NGUYỄN VĂN TUẤN

Một vài vấn đề về qui định chức danh giáo sư ở Việt Nam

Nguyễn Văn Tuấn 

Hội đồng chức danh giáo sư Nhà nước (HĐCDGSNN) lại vừa ra qui định và tiêu chuẩn mới cho chức danh giáo sư và phó giáo sư.  Qui định mới có phần hợp lí hơn so với các qui định trước, nhưng vẫn còn rất khác và phức tạp hơn so với các chuẩn mực ở nước ngoài.  Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, tôi nghĩ cần phải xem xét lại các tiêu chuẩn mới sao cho phù hợp với đa số các nước trên thế giới.  Bài viết này sẽ chỉ ra những khác biệt và bất cập chính về tiêu chuẩn cho chức danh GS/PGS.

Thứ nhất là cách tính điểm bài báo khoa học.  Theo qui định mới, "bài báo khoa học đặc biệt xuất sắc được đăng trên các tạp chí hàng đầu quốc tế và Việt Nam được nhiều người trích dẫn" có điểm tôi đa là 2.  Ở đây có hai vấn đề.  Hiện nay, trên thế giới có rất nhiều tập san khoa học (khoảng 108.000 tập san và con số vẫn gia tăng) với chất lượng thượng vàng hạ cám, dù chúng đều có danh xưng “quốc tế” đâu đó trong tên gọi.  Để sàng lọc thật và giả, Viện thông tin khoa học (Mĩ) căn cứ vào một số tiêu chuẩn về hoạt động và hời gian lập nên một danh sách chỉ trên dưới 5000 tập san mà giới chuyên môn công nhận là “nghiêm chỉnh”. 

Viện thông tin khoa học còn phát triển một chỉ số để đánh giá chất lượng của một tập san, và chỉ số đó có tên là "hệ số ảnh hưởng" (impact factor, IF).  Chỉ số IF dao động từ 0 đến 80 giữa các tập san.  Nói chung, tập san có IF cao cũng là tập san có uy tín cao và ảnh hưởng lớn hơn các tập san có IF thấp.  Nhưng IF còn tùy thuộc vào bộ môn khoa học, với những bộ môn thực nghiệm thường có IF cao hơn các bộ môn như xã hội học và toán học.  Theo tôi biết, chưa có một tập san khoa học nào của Việt Nam có chỉ số IF. 

Những vấn đề thực tế trên cho thấy không thể đánh giá một công trình đăng trên tập san Việt Nam bằng một công trình đăng trên một tập san quốc tế với IF trên 10.  Tương tự, cũng không thể xem một bài báo trên một tập san ở Úc, hay Nhật, hay Hàn Quốc, hay Trung Quốc với chỉ số IF < 1 bằng một bài báo trên một tập san ở Mĩ với IF > 20, dù tất cả đều là "tập san quốc tế".  Ngoài ra, cũng không thể đánh giá IF của tập san toán với một tập san ngành y học.  Do đó, không nên cho điểm một bài báo khoa học một cách máy móc mà không xem đến tập san bài báo đó được công bố.

            Nhưng IF chỉ phản ảnh uy tín và chất lượng của một tập san, chứ không phản ảnh chất lượng của bài báo trên tập san đó.  Một công trình nghiên cứu có thể công bố trên một tập san có IF cao nhưng không được ai trích dẫn không có giá trị bằng một công trình công bố trên một tập san có IF thấp nhưng được nhiều người trích dẫn.  Trong thực tế, có hơn 50% các bài báo trên các tập san quốc tế chẳng bao giờ được ai trích dẫn!  Do đó, khi xem xét cho điểm bài báo, cũng cần phải xem chỉ số trích dẫn, chứ không chỉ IF của tập san.

            Như nói trên, IF của tập san tùy thuộc vào từng ngành chuyên môn.  Độ dao động IF cũng rất khác nhau giữa các ngành chuyên môn.  Do đó, tôi nghĩ có một cách để “chuẩn hóa” bằng cách tính chỉ số Z cho một tập san.  Nói cách khác, lấy IF của một tập san mà ứng viên công bố trừ cho cho chỉ số IF trung bình của ngành và chia kết quả tính toán cho độ lệch chuẩn trong ngành.  Với chỉ số Z, chúng ta có thể so sánh tương đối (chỉ “tương đối” thôi) khách quan giữa các ngành chuyên môn. 

