NGUYỄN VĂN TUẤN

Dịch tả: gọi đúng tên để phòng ngừa

Nguyễn Văn Tuấn

 

Tính đến ngày ngày 5/11, theo thông tin từ báo chí -- có lẽ chưa đầy đủ -- số trường hợp nghi mắc bệnh “tiêu chảy cấp” đã trên 600, phần lớn tập trung ở các tỉnh phía Bắc.  Đọc bản tin này làm tôi phải hỏi tại sao đã qua 600 trường hợp mà vẫn còn “nghi”?  Một bản tin khác cho biết “Theo bác sĩ Nguyễn Hồng Hà, Phó Viện trưởng Viện Các bệnh truyền nhiễm và nhiệt đới quốc gia, những ngày vừa qua số lượng bệnh nhân nhập viện do tiêu chảy đột ngột tăng, trung bình mỗi ngày viện tiếp nhận 50- 60 bệnh nhân nghi nhiễm tiêu chảy cấp. Hiện có 144 ca tiêu chảy, qua xét nghiệm ban đầu đã xác định 108 ca dương tính với tiêu chảy cấp, trong đó có nhiều bệnh nhân nặng.”  Người đọc, kể cả tôi, phải hỏi ngay: dương tính gì?  Xét nghiệm sinh hóa làm gì có kết quả “dương tính với tiêu chảy cấp”.  Có lẽ nhà báo viết vội chăng?

 

Ai cũng biết đứng trên phương diện lâm sàng việc điều trị bệnh thành công phải bắt đầu bằng một chẩn đoán chính xác.  Tương tự, một vấn đề mang tính y tế công cộng cũng phải bắt đầu bằng cách định danh chính xác căn bệnh để đi đến một kế hoạch phòng ngừa hữu hiệu. 

 

Thật ra, phần lớn các trường hợp gọi là nghi mắc bệnh tiêu chảy cấp khi xét nghiệm vi khuẩn có kết quả dương tính vi khuẩn Vibrio cholerae (có khi viết tắt là V. cholerae)Vi khuẩn V. cholerae (được nhà sinh học người Đức Robert Koch phát hiện lần đầu năm 1885) sản sinh ra một độc tố có tên là cholera, và độc tố này được lấy để đặt tên cho bệnh [1].  Thuật ngữ y khoa “cholera” được dịch ra tiếng Việt là “bệnh dịch tả” hay "bệnh tả".  Bệnh dịch tả là một bệnh nhiễm trùng cấp ở ruột non do vi khuẩn V. cholerae tương tác với các protein trong đường ruột để “mở cửa” các kênh ion và từ đó gây ra tình trạng mất nước trong cơ thể.  Hệ quả là bệnh nhân bị tiêu chảy trầm trọng (với đặc tính phân giống như nước gạo) và ói mửa.  Như vậy, qua các triệu chứng được tường thuật như ói mửa, tiêu chảy và kết quả xét nghiệm, có thể nói rằng phần lớn các trường hợp nghi ngờ này thật sự mắc bệnh dịch tả, hay bệnh tả.

 

Vấn đề đặt ra không còn là “nghi ngờ” bệnh, mà là phát triển một chiến lược y tế công cộng để khắc phục và phòng ngừa bệnh lan truyền ra các tỉnh khác.  Ba mươi năm trước khi Robert Koch khám phá vi khuẩn V. chloerae, nhà dịch tễ học danh tiếng người Anh, John Snow, đã chứng minh rằng bệnh dịch tả lan truyền qua nguồn nước uống.  Thật vậy, cho đến nay, bệnh dịch tả chủ yếu lan truyền qua đường nước uống bị nhiễm khuẩn từ phân của người bị bệnh.  Sau một thời gian ủ bệnh từ 1 đến 5 ngày, các triệu chứng xuất hiện một cách đột ngột.  Sự mất cân bằng điện giải trong dịch tố của cơ thể có thể gây ra tử vong trong vòng 24 giờ.  Điều trị bằng cách truyền tĩnh mạch dung dịch muối, trụ sinh chỉ làm cho sự bình phục nhanh hơn.  Nếu người mắc bệnh không được điều trị, tỉ lệ tử vong có thể lên đến 50%. 

 

            Cố nhiên, bệnh dịch tả không phải là một bệnh mới trong lịch sử tiến hóa con người, vì vi khuẩn gây bệnh đã tồn tại từ nhiều trăm năm, hay thậm chí nhiều vạn năm, trước đây.  Bệnh đã bộc phát và tái bộc phát nhiều lần trong một thế kỉ qua.  Dịch tả mới nhất xảy ra ở Peru vào năm 1991–1994 với hơn 1 triệu người bị nhiễm và gây tử vong cho gần 10 ngàn người [2].  Qua các nạn dịch này, chúng ta có thể rút ra một số bài học quan trọng để kiểm soát và phòng ngừa bệnh trên qui mô cộng đồng.  Bài học quan trọng nhất là chiến lược kiểm soát và phòng ngừa bệnh dịch tả cần sự hoạt động đồng bộ của 4 lĩnh vực: y tế, vệ sinh nước, thực phẩm, và giáo dục [3]. 

