NGUYỄN VĂN TUẤN

Trọng lượng cơ thể và tử vong ở người Trung Quốc:

Ý nghĩa về việc xác định tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì

Nguyễn Văn Tuấn

Body mass index (BMI) là một chỉ số được tính toán dựa vào trọng lượng và chiều cao của một cá nhân (1). Nhiều nghiên cứu dịch tễ học trong thời gian 50 năm qua, phần lớn là ở các nước Tây phương, cho thấy BMI có liên hệ với tỉ lệ tử vong trong bất cứ quần thể nào. Tuy nhiên, mối liên hệ này khá phức tạp, biến chuyển theo hình chữ U hay chữ J. Nói cách khác, những người có BMI thấp và những người có BMI cao có nguy cơ tử vong cao hơn những người có BMI trung bình.

Dựa vào các nghiên cứu này, các giới chức y tế đề nghị sử dụng BMI để chẩn đoán béo phì cho một cá nhân. Theo đề nghị này, bất cứ ai có BMI thấp hơn 18,5 được xem là "thiếu cân"; những ai có BMI từ 18,5 đến 24 là "bình thường"; những ai có BMI từ 25 đến 30 là "quá cân", và những ai có BMI trên 30 là "béo phì" (2).

Nhưng, như nói trên, các nghiên cứu đó thường được tiến hành trong các quần thể người Âu Mĩ, và những tiêu chuẩn trên cũng chỉ áp dụng cho người Âu Mĩ, chứ không thể áp dụng cho người Á châu vì người Á châu nói chung có trọng lượng và chiều cao thấp hơn người Âu Mĩ. Hơn nữa, như tôi đã chỉ ra trong một bài khác, nếu hai người Á châu và Âu Mĩ có cùng BMI, người Á châu sẽ có tỉ lệ chất béo cao hơn người Âu Mĩ (2), và tỉ lệ chất béo mới chính là cái vế sinh học quan trọng. Ở người Á châu, vì thiếu nghiên cứu cho nên cho đến nay, chúng ta vẫn chưa có một tiêu chuẩn nhất quán cho việc chẩn đoán béo phì ở người Á châu. Mới đây, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) với sự tham gia của hầu hết các nhà nghiên cứu Á châu và Thái Bình Dương họp lại để đề ra tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì cho người Á châu, nhưng cũng không đi đến một kết luận dứt khoát (3). Lí do chính là vì thiếu một nghiên cứu dịch tễ học qui mô để giải quyết vấn đề.

May thay, một nghiên cứu từ Trung Quốc mới công bố vào giữa tháng 2 năm 2006 (4) đã cho chúng ta một vài dữ liệu tốt để nhìn lại vấn đề. Trước khi tóm lược và bình luận kết quả nghiên cứu này, tôi muốn nói sơ qua về thiết kế của công trình nghiên cứu này. Năm 1991, các nhà nghiên cứu Trung Quốc tiến hành một nghiên cứu trong 30 tỉnh thành trên toàn nước. Họ tuyển được 169.871 người (nam và nữ) tuổi từ 40 trở lên. Họ thu thập rất nhiều thông tin căn bản (như trọng lượng, chiều cao) và các yếu tố lâm sàng vào năm 1991. Mười năm sau (1999-2000), các nhà nghiên cứu lại liên lạc những đối tượng này để theo dõi tình hình sức khỏe, kể cả tử vong. Vì một số đối tượng không còn liên lạc được, hay không có đầy đủ dữ kiện, cho nên cuối cùng các nhà nghiên cứu chỉ phân tích trên 154.736 người.

BMI và tỉ lệ tử vong ở người Trung Quốc

Vào năm 1991 (tức lúc khởi đầu nghiên cứu) số liệu của công trình nghiên cứu cho thấy, nếu dựa vào tiêu chuẩn chẩn đoán của Tây phương, có 11,6% đối tượng được xem là thiếu cân, 20,5% là quá cân, và 3,3% là béo phì. Nói cách khác, 65,6% được xem là có trọng lượng "bình thường".