            Số lần trích dẫn bao nhiêu là phản ảnh chất lượng?  Không có câu trả lời cụ thể cho câu hỏi này.  Vì chỉ số trích dẫn còn tùy thuộc theo “văn hóa ngành” (tức một số ngành như toán có chỉ số trích dẫn thấp hơn các ngành khác như vật lí hay sinh học), do đó cần phải điều chỉnh cho từng tập san. Theo đó, nếu số lần trích dẫn của bài báo cao hơn chỉ số trích dẫn trung bình của tập san thì có thể được xem là có chất lượng cao.  Chẳng hạn như tập san A có chỉ số trích dẫn trong 10 năm là 35 lần / bài báo, và nếu một bài báo của ứng viên trên tập san đó có số lần trích dẫn trên 35 lần thì được xem là có chất lượng cao. 

            Cũng như chỉ số IF, chỉ số trích dẫn cũng rất phụ thuộc vào “văn hóa ngành”, và so sánh chỉ số trích dẫn giữa các ngành cũng không công bằng.  Bởi vì mỗi ngành đều có những số liệu như chỉ số trích dẫn trung bình và độ dao động, tôi đề nghị tính chỉ số Z cho số lần trích dẫn tương tự như chỉ số Z cho IF.

Thứ hai là vấn đề vị trí tác giả trong việc định điểm.  Phần lớn các công trình nghiên cứu khoa học ở Việt Nam thường là hợp tác với đồng nghiệp nước ngoài, và tác giả Việt Nam thường không đứng tên đầu (xem bài “Khoa học Việt Nam đang ở đâu?” của tôi), tức không phải là người chủ trì công trình nghiên cứu.  Do đó, nếu một ứng viên có nhiều bài báo khoa học dù trên các tập san có IF cao, nhưng nếu chỉ đóng vai trò “tác giả phụ”, thậm chí “tác giả làm quà” (gift author) thì không thể đánh đồng với một tác giả chính được.  Cần nói thêm rằng, hiện tượng “gift author” là trong đó các nhà khoa học cho tên của đồng nghiệp hay cấp trên của mình vào danh sách tác giả dù người này chẳng biết hay chẳng dính dáng gì đến công trình nghiên cứu.  Hiện tượng gift author khá phổ biến trong khoa học, nhất là ở Việt Nam.  Tuy nhiên, trong các qui định của Hội đồng chức danh, không thấy nói đến vấn đề tế nhị như tôi vừa đề cập.

Thứ ba là sách chuyên khảo.  Theo qui định mới thì sách chuyên khảo được 3 điểm, sách giáo trình 2 điểm, sách tham khảo 1,5 điểm, và sách hướng dẫn 1 điểm.  Những ai làm nghiên cứu khoa học thực nghiệm đều biết rằng sách, dù là sách chuyên khảo, chỉ là tập hợp những công trình nghiên cứu đã được công bố trên các tập san.  Trong ngành y, sinh viên ít khi nào học từ sách, mà học từ các bài báo khoa học trên các tập san khoa học, bởi vì sách thường lạc hậu hơn tập san. 

Do đó, không nên quan trọng hóa việc đánh giá hay cho điểm sách như là một tiêu chuẩn đề bạt chức danh GS/PGS, bởi vì sách không có giá trị như là những công trình nghiên cứu trên các tập san khoa học có IF cao.  Ở nước ngoài, các hội đồng khoa bảng khi duyệt đơn đề bạt giáo sư ít khi nào quan tâm đến sách. 

Thứ tư là vấn đề “giáo sư giảng dạy” và “giáo sư kiêm nhiệm”.  Theo qui định mới, "điểm sàn" của giáo sư kiêm nhiệm cao gấp 2 lần giáo sư giảng dạy, và tôi xem đây là một điều bất bình thường, không hợp lí.  Hình như có một sự nhầm lẫn về giáo sư kiêm nhiệm và giáo sư giảng dạy. 

