Cần tiêm chủng ngừa bệnh tả vùng có nguy cơ cao
Nguyễn Văn Tuấn
Tình hình diễn biến bệnh tả đúng như các giới chức y tế đánh giá có chiều hướng phức tạp. Theo tôi, ngoài những những người đang sống trong vùng chịu ảnh hưởng (chủ yếu ở phía Bắc), những người đang sống với lũ lụt ở miền Trung cần phải được quan tâm đặc biệt trong công tác phòng bệnh tả, không để cho dịch bộc phát.
Hiện nay, số người phải di dời khỏi nhà vì lũ lụt đang lên đến con số hàng triệu. Trong điều kiện xa nhà, người dân khó có thể có nguồn nước sạch, và cũng không có cơ sở y tế ứng phó khi dịch khởi phát. Cũng cần nhắc lại rằng miền Trung từng là tâm điểm của nhiều nạn dịch trong quá khứ. Miền Trung, theo định nghĩa của Tổ chức Y tế Thế giới, là một vùng có nguy cơ cao cho dịch tả bộc phát.
Ở các vùng này, rất khó để thực hành khuyến cáo “ăn chín uống sôi” do điều kiện xa nhà và phải đối phó với lũ lụt. Do đó, tiêm chủng để phòng ngừa bệnh tả ở các vùng ảnh hưởng lũ lụt có lẽ là một biện pháp thực tế. Thật ra, vẫn theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới, những vùng có nguy cơ cao như miền Trung, cần phải tiến hành một chiến dịch tiêm chủng ngừa cho người dân, đặc biệt là những đối tượng có nguy cơ mắc bệnh tả cao như trẻ em dưới 5 tuổi và người cao tuổi.
Các giới chức y tế tuy nhận thức rằng “Vắcxin chỉ được dùng dự phòng ở những vùng nguy cơ cao, hay cho người sắp vào vùng dịch tả lưu hành”, nhưng cho đến nay hình như vẫn còn ngần ngại triển khai ở miền Trung. Tiêu biểu cho sự dè dặt này là ý kiến của ông Phó cục trưởng Cục Y tế dự phòng: “Lý do là hiệu quả của loại văcxin này rất thấp, chỉ đạt 60-70% (các văcxin thông thường phải gần 100%), nghĩa là khoảng 1/3 số người dùng văcxin vẫn có thể phát bệnh.” Nhưng trong thực tế rất ít cho vắc-xin nào đạt hiệu quả phòng chống 100%, và nếu vắc-xin ngăn ngừa được 70% ca bệnh tả thì cũng là một kết quả rất tốt vì có thể tiết kiệm cho ngân sách Nhà nước và ngân sách y tế gia đình cho người dân. Hiệu quả 70% thì khó mà nói đó là “chỉ đạt” mà phải nói là “rất đáng kể”. Do đó, tôi e rằng sự dè dặt sử dụng vắc-xin hiện nay không mấy thuyết phục.
Hiệu quả vắc-xin đã từng được nghiên cứu ở Việt Nam và trên thế giới. Năm 1997, trong một thử nghiệm tại Huế trên gần 52.000 người do giáo sư Đặng Đức Trạch và đồng nghiệp tiến hành, vắc-xin sản xuất tại Việt Nam (qua chuyển giao công nghệ từ Mĩ) có khả năng ngăn ngừa 66% đến 68% trường hợp bệnh tả do vi khuẩn V. cholerae El Tor gây bệnh (vi khuẩn được tìm thấy ở phía Bắc hiện nay) [1]. Năm 2005, vì ảnh hưởng sóng thần Tsunami, hàng triệu người Nam Dương mất nhà cửa và phải tạm thời ở trong các trại tạm trú (cũng giống như trường hợp các tỉnh miền Trung hiện nay ở nước ta); do đó, chính quyền quyết định tiêm chủng để ngừa dịch bệnh. Báo cáo của Tổ chức Y tế Thế giới về hiệu quả tiêm chủng vắc-xin ở đây cho thấy hiệu quả phòng chống bệnh tả của vắc-xin WC/rBS và CVD103 Hg-R lên đến 90% [2]. Một số nghiên cứu gần đây ở Bangladesh và Peru cho thấy vắc-xin WC/rBS có hiệu quả chống dịch tả đến 85-90% trong vòng 6 tháng cho tất cả đối tượng bất kể độ tuổi nào [3].
Bằng chứng khoa học vừa trình bày trên cho thấy vắc-xin có hiệu quả cao trong việc ngăn ngừa bệnh tả, nhât là ở trẻ em dưới 5 tuổi. Câu hỏi kế tiếp là tiêm chủng vắc-xin đại trà ở những vùng có nguy cơ cao như miền Trung hiện nay có đem lại lợi ích kinh tế hay không? Hiệu quả kinh tế của việc tiêm chủng có thể so sánh với chiến lược không tiêm chủng. Hiệu quả kinh tế tùy thuộc chủ yếu vào 3 yếu tố chính: (a) tần số mắc bệnh hay tỉ lệ phát sinh bệnh; (b) chi phí tiêm chủng vắc-xin; và (c) hiệu quả phòng chống bệnh của vắc-xin. Bảng sau đây cho thấy nếu tỉ lệ phát sinh bệnh 2%, chiến lược tiêm chủng chỉ có thể có hiệu quả kinh tế nếu giá vắc-xin dưới 1 USD. Tuy nhiên, nếu tỉ lệ phát sinh trên 2%, ngay cả giá tiêm chủng vắc-xin 1 USD, thì chiến lược tiêm chủng vẫn có hiệu quả kinh tế, hiểu theo nghĩa tiết kiệm tiền cho người dân và ngân sách Nhà nước.