Sau thời gian 8,3 năm theo dõi, kết quả của công trình nghiên cứu có thể tóm lược trong bảng thống kê số 1 sau đây. Một số điểm chính của các dữ liệu này là:

Tính tổng cộng, trong thời gian 1991-2000 có 17.687 đối tượng chết (10.047 nam và 7.640 nữ). Tính trung bình, tỉ lệ tử vong cho cả nhóm là 1,59% mỗi năm. Nhưng tỉ lệ ở nam giới (1,85%) cao hơn nữ giới (1,34%) khoảng 38%.

Tính theo chỉ số BMI, tỉ lệ tử vong cao nhất trong những đối tượng được xem là "thiếu cân" (tức BMI < 18.5), và trong nhóm này tỉ lệ tử vong nhóm nam (2,17%) cao hơn tỉ lệ trong nữ giới (1,65%).

Tỉ lệ tử vong giảm dần theo BMI đến mức thấp nhất ở những người có BMI trong khoảng 24 đến 16,9, và sau đó lại tăng ở những ai có BMI cao hơn 27. Nếu so với tỉ lệ tử vong trong nhóm BMI<18,5, thì tỉ lệ tử vong trong nhóm BMI 24-27 thấp hơn khoảng 48% (nam giới) và 44% (nữ giới).

So sánh giữa hai giới tính, tỉ lệ tử vong ở nam giới cao hơn nữ giới đáng kể (cao hơn 30%) trong các nhóm BMI thấp (từ 18,5 đến 22).

Bảng 1. Tỉ lệ tử vong hàng năm theo từng mức độ BMI ở người Trung Quốc

Nam

Nữ

Số người tử vong

Năm theo dõi (a)

Tỉ lệ tử vong (b)

Số người tử vong

Năm theo dõi (a)

Tỉ lệ tử vong (b)

<18.5

2037

54565

2,168

1844

67679

1,648

18.5 – 19.9

1751

78213

1,694

1075

71081

1,234

20.0 – 20.9

1189

66692

1,498

766

57703

1,143

21.0 – 21.9

999

66191

1,345

687

60606

1,089

22.0 – 22.9

915

61138

1,306

660

59993

1,074

23.0 – 23.9

767

53612

1,235

531

53573

1,019

24.0 – 24.9

614

46838

1,116

469

49651

0,959

25.0 – 26.9

863

65080

1,127

645

69105

0,912

27.0 – 29.9

677

39560

1,354

600

55765

1,017

>30

235

10945

1,423

363

25154

1,271

Chú thích: (a) "Năm theo dõi" (person-years) thực ra là một con số khá phức tạp, là tích của số đối tượng theo dõi và thời gian theo dõi. Chẳng hạn như nếu 10 người được theo dõi trong vòng 5 năm thì "Nam theo dõi" là 5x10 = 50 person-years. (b) Tỉ lệ tử vong được tính bằng phần trăm hàng năm, nhưng được chuẩn hóa (standardized) cho toàn dân số Trung Quốc, chứ không phải đơn thuần cho mẩu nghiên cứu.

Một vài nhận xét

Như vậy, qua nghiên cứu qui mô này của Trung Quốc, chúng ta có thêm bằng chứng để khẳng định rằng mối liên hệ giữa BMI và nguy cơ tử vong có mô hình chữ U. Thực ra, mô hình này đã được quan sát từ rất nhiều nghiên cứu trước đây ở người Âu Mĩ. Tỉ lệ tử vong thường rất cao ở những người được xem là "thiếu cân". Một người đàn ông Á châu trung bình có chiều cao khoảng 1,65m mà có BMI 18,5 tức là cân nặng chỉ khoảng 50 kg, một trọng lượng rất thấp. Trọng lượng thấp có thể vì nhiều lí do, nhưng tựu trung lại thì đó chính là một "marker", một "chỉ tiêu" của tình trạng sức khỏe suy đồi nghiêm trọng. Do đó, tỉ lệ tử vong cao trong nhóm BMI < 18,5 không có gì quá ngạc nhiên.

Điều có thể ngạc nhiên chính là BMI lí tưởng. Nếu hiểu lí tưởng là mức độ BMI mà tỉ lệ tử vong thấp nhất, thì theo kết quả nghiên cứu của Trung Quốc, mức độ BMI “tối ưu” là khoảng giữa 24 đến 26.