Ở nước ngoài, các đại học có 2 thành phần giáo sư mà (tùy theo trường) họ gọi là "academic professor" và "conjoint professor".  Academic professor là những giáo sư thuộc biên chế chính thức của đại học, họ nghiên cứu và giảng dạy trong đại học, và họ hưởng lương từ trường đại học.  Đây có lẽ là “giáo sư giảng dạy” theo qui định của Hội đồng chức danh.  Chức danh “conjoint professor” thường được áp dụng cho những chuyên gia hay nhà khoa học thuộc các trung tâm nghiên cứu, bệnh viện, thậm chí công ti kĩ nghệ tư nhân có quan hệ mật thiết với trường đại học (như nhận sinh viên thực tập, hay có đóng góp cho các chương trình đào tạo của trường đại học).  Những conjoint professor không thuộc biên chế của trường đại học, tức không nhận lương bổng từ trường đại học.  Đây có lẽ là những "giáo sư kiêm nhiệm" theo qui định của Hội đồng chức danh.

Vì là kiêm nhiệm, cho nên tiêu chuẩn đề được đề bạt chức danh conjoint professor thường thấp hơn tiêu chuẩn cho một giáo sư khoa bảng.  Chẳng hạn như nếu một academic professor (giáo sư khoa bảng) cần phải có 50 bài báo khoa học để được đề bạt, thì giáo sư kiêm nhiệm chỉ cần 25 bài.  Nhưng ở Việt Nam, tiêu chuẩn này ngược lại: giáo sư kiêm nhiệm có tiêu chuẩn cao hơn giáo sư giảng dạy!  Tôi nghĩ cần phải xem xét lại tiêu chuẩn này.  

Thứ năm là số người bình duyệt đơn đề bạt.  Theo qui định mới, một hồ sơ đề bạt sẽ được duyệt xét bởi 3 người (thay vì 2 như trước đây).  Theo tôi, chỉ 3 người duyệt hồ sơ vẫn chưa đủ.  Duyệt đơn đề bạt của một cá nhân rất quan trọng vì quyết định có ảnh hưởng đến sự nghiệp của ứng viên, cho nên cần phải có nhiều ý kiến.  Ở nước ngoài, các đại học thường cần đến 7 hay 8 chuyên gia bình duyệt độc lập, trong số này có ít nhất là 2 người từ nước ngoài. 

Kinh nghiệm từ ngoài

            Ở nước ngoài, mà cụ thể là Úc và Mĩ, các đại học xét duyệt đề bạt chức danh GS/PGS dựa vào 4 tiêu chuẩn chính: thành tựu nghiên cứu khoa học (research output), giảng dạy và đào tạo (teaching & training), lãnh đạo (leadership), phục vụ (services). 

Thành tự nghiên cứu khoa học bao gồm số lượng và chất lượng công trình nghiên cứu đã công bố trên các tập san quốc tế.  Ngoài ra, các bằng sáng chế (patents) cũng được xếp trong tiêu chí này.  Hội đồng khoa bảng dựa vào những chỉ số như hệ số IF của tập san và chỉ số H của cá nhân ứng viên. Không có con số cụ thể về IF để đánh giá chất lượng cao hay thấp, bởi vì IF quá tùy thuộc vào từng bộ môn khoa học, nhưng nói chung, hội đồng chú ý đến những bài báo được công bố trên những tập san hàng đầu trong chuyên ngành. Chỉ số H rất quan trọng, vì đây là chỉ số quyết định một phần sự thành bại của ứng viên. Các trường đại học danh tiếng và lớn bên Mĩ thường đòi hỏi ứng viên phải có chỉ số H tối thiểu là 15 (thường là 20) để được đề bạt chức danh giáo sư. 

            Giảng dạy và đào tạo là những chỉ tiêu về số môn học (course) mà ứng viên thiết kế và giảng dạy.  Ứng viên phải trình bày rất chi tiết về số sinh viên, đánh giá của sinh viên ra sao, và thành tựu trong giảng dạy.  Tôi từng thấy có ứng viên đem cả băng video và DVD, kèm theo những kết quả thăm dò ý kiến của sinh viên về môn học, để chứng minh khả năng giảng dạy của mình cho hội đồng khoa bảng xem xét.

