễn Văn Tuấn
Trang riêng của Nguyễn Ý Đức
Trang riêng của Nguyễn Đình Nguyên
Trang riêng của Phan Xuân Trung
Trang riêng của Đỗ Hồng Ngọc
Trang riêng của Đỗ Minh Tuấn