Kết quả của công trình nghiên cứu Trung Quốc có khác gì so với kết quả bên Mĩ? Tháng 10 năm 1999, Tập san New England Journal of Medicine của Mĩ có công bố một công trình nghiên cứu rất qui mô (với hơn 1 triệu đối tượng) về mối liên hệ giữa BMI và tử vong (5). Qua kết quả phân tích thống kê, các nhà nghiên cho thấy ở người Mĩ da trắng, tỉ lệ tử vong thấp nhất được tìm thấy trong nam và nữ có BMI từ 22,0 đến 24,9.

Một điều thú vị khi so sánh hai công trình nghiên cứu này, đó là tính chung, tỉ lệ tử vong ở người Trung Quốc cao hơn so với người Mĩ, nhưng sự khác biệt chủ yếu chỉ xảy ra trong nhóm BMI dưới 25. Trong nhóm BMI khoảng 25 hay cao hơn, mức độ khác biệt về tỉ lệ tử vong giữa hai nhóm dân không khác nhau đáng kể (Xem Biểu đồ 1).

Biểu đồ 1. So sánh tỉ lệ tử vong ở người Trung Quốc (tuyến màu đỏ) và Mĩ (tuyến màu xanh) cho nam giới (biểu đồ bên trái) và nữ giới (biểu đồ bên phải). Trục tung là tỉ lệ tử vong tính trên 100.000 dân số, còn trục hoành là mức độ BMI tính bằng kg/m2.

Mối liên hệ giữa BMI và tỉ lệ tử vong ở người Trung Quốc có ý nghĩa gì đến việc xác định tiêu chuẩn cho chẩn đoán béo phì cho người Việt chúng ta? Như đề cập trên, cho đến nay chúng ta vẫn chưa có một tiêu chuẩn để chẩn đoán béo phì cho người Á châu nói chung và người Việt nói riêng, vì thiếu dữ liệu khoa học. Chẩn đoán phải có một cái chuẩn để đánh giá tính đặc hiệu của nó. Nếu chẩn đoán một người nào đó là "béo phì" mà không kèm theo một cái chuẩn lâm sàng để hiểu thì cách chẩn đoán đó hoàn toàn vô nghĩa và vô dụng. Cái chuẩn lâm sàng có ý nghĩa nhất đối với một người là tử vong. Và, công trình nghiên cứu của Trung Quốc đã cho chúng ta một vài dữ liệu sơ khởi để xác định các tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì và mối liên hệ với tử vong.

Trong một bài viết trước (2), tôi có nhận xét sơ khởi rằng "bất cứ đàn ông Việt Nam nào có BMI trên 27 và phụ nữ Việt Nam có BMI trên 25 đều có thể xem là béo phì". Kết quả của công trình nghiên cứu ở Trung Quốc cho thấy trong cả nam và nữ BMI trên 27 được xem là "nguy hiểm" vì tỉ lệ tử vong tăng cao. Như vậy, kết quả này cũng không khác với kết luận trên của tôi, nhất là ở nam giới.

Đối một phụ nữ trung bình cao khoảng 1,65m, một BMI 27 có nghĩa là trọng lượng phải cỡ 65 kg. Theo nghiên cứu của Trung Quốc đó là trọng lượng "lí tưởng" (hiểu theo nghĩa có nguy cơ tử vong thấp nhất), nhưng có lẽ nhiều phụ nữ Á châu không đồng ý. Tôi vẫn nghĩ một BMI từ 24 đến 25 (khoảng 60 kg) cho phụ nữ là lí tưởng.

Tuy nhiên, BMI không phải là chỉ số toàn hảo vì nó không phản ánh chính xác lượng chất béo (fat mass) trong cơ thể. BMI cũng có thể khác biệt giữa các sắc dân. Chẳng hạn như BMI trung bình ở người Trung Quốc (trong nghiên cứu này) là 22,4, còn ở người Việt Nam chỉ khoảng 21,5. Do đó, để có một cái chuẩn chính xác hơn cho chẩn đoán béo phì ở người Việt, chúng ta vẫn cần một nghiên cứu qui mô khác ở Việt Nam.