            Lãnh đạo ở đây không phải là quản lí hay hành chính, mà là đi đầu trong một lĩnh vực nghiên cứu. Không có những thước đo cụ thể về tiêu chuẩn này, nhưng những “tín hiệu” sau đây được xem là liên quan đến “lãnh đạo”: được mời viết xã luận, bình luận, bài tổng quan, được mời thuyết giảng trong các hội nghị lớn tầm quốc tế (còn gọi là invited lecture, keynote lecture, v.v…) mà ban tổ chức tài trợ hoàn toàn, được mời tham gia soạn thảo chương trình khoa học cho hội nghị, đóng vai trò chủ tọa hội nghị, v.v…

Phục vụ ở đây là phục vụ cho chuyên ngành và cộng đồng.  Hội đồng thường xem xét đến những đóng góp cho các tập san khoa học trong vai trò phản biện, bình duyệt, hay cao hơn là được mời làm thành viên của ban biên tập cho tập san, hoặc cao hơn là đóng vai trò tổng biên tập và phó biên tập của các tập san khoa học quốc tế. Phục vụ trong các hiệp hội khoa học cũng được xem là một chỉ tiêu quan trọng. Ngoài ra, hội đồng cũng xét duyệt đến những cống hiến bình duyệt đơn xin tài trợ, tham gia bình duyệt luận án tiến sĩ cho các đại học nước ngoài, tham gia bình duyệt đơn xin đề bạt của đồng nghiệp nước ngoài. Đó là những “chỉ tiêu” được xem là đóng góp, phục vụ cho chuyên ngành. 

Vài đề nghị

Đối chiếu những tiêu chí và tiêu chuẩn này với tiêu chuẩn của Việt Nam, tôi thấy những tiêu chí và tiêu chuẩn mới công bố rất phức tạp, máy móc, tính toán theo kiểu “cân đo đong đếm” rất phi khoa học tính.  Ngoài ra, tiêu chuẩn tiếng Anh có thể cần thiết nhưng tôi thấy khá mù mờ, vì rất khó định nghĩa được thế nào là “có khả năng giao tiếp”. Nếu những gì vừa trình dày dẫn đến cải tiến, tôi nghĩ đến những đề nghị sau đây: 

Thứ nhất là nên phân chia ngạch đề bạt.  Ở nước ta có nhiều người mà nhiệm vụ chính là giảng dạy, và xét phong giáo sư cho những người này không nên đặt nặng vào những tiêu chí liên quan đến nghiên cứu khoa học.  Do đó, cần phải có những tiêu chuẩn cho những người chuyên về giảng dạy, nghiên cứu, và thậm chí phục vụ.  Thật vậy, có người tuy không giảng dạy và nghiên cứu khoa học nhưng có thành tích trong việc phục vụ và quản lí, thì Hội đồng chức danh cũng nên có cơ chế để công nhận đóng góp của họ. 

Thứ hai là không nên có những tiêu chuẩn cứng nhắc theo kiểu cân đo đong đếm.  Những chỉ số Z mà tôi đề nghị cũng chỉ mang tính tham khảo hơn là dựa vào đó để đánh giá cao thấp, bởi vì đánh giá như thế đòi hỏi nhiều khía cạnh khác chứ không phải chỉ công bố quốc tế.  Trái với các tiêu chuẩn đề bạt trong nước về đề bạt chức danh khoa bảng bằng cách tính điểm bài báo, ở nước ngoài người ta không có những điểm cụ thể, mà chỉ đánh giá mang tính nửa lượng nửa chất. Về lượng, họ xem xét đến hệ số ảnh hưởng của tập san, chỉ số trích dẫn của các bài báo khoa học đã công bố, và nhất là chỉ số H của ứng viên. Họ không đề ra những con số bài báo cụ thể phải là bao nhiêu để được đề bạt. Những chỉ số chỉ mang tính tham khảo, vì họ còn phải đánh giá số lượng bài báo được mời đóng góp hay những lần giảng tại hội nghị quốc tế được ban tổ chức mời và chi trả.