Bảng 1. Ước tính chi phí phòng chống bệnh tả cho 2 chiến lược tiêm chủng và không tiêm chủng. |
|||
Tỉ lệ phát sinh bệnh (tính bằng phần trăm) |
Chi phí tiêm chủng 2 liều vắc-xin (tính bằng USD) |
Tổng chi phí trực tiếp (USD) |
|
Với chiến lược không tiêm chủng |
Với chiến lược tiêm chủng |
||
2% |
0,5 |
5.000.000 |
2.000.000 (1.500.000) |
1,0 |
5.000.000 |
2.500.000 (2.000.000) |
|
5% |
0,5 |
12.500.000 |
4.250.000 (3.000.000) |
1,0 |
12.500.000 |
4.750.000 (3.500.000) |
|
10% |
0,5 |
25.000.000 |
8.000.000 (5.500.000) |
1,0 |
25.000.000 |
8.500.000 (6.000.000) |
|
Chú thích: Bảng so sánh này chỉ tính trên một quần thể giả định gồm 1.000.000 người. Chi phí cho chiến lược không tiêm chủng được tính cho 10 ngày điều trị; mỗi ngày tốn trung bình 25 USD. Chi phí cho chiến lược tiêm chủng được tính với giả định hiệu quả của vắc-xin là 70% (và 80% trong ngoặc kép) [4]. |
Các tính toán trên dựa vào giả định giá hai liều vắc-xin là 0,5 và 1 USD. Nhưng trong thực tế, giá văc-xin có thể thấp hơn. Theo báo chí thì “Giá thành của 2 liều vaccin (đủ để gây miễn dịch cho mỗi người) được Nhà nước qui định là 6.500 đồng” (tức khoảng 0,4 USD). Với giá thành này, chiến lược tiêm vắc-xin còn có hiệu quả kinh tế cao hơn và hiệu quả lâm sàng thì không thay đổi.
Nói tóm lại, bằng chứng khoa học và các tính toán trên đây cho thấy cần phải chủ động tiến hành một chiến dịch tiêm chủng ở qui mô cộng đồng ở những người dân đang sống với lũ lụt, nhất là trẻ em dưới 5 tuổi và người cao tuổi, vì một chiến dịch như thế rất có hiệu quả phòng chống nguy cơ bộc phát nạn dịch tả mà lại đem lại hiệu quả kinh tế.
Tình hình bão lụt ở miền Trung càng lúc càng nghiêm trọng, và bệnh tả đã lan truyền (hay xuất hiện) ở Thanh Hóa. Do đó, có thể nói các địa phương như Huế, Quảng Bình, Quảng Trị đang chịu “áp lực” của dịch tả. Trong tình hình “màn trời chiếu đất” thiết tưởng những khuyến cáo như “ăn chín, uống sôi” thiếu tính thực tế. Do đó, tiêm chủng ngừa có lẽ là biện pháp thực tế nhầt và hữu hiệu nhất để ngăn chận nạn dịch lan tràn xuống các tỉnh phía Nam. Vì hiệu quả của vắc-xin tùy thuộc vào thời gian, và qua kinh nghiệm ở Nam Dương trong trận bão Tsunami, một chiến dịch tiêm chủng cần phải thực hiện càng nhanh càng tốt để đem lại hiệu quả cao nhất.
Tài liệu tham khảo:
[1] Trach DD, et al. Field trial of a locally produced, killed, oral cholera vaccine in Vietnam. Lancet. 1997 Jan 25;349(9047):231-5.
[2] World Health Organization. “Oral cholera vaccine use in complex emergencies: what next” Có thể tải về để tham khảo từ địa chỉ:
http://www.who.int/entity/cholera/publications/
cholera_vaccines_emergencies_2005.pdf.
[3] World Health Organization. Weekly epidemiological record. WHO Bulletin No 31, 2006, 81:297-308.
[4] Giải thích thêm cách tính đơn giản. Trong một quần thể gồm 1 triệu người, nếu 5% mắc bệnh, thì tổng số bệnh nhân là 50.000 người. Giả dụ rằng chi phí điều trị là 25 USD/ngày trong vòng 10 ngày, thì với chiến lược không can thiệp, tổng chi phí lên đến 12,5 triệu USD. Nhưng nếu chúng ta can thiệp bằng vắc-xin, và hiệu quả 70%, thì số bệnh nhân là 50.000 x 0,3 = 15.000 người. Chi phí điều trị do đó là 3.750.000 USD. Nhưng chúng ta phải tốn 0,5 x 1 triệu người = 500.000 USD. Do đó tổng chi phí cho chiến lược can thiệp là 500.000 + 3.750.000 = 4,25 triệu USD. So với chiến lược không can thiệp, chiến lược can thiệp tiết kiệm được 12,5 –4,25 = 8,25 triệu USD.