Tài liệu tham khảo và chú thích:

(1) BMI được tính bằng cách lấy trọng lượng (kg) chia cho chiều cao bình phương (m2). Ví dụ như một người cân nặng 65 kg và chiều cao 1,65 m, thì BMI được ước tính như sau: 65 / (1.65 x 1.65) = 23.87. Đơn vị của BMI là kg/m2.

(2) Có thể xem thêm chi tiết trong bài viết "Tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì cho người Việt" của tôi tại: www.ykhoa.net.

(3) WHO Expert Consultation. Appropriate body-mass index for Asian populations and its implications for policy and intervention strategies. Lancet 2004; 363:157-163.

(4) Gu D, He J, Duan X, et al. Body weight and mortality among men and women in China. JAMA 2006; 295:776-783.

(5) Calle EE, Thun, MJ, et al. Body mass index and mortality in a prospective cohort of US adults. N Engl J Med 1999; 341:1097-1105.

Kết quả công trình nghiên cứu này có thể tóm lược bằng bảng thống kê sau đây:

Nam

Nữ

Số người tử vong

Năm theo dõi (a)

Tỉ lệ tử vong (b)

Số người tử vong

Năm theo dõi (a)

Tỉ lệ tử vong (b)

<18.5

93

5438

1,270

680

55362

0,923

18.5-20.4

305

19847

1,133

2054

314575

0,732

20.5-21.9

734

61863

1,022

3003

495542

0,671

22.0-23.4

1523

148107

0,953

3344

507570

0,653

23.5-24.9

2085

216788

0,956

3133

422903

0,673

25.0-26.4

2250

239158

1,007

2522

302692

0,727

26.5-27.9

1738

181735

1,058

2173

261253

0,755

28.0-29.9

1338

125967

1,255

1913

215245

0,873

30.0-31.9

592

56682

1,300

1225

130432

0,908

32.0-34.9

398

32878

1,619

953

95505

1,083

35.0-39.9

153

11079

2,076

462

48414

1,216

>40

19

1315

2,065

144

14372

1,399

Chú thích: (a) "Năm theo dõi" (person-years) (b) Tỉ lệ tử vong được tính bằng phần trăm hàng năm, nhưng được chuẩn hóa (standardized) cho toàn dân số Mĩ.