Thứ ba là vận dụng tối đa hệ thống bình duyệt (peer review). Không như ở một số nước việc bình duyệt chức danh khoa bảng được thực hiện bằng cách bỏ phiếu kín, ở nhiều trường bên Úc và Mĩ, người ta sử dụng hệ thống bình duyệt do chính các đồng nghiệp của ứng viên làm. Triết lí đằng sau cách làm này là chỉ có đồng nghiệp cùng chuyên môn với ứng viên là những người đánh giá chính xác nhất về thành tựu và uy tín của ứng viên. Một số đơn mà người viết bài này bình duyệt, hội đồng chức danh yêu cầu ứng viên tự chỉ ra trong đơn là họ tương đương với ai trên thế giới. Ngoài ra, hội đồng chức danh còn yêu cầu người bình duyệt chỉ ra thành tựu của ứng viên có thể xếp vào nào và tương đương với ai trên thế giới.  Nói tóm lại, để cho đồng nghiệp trong và ngoài đánh giá còn đảm bảo tính khách quan trong quá trình đề bạt.

Thứ tư là tính minh bạch. Tất cả các chi tiết về thủ tục và tiêu chuẩn đề bạt cho từng chức vụ đều được phổ biến trên internet. Ngoài ra, danh sách những người trong hội đồng phỏng vấn và lĩnh vực nghiên cứu cần được công bố cho ứng viên biết trước.  Thành phần hội đồng phỏng vấn được tuyển chọn sao cho đảm bảo bình đẳng giới tính, khoa học và ngoài khoa học, trong và ngoài đại học, v.v… Tính minh bạch còn thể hiện qua qui định ứng viên có quyền được xem các báo cáo bình duyệt của đồng nghiệp.  Ngoài ra, phải có cơ chế để ứng viên “khiếu nại” nếu đơn xin đề bạt không thành công.

Cố nhiên, tình hình thực tế ở nước ta không thể ứng dụng các tiêu chuẩn Âu Mĩ để đề bạt giáo sư, nhưng tôi nghĩ có thể dựa vào các tiêu chí quốc tế như là một bước đầu trong quá trình hội nhập quốc tế.

 

 


200 năm Darwin
Agent Orange: collateral damage
Alexandre Yersin và Việt Nam
Bàn về hiệu quả vắcxin: lâm sàng và kinh tế
Bàn về vấn đề dịch thuật và đánh giá năng suất khoa học
Béo phì ở người Á châu
Béo phì ở trẻ em và virus
Bình luận từ Dr. Yến
Bưởi không gây ung thư vú
Bảo hiểm y tế cộng đồng
Bảo tồn môi sinh: Chiến tranh giữa hai thế giới
Bằng chứng khoa học thay vì lên lớp
Bệnh tả: không để Việt Nam thành Bangladesh thứ hai
Bệnh tật nhìn từ quan điểm của thuyết tiến hóa
Bệnh xơ hóa cơ delta qua y văn thế giới
Bổ sung kẽm và điều trị bệnh tả
Bộ gen trong cây lúa và triển vọng
Bộ Y tế phản ứng chậm với rét đậm
Chiều cao của người Việt
Chiều cao và tổng thống Mĩ
Cholesterol và bệnh Tim
Cholesterol: hung thần hay bạn?
Chuột và... các nhà khoa học
Chính sách y tế cần dựa vào bằng chứng khoa học
Chạy đua vũ khí và … dịch cúm
Chất béo, cholesterol, bệnh tim và statins: xét lại bằng chứng
Chất keo xã hội: hormones
Chất lượng nghiên cứu dịch tễ học và y tế cộng đồng của Việt Nam qua chỉ số H
Chất lượng nghiên cứu khoa học ở Việt Nam qua chỉ số trích dẫn
Chất vấn chuẩn chẩn đoán béo phì
Chế độ ăn uống với nhiều thịt động vật và nguy cơ tử vong
Chủng vi khuẩn tả hiện nay ở nước ta có phải mới xuất hiện?
Cuộc chiến hóa học phi pháp lớn nhất trong lịch sử chiến tranh
Câu chuyện y học: Leptin và béo phì
Có bao nhiêu bác sĩ viết chữ khó đọc
Có nên tập trung vào vi khuẩn E. coli ?
Có thể xảy ra đại dịch cúm gia cầm?
Công cụ đơn giản để chẩn đoán tiểu đường ở người Đông Nam Á
Cúm gia cầm và nhiễu thông tin
Cúm H1N1: biết và chưa biết
Cơ hội để khép lại một chương lịch sử đau lòng
Cần hiểu đúng về Ung thư và nguy cơ ung thư
Cần qui ước đạo đức cho kĩ nghệ thực phẩm
Cần tiêm chủng ngừa bệnh tả vùng có nguy cơ cao
Cần điều tra về chất lượng bệnh viện
Cổ phần hóa bệnh viện công và chất lượng
Cổ phần hóa: chưa phải cách duy nhất
DDT và vấn đề cân đối giữa lợi ích và nguy hiểm
Dinh dưỡng: một nguồn thuốc quí giá
DNA không nói dối, nhưng DNA có thể nói … sai
Dịch cúm gà: hoang mang và sự thật khoa học
Dịch cúm heo và tác hại kinh tế
Dịch tay-chân-miệng
Dịch tả: gọi đúng tên để phòng ngừa
Dựa vào khoa học, đừng dựa vào niềm tin!
E. coli – vài câu hỏi thông thường
Gen và bệnh tật
Ghen tuông dưới cái nhìn của tâm lí y khoa
Gian lận trong nghiên cứu khoa học: áp lực kinh tế và cơ chế bình duyệt
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC: KHƠI DẬY VÀ NUÔI DƯỠNG TÍNH HAM HỌC
Giải nobel y học hay sinh lí học 2007 và lợi ích cho người bệnh
Giải Nobel Y sinh học 2008 và những tranh chấp khoa học
Giải Nobel y sinh học 2010 vinh danh người đem niềm vui cho người vô sinh
Giải Nobel y sinh học năm 2005: Một cõi đi về với vi khuẩn
Giải Nobel y sinh học: Nhìn lại quãng đường 100 năm
Giải phẫu ghép mặt và vấn đề y đức
Gout ở xương sống
Gãy xương và tử vong: một vấn nạn y tế cộng đồng
Hiệu quả vắcxin có nghĩa gì?
Hoa vàng mấy độc
Hàm lượng đạm trong sữa “siêu thấp” hay “siêu cao”?
Hóa chất khai hoang trong cuộc chiến Viện Nam: Qui mô và tầm ảnh hưởng
Hướng đi nào để giải quyết vấn đề chất độc da cam ở Việt Nam
Hậu “mắm tôm được minh oan”: bằng chứng khoa học, nhà xí và nghiên cứu
Hệ Thống Học Vị Và Học Hàm Khoa Học Ở Vài Nước Tây Phương
Hợp tác khoa học kiểu nhảy dù - Nguyễn Văn Tuấn
Khi bác sĩ trẻ “khoe” quá nhiều
Khoa học và ngụy khoa học: một vài đặc điểm và khác biệt cần biết