200 năm Darwin
Agent Orange: collateral damage
Alexandre Yersin và Việt Nam
Bàn về hiệu quả vắcxin: lâm sàng và kinh tế
Bàn về vấn đề dịch thuật và đánh giá năng suất khoa học
Béo phì ở người Á châu
Béo phì ở trẻ em và virus
Bình luận từ Dr. Yến
Bưởi không gây ung thư vú
Bảo hiểm y tế cộng đồng
Bảo tồn môi sinh: Chiến tranh giữa hai thế giới
Bằng chứng khoa học thay vì lên lớp
Bệnh tả: không để Việt Nam thành Bangladesh thứ hai
Bệnh tật nhìn từ quan điểm của thuyết tiến hóa
Bệnh xơ hóa cơ delta qua y văn thế giới
Bổ sung kẽm và điều trị bệnh tả
Bộ gen trong cây lúa và triển vọng
Bộ Y tế phản ứng chậm với rét đậm
Chiều cao của người Việt
Chiều cao và tổng thống Mĩ
Cholesterol và bệnh Tim
Cholesterol: hung thần hay bạn?
Chuột và... các nhà khoa học
Chính sách y tế cần dựa vào bằng chứng khoa học
Chạy đua vũ khí và … dịch cúm
Chất béo, cholesterol, bệnh tim và statins: xét lại bằng chứng
Chất keo xã hội: hormones
Chất lượng nghiên cứu dịch tễ học và y tế cộng đồng của Việt Nam qua chỉ số H
Chất lượng nghiên cứu khoa học ở Việt Nam qua chỉ số trích dẫn
Chất vấn chuẩn chẩn đoán béo phì
Chế độ ăn uống với nhiều thịt động vật và nguy cơ tử vong
Chủng vi khuẩn tả hiện nay ở nước ta có phải mới xuất hiện?
Cuộc chiến hóa học phi pháp lớn nhất trong lịch sử chiến tranh
Câu chuyện y học: Leptin và béo phì
Có bao nhiêu bác sĩ viết chữ khó đọc
Có nên tập trung vào vi khuẩn E. coli ?
Có thể xảy ra đại dịch cúm gia cầm?
Công cụ đơn giản để chẩn đoán tiểu đường ở người Đông Nam Á
Cúm gia cầm và nhiễu thông tin
Cúm H1N1: biết và chưa biết
Cơ hội để khép lại một chương lịch sử đau lòng
Cần hiểu đúng về Ung thư và nguy cơ ung thư
Cần qui ước đạo đức cho kĩ nghệ thực phẩm
Cần tiêm chủng ngừa bệnh tả vùng có nguy cơ cao
Cần điều tra về chất lượng bệnh viện
Cổ phần hóa bệnh viện công và chất lượng
Cổ phần hóa: chưa phải cách duy nhất
DDT và vấn đề cân đối giữa lợi ích và nguy hiểm
Dinh dưỡng: một nguồn thuốc quí giá
DNA không nói dối, nhưng DNA có thể nói … sai
Dịch cúm gà: hoang mang và sự thật khoa học
Dịch cúm heo và tác hại kinh tế
Dịch tay-chân-miệng
Dịch tả: gọi đúng tên để phòng ngừa
Dựa vào khoa học, đừng dựa vào niềm tin!
E. coli – vài câu hỏi thông thường
Gen và bệnh tật
Ghen tuông dưới cái nhìn của tâm lí y khoa
Gian lận trong nghiên cứu khoa học: áp lực kinh tế và cơ chế bình duyệt
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC: KHƠI DẬY VÀ NUÔI DƯỠNG TÍNH HAM HỌC
Giải nobel y học hay sinh lí học 2007 và lợi ích cho người bệnh
Giải Nobel Y sinh học 2008 và những tranh chấp khoa học
Giải Nobel y sinh học 2010 vinh danh người đem niềm vui cho người vô sinh
Giải Nobel y sinh học năm 2005: Một cõi đi về với vi khuẩn
Giải Nobel y sinh học: Nhìn lại quãng đường 100 năm
Giải phẫu ghép mặt và vấn đề y đức
Gout ở xương sống
Gãy xương và tử vong: một vấn nạn y tế cộng đồng
Hiệu quả vắcxin có nghĩa gì?
Hoa vàng mấy độc
Hàm lượng đạm trong sữa “siêu thấp” hay “siêu cao”?
Hóa chất khai hoang trong cuộc chiến Viện Nam: Qui mô và tầm ảnh hưởng
Hướng đi nào để giải quyết vấn đề chất độc da cam ở Việt Nam
Hậu “mắm tôm được minh oan”: bằng chứng khoa học, nhà xí và nghiên cứu
Hệ Thống Học Vị Và Học Hàm Khoa Học Ở Vài Nước Tây Phương
Hợp tác khoa học kiểu nhảy dù - Nguyễn Văn Tuấn
Khi bác sĩ trẻ “khoe” quá nhiều
Khoa học và ngụy khoa học: một vài đặc điểm và khác biệt cần biết
Khoa học, xã hội, và rủi ro
Không thể thành Phù Đổng trong 20 năm!
Khẩu trang và phòng chống cúm A/H1N1
Kiểm định giả thuyết mắm tôm và vi khuẩn tả
Liều lượng melamine bao nhiêu là an toàn?
Lí lịch sinh học của heo và dấu vết văn minh nông nghiệp Đông Nam Á
Lượng giá mạng sống con người
Lợi ích của vitamin D
Miệng nhà quan
Mắm tôm có phải là “thủ phạm” gây bệnh tả? Xét lại bằng chứng khoa học
Mắm tôm và chuyện xin lỗi
Mắm tôm và dịch tả: phân biệt yếu tố nguy cơ và nguyên nhân
Mắm tôm vô tội!
Mắm tôm, nguyên nhân và hệ quả
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Một bệnh hiếm X-linked recessive hypoparathyroidism
Một lần đi phỏng vấn
Một năm nhìn lại
Một phán quyết thiếu cơ sở khoa học
Một vài hiểu lầm tai hại
Một vài ngộ nhận về nghiên cứu khoa học
Một vài vấn đề về qui định chức danh giáo sư ở Việt Nam
Một vụ Madoff trong y khoa: Lại một ngôi sao y khoa rơi rụng!
Mỡ trắng, mỡ nâu
Mỡ  trong máu, huyết áp, và  tiểu đường
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nguyên nhân bệnh tiêu chảy
Ngó trên tay điếu thuốc đã lụi dần
Người cao tuổi và sự hạn chế của y khoa
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Nhân chuyện dịch tả nhớ lại John Snow
Nhân câu chuyện điện não đồ xét nghiệm nghiện ma túy:
Nhân năm khỉ_nguồn gốc con người hiện đại
Nhân năm Tý bàn chuyện thí nghiệm trên chuột
Nhìn lại khoa học Việt Nam năm 2008 qua công bố quốc tế
Nhầm lẫn trong y khoa: Khá phổ biến, nhưng ít ai biết!
Những câu hỏi và trả lời về dịch gia cầm
Những sai sót khó tin nhưng có thật
Những sai sót nguy hiểm trong toa thuốc
Những điều khó tin về “Bảy điều khó tin nhất trong y học”
Năm lí do cho mắm tôm “vô tội”
Phán quyết sau cùng: Chất béo không ảnh hưởng đến ung thư và bệnh tim
Phát hiện gien kiểm soát ráy tai: vài bài học về mò kim đáy biển
Phòng chống bệnh phải dựa vào bằng chứng khoa học!
Phòng chống H1N1 bằng rửa tay và khẩu trang: Biện pháp nào hiệu quả hơn?
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao và cân nặng: thiếu cơ sở khoa học và kì thị giới tính
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao: vấn đề giả định và bằng chứng khoa học
Quyền phê phán và trí thức
Quyền được tiếp cận hồ sơ bệnh án
Quản lý chất lượng: Thuốc phòng "tai nạn y khoa"
Rửa tay bằng xà phòng và tiêu chảy
Serotonin có liên quan đến chứng đột tử
Suy dinh dưỡng ở trẻ em: vấn đề của kinh tế
Sàng lọc trẻ sơ sinh trên phạm vi toàn quốc
Tai nạn y khoa trong bệnh viện
Thế nào là một "bài báo khoa học"
Thế nào là “Cơ sở khoa học” ?
Thịt chó là nguyên nhân của bệnh tiêu chảy cấp tính?
Thịt chó và bệnh tả: nguyên nhân và yếu tố nguy cơ
Tiên lượng bệnh Alzheimer bằng protein expression ?
Tiêu chuẩn chất lượng giáo dục đại học
Tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì cho người Việt - Nguyễn Văn Tuấn
Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh đái tháo đường (diabetes mellitus)
Tiêu chuẩn đề bạt giáo sư: Có nên căn cứ vào số lượng bài báo ?
Tiêu chảy cấp tính và bệnh tả: Định danh cho đúng
Truy tìm ung thư bằng mammography từ tuổi 50
Truyền thông và khoa học: Qui ước Ingelfinger
Truyền thông và y tế
Truyền thông, khoa học và … doanh nghiệp
Trà xanh và sức khỏe
Trách nhiệm và nhân đạo trong vấn đề chất độc da cam
Trái chanh và phòng chống bệnh tả
Trả lời những câu hỏi liên quan đến loãng xương