Khoa học, xã hội, và rủi ro
Không thể thành Phù Đổng trong 20 năm!
Khẩu trang và phòng chống cúm A/H1N1
Kiểm định giả thuyết mắm tôm và vi khuẩn tả
Liều lượng melamine bao nhiêu là an toàn?
Lí lịch sinh học của heo và dấu vết văn minh nông nghiệp Đông Nam Á
Lượng giá mạng sống con người
Lợi ích của vitamin D
Miệng nhà quan
Mắm tôm có phải là “thủ phạm” gây bệnh tả? Xét lại bằng chứng khoa học
Mắm tôm và chuyện xin lỗi
Mắm tôm và dịch tả: phân biệt yếu tố nguy cơ và nguyên nhân
Mắm tôm vô tội!
Mắm tôm, nguyên nhân và hệ quả
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Một bệnh hiếm X-linked recessive hypoparathyroidism
Một lần đi phỏng vấn
Một năm nhìn lại
Một phán quyết thiếu cơ sở khoa học
Một vài hiểu lầm tai hại
Một vài ngộ nhận về nghiên cứu khoa học
Một vài vấn đề về qui định chức danh giáo sư ở Việt Nam
Một vụ Madoff trong y khoa: Lại một ngôi sao y khoa rơi rụng!
Mỡ trắng, mỡ nâu
Mỡ  trong máu, huyết áp, và  tiểu đường
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nguyên nhân bệnh tiêu chảy
Ngó trên tay điếu thuốc đã lụi dần
Người cao tuổi và sự hạn chế của y khoa
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Nhân chuyện dịch tả nhớ lại John Snow
Nhân câu chuyện điện não đồ xét nghiệm nghiện ma túy:
Nhân năm khỉ_nguồn gốc con người hiện đại
Nhân năm Tý bàn chuyện thí nghiệm trên chuột
Nhìn lại khoa học Việt Nam năm 2008 qua công bố quốc tế
Nhầm lẫn trong y khoa: Khá phổ biến, nhưng ít ai biết!
Những câu hỏi và trả lời về dịch gia cầm
Những sai sót khó tin nhưng có thật
Những sai sót nguy hiểm trong toa thuốc
Những điều khó tin về “Bảy điều khó tin nhất trong y học”
Năm lí do cho mắm tôm “vô tội”
Phán quyết sau cùng: Chất béo không ảnh hưởng đến ung thư và bệnh tim
Phát hiện gien kiểm soát ráy tai: vài bài học về mò kim đáy biển
Phòng chống bệnh phải dựa vào bằng chứng khoa học!
Phòng chống H1N1 bằng rửa tay và khẩu trang: Biện pháp nào hiệu quả hơn?
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao và cân nặng: thiếu cơ sở khoa học và kì thị giới tính
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao: vấn đề giả định và bằng chứng khoa học
Quyền phê phán và trí thức
Quyền được tiếp cận hồ sơ bệnh án
Quản lý chất lượng: Thuốc phòng "tai nạn y khoa"
Rửa tay bằng xà phòng và tiêu chảy
Serotonin có liên quan đến chứng đột tử
Suy dinh dưỡng ở trẻ em: vấn đề của kinh tế
Sàng lọc trẻ sơ sinh trên phạm vi toàn quốc
Tai nạn y khoa trong bệnh viện
Thế nào là một "bài báo khoa học"
Thế nào là “Cơ sở khoa học” ?
Thịt chó là nguyên nhân của bệnh tiêu chảy cấp tính?
Thịt chó và bệnh tả: nguyên nhân và yếu tố nguy cơ
Tiên lượng bệnh Alzheimer bằng protein expression ?
Tiêu chuẩn chất lượng giáo dục đại học
Tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì cho người Việt - Nguyễn Văn Tuấn
Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh đái tháo đường (diabetes mellitus)
Tiêu chuẩn đề bạt giáo sư: Có nên căn cứ vào số lượng bài báo ?
Tiêu chảy cấp tính và bệnh tả: Định danh cho đúng
Truy tìm ung thư bằng mammography từ tuổi 50
Truyền thông và khoa học: Qui ước Ingelfinger
Truyền thông và y tế
Truyền thông, khoa học và … doanh nghiệp
Trà xanh và sức khỏe
Trách nhiệm và nhân đạo trong vấn đề chất độc da cam
Trái chanh và phòng chống bệnh tả
Trả lời những câu hỏi liên quan đến loãng xương