Trọng lượng cơ thể và tử vong ở người Trung Quốc: Ý nghĩa về việc xác định tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì
Tuổi thọ của người dân giảm 10 năm ?
Tác dụng Placebo trong y học: Tâm lí và ý nghĩa
Tình yêu, sắc đẹp nhìn dưới quan điểm di truyền học
Tín hiệu môi trường từ những “làng ung thư”
Tính khoa học và minh bạch đằng sau xét nghiệm doping
Tại sao không phát biểu về nguyên nhân và hệ quả ?
Tại sao uống rượu gây đỏ mặt và nguy cơ ung thư thực quản
Tạo sinh vô tính và cái chết của Thượng đế
Tạo sinh vô tính và vấn đề sinh đạo đức
Tản mạn về SARS
Tỉ lệ tử vong do cúm heo là bao nhiêu ?
Tự trị, chất lượng và y đức thay vì cổ phần hóa bệnh viện công
Ung thư vú và vấn đề thông tin y khoa
Uống bia hấp dẫn muỗi
Vaccine phòng chống AIDS hiệu quả đến đâu ?
Vaccine phòng chống cúm A/H1N1
Vi khuẩn gây tiêu chảy và ý nghĩa tiêm chủng
Vi khuẩn tả trong chó ?
Viết văn có thể chữa nhiều loại bệnh
Viết văn và trị liệu
Việc ta, ta cứ làm!
Vài nhận xét về 12 điều lệ y đức của Việt Nam
Vài thông tin cần biết về các chương trình truy tìm ung thư vú
Vài đóng góp quan trọng của người Việt khoa học thống kê
Văn hóa khoa học
Văn hóa tranh luận và vấn đề ngụy biện
Vấn đề sinh tố: kẽm và đồng
Vấn đề truy tìm ung thư phổi và hiệu quả 
Vấn đề y đức trong nghiên cứu tế bào mầm (stem cells)
Vấn đề đo lường melamine
Vấn đề đào tạo tiến sĩ: kinh nghiệm từ Australia
Vắc-xin phòng chống ung thư cổ tử cung
Vắcxin ngừa viêm gan B: cẩn thận với “nhiễu thông tin”
Vắcxin ngừa viêm gan B: kinh nghiệm từ nước ngoài
Vắcxin phòng bệnh sởi - quai bị - Rubella: lợi và hại
Vắcxin phòng chống ung thư cổ tử cung: hiệu quả lâm sàng và kinh tế
Vắcxin phòng ngừa bệnh tả: rất cần thiết
Về chấn chỉnh đào tạo tiến sĩ: Công bố bài báo khoa học là một thách thức lớn ?
Về học vị tiến sĩ
Về một sự hiểu lầm thuật ngữ "prospective"
Về phản ứng phụ của bisphosphonates liên quan đến hoại tử xương hàm và rung nhĩ
Vệ sinh như là một loại hàng hóa
Vị thế của nền khoa học Việt Nam
Xung quang xì căng đan về nghiên cứu tế bào mầm
Xã hội hóa và an toàn thực phẩm
Xếp hạng đại học: cần minh bạch hóa phương pháp
Y học hiện đại và những hứa hẹn
Y học thực chứng: vài nét khái quát
Y Khoa và những nhầm lẫn chết người
Y tế dự phòng: nền tảng của y khoa hiện đại
Y đức và nghiên cứu y học
Ói mửa, cao huyết áp và hôn mê
Ăn chay như là một trị liệu
Ăn chay và loãng xương
Điều trị bệnh dựa vào màu da ?
Điều trị đau dây thần kinh tọa bằng phẫu thuật: không có hiệu quả
Đo lường hiệu suất khoa học
Đánh giá đúng tầm quan trọng của ung thư vú 
Đại dịch H1N1
Đại dịch và đại dịch ảo
Đại dịch đã đến ?
Đạo văn trong hoạt động khoa học
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đằng sau những con số hàm lượng đạm trong sữa
Đế quốc Trà
Đề bạt các chức danh khoa bảng: vài kinh nghiệm từ Úc
Đọc lại 12 điều y đức của Việt Nam
Đồi điều về sữa nhiễm melamine
Đừng quên melamine trong các thực phẩm khác!
Ước vọng 200 ?
“Kỹ năng mềm” cho nhà khoa học
“Sẽ” và “có thể”


Trang nhiều tác giả
Trang riêng của Lê Ngọc Dũng
Trang riêng của Lương Lễ Hoàng
Trang riêng của Nguyễn Bảo Trung
Trang riêng của Nguyễn Hoài Nam
Trang riêng của Nguyễn Hữu Đức
Trang riêng của Nguyễn Văn Tuấn
Trang riêng của Nguyễn Ý Đức
Trang riêng của Nguyễn Đình Nguyên
Trang riêng của Phan Xuân Trung
Trang riêng của Đỗ Hồng Ngọc
Trang riêng của Đỗ Minh Tuấn