Trọng lượng cơ thể và tử vong ở người Trung Quốc: Ý nghĩa về việc xác định tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì
Tuổi thọ của người dân giảm 10 năm ?
Tác dụng Placebo trong y học: Tâm lí và ý nghĩa
Tình yêu, sắc đẹp nhìn dưới quan điểm di truyền học
Tín hiệu môi trường từ những “làng ung thư”
Tính khoa học và minh bạch đằng sau xét nghiệm doping
Tại sao không phát biểu về nguyên nhân và hệ quả ?
Tại sao uống rượu gây đỏ mặt và nguy cơ ung thư thực quản
Tạo sinh vô tính và cái chết của Thượng đế
Tạo sinh vô tính và vấn đề sinh đạo đức
Tản mạn về SARS
Tỉ lệ tử vong do cúm heo là bao nhiêu ?
Tự trị, chất lượng và y đức thay vì cổ phần hóa bệnh viện công
Ung thư vú và vấn đề thông tin y khoa
Uống bia hấp dẫn muỗi
Vaccine phòng chống AIDS hiệu quả đến đâu ?
Vaccine phòng chống cúm A/H1N1
Vi khuẩn gây tiêu chảy và ý nghĩa tiêm chủng
Vi khuẩn tả trong chó ?
Viết văn có thể chữa nhiều loại bệnh
Viết văn và trị liệu
Việc ta, ta cứ làm!
Vài nhận xét về 12 điều lệ y đức của Việt Nam
Vài thông tin cần biết về các chương trình truy tìm ung thư vú
Vài đóng góp quan trọng của người Việt khoa học thống kê
Văn hóa khoa học
Văn hóa tranh luận và vấn đề ngụy biện
Vấn đề sinh tố: kẽm và đồng
Vấn đề truy tìm ung thư phổi và hiệu quả 
Vấn đề y đức trong nghiên cứu tế bào mầm (stem cells)
Vấn đề đo lường melamine
Vấn đề đào tạo tiến sĩ: kinh nghiệm từ Australia
Vắc-xin phòng chống ung thư cổ tử cung
Vắcxin ngừa viêm gan B: cẩn thận với “nhiễu thông tin”
Vắcxin ngừa viêm gan B: kinh nghiệm từ nước ngoài
Vắcxin phòng bệnh sởi - quai bị - Rubella: lợi và hại
Vắcxin phòng chống ung thư cổ tử cung: hiệu quả lâm sàng và kinh tế
Vắcxin phòng ngừa bệnh tả: rất cần thiết
Về chấn chỉnh đào tạo tiến sĩ: Công bố bài báo khoa học là một thách thức lớn ?
Về học vị tiến sĩ
Về một sự hiểu lầm thuật ngữ "prospective"
Về phản ứng phụ của bisphosphonates liên quan đến hoại tử xương hàm và rung nhĩ
Vệ sinh như là một loại hàng hóa
Vị thế của nền khoa học Việt Nam
Xung quang xì căng đan về nghiên cứu tế bào mầm
Xã hội hóa và an toàn thực phẩm
Xếp hạng đại học: cần minh bạch hóa phương pháp
Y học hiện đại và những hứa hẹn
Y học thực chứng: vài nét khái quát
Y Khoa và những nhầm lẫn chết người
Y tế dự phòng: nền tảng của y khoa hiện đại
Y đức và nghiên cứu y học
Ói mửa, cao huyết áp và hôn mê
Ăn chay như là một trị liệu
Ăn chay và loãng xương
Điều trị bệnh dựa vào màu da ?
Điều trị đau dây thần kinh tọa bằng phẫu thuật: không có hiệu quả
Đo lường hiệu suất khoa học
Đánh giá đúng tầm quan trọng của ung thư vú 
Đại dịch H1N1
Đại dịch và đại dịch ảo
Đại dịch đã đến ?
Đạo văn trong hoạt động khoa học
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đằng sau những con số hàm lượng đạm trong sữa
Đế quốc Trà
Đề bạt các chức danh khoa bảng: vài kinh nghiệm từ Úc
Đọc lại 12 điều y đức của Việt Nam
Đồi điều về sữa nhiễm melamine
Đừng quên melamine trong các thực phẩm khác!
Ước vọng 200 ?
“Kỹ năng mềm” cho nhà khoa học
“Sẽ” và “có thể”


Trang nhiều tác giả
Trang riêng của Lê Ngọc Dũng
Trang riêng của Lương Lễ Hoàng
Trang riêng của Nguyễn Bảo Trung
Trang riêng của Nguyễn Hoài Nam
Trang riêng của Nguyễn Hữu Đức
Trang riêng của Nguyễn Văn Tuấn
Trang riêng của Nguyễn Ý Đức
Trang riêng của Nguyễn Đình Nguyên
Trang riêng của Phan Xuân Trung
Trang riêng của Đỗ Hồng Ngọc
Trang riêng của Đỗ Minh Tuấn