 

Y tế.  Hệ thống y tế các cấp, nhất là y tế cộng đồng, cần được trang bị phương tiện chẩn đoán và đủ thuốc và vắc-xin để điều trị cho các bệnh nhân.  Kinh nghiệm từ các nước Phi châu cho thấy có thể thành lập các đội y tế “đặc nhiệm” để phát hiện các trường hợp bệnh dịch tả và cách li kịp thời để không gây lan truyền cho cộng đồng.  Cần chú ý đến những người với nhóm máu O vì họ thường có nguy cơ mắc bệnh rất cao.  Những người với máu nhóm AB thường có khả năng đề kháng vi khuẩn và ít mắc bệnh hơn người mang máu nhóm O.  Ngoài ra, những trẻ em thiếu dinh dưỡng, những người đang sử dụng thuốc antacid cũng có nguy cơ mắc bệnh tả khá cao, và họ là những đối tượng cần được phòng ngừa.

 

Nước và thực phẩm.  Bởi vì bệnh dịch tả lan truyền qua đường nước nhiễm trùng, cho nên cải thiện và đảm bảo vệ sinh nguồn nước uống và nấu ăn là biện pháp hữu hiệu nhất và thiết thực nhất trong việc phòng ngừa bệnh.  Ở các vùng nông thôn, nên khuyến khích sử dụng chlorine để tẩy trùng nước hay đun sôi nước trước khi uống.  Ở thành thị, cần xét nghiệm ngẫu nhiên và thường xuyên nguồn nước để phát hiện và điều trị kịp thời các vi khuẩn có thể gây bệnh.  Ngoài ra, kinh nghiệm từ các nước Phi châu cho thấy thực phẩm bị nhiễm trùng là một yếu tố quan trọng gây nên bệnh dịch tả, cho nên kiểm soát vệ sinh nguồn cung cấp thực phẩm cũng là một biện pháp có ích trong việc ngăn ngừa bệnh phát sinh trong gia đình và cộng đồng. 

 

Vai trò của gia đình.  Nhưng tất cả các biện pháp trên sẽ không có hiệu quả nếu người dân không ý thức được nguyên nhân của bệnh và từ đó bất cộng tác.  Thực tế, cho đến nay, người dân vẫn chưa biết đó là bệnh tả, nên vẫn khá thờ ơ với nguy cơ mắc bệnh.  Vì thế, công tác giáo dục y tế cộng đồng, kể cả chỉ dẫn về cách xử lí nguồn nước, nấu nướng và bảo quản thực phẩm, phương pháp hủy phân, v.v… đóng vai trò cực kì quan trọng trong việc đảm bảo sự thành công của một chiến lược y tế công cộng.  Cần phải nhấn mạnh rằng vi khuẩn gây bệnh tả V. cholerae rất dễ bị tiêu diệt trong môi trường axít cao và nhiệt độ cao.  Do đó, thông báo cho công chúng biết rằng nấu chín thực phẩm, kể cả rau cải, và đun sôi nước là những biện pháp thiết thực nhất mà họ có thể áp dụng để giảm thiểu nguy cơ mắc bệnh tả.  Có thể thực hiện một chương trình giáo dục y tế công cộng như thế qua tivi và báo chí.

 

Cần phân biệt yếu tố nguy và nguyên nhân.  Hiện nay, các giới chức y tế cho rằng mắm tôm và ăn thịt chó là tác nhân gây bệnh tả và đã có những biện pháp “mạnh” với loại thực phẩm “quốc hồn quốc túy” này.  Bản tin trên tờ Người lao động cho biết “Hà Tây: 100% bệnh nhân đều có ăn thịt chó”.  Ăn thịt chó phải có mắm tôm, và một bản tin khác thì khẳng định hơn: “Mắm tôm - Nghi phạm số 1 gây dịch tiêu chảy cấp”.  Nhưng trong thực tế chúng ta vẫn chưa có dữ liệu chính xác để khẳng định.  Dù cho 100% những người bị bệnh tả từng ăn thịt chó hay mắm tôm trước đây, vẫn không thể phát biểu rằng mắm tôm là nguyên nhân của bệnh.  Thật ra, câu hỏi quan trọng hơn là: trong số những người ăn mắm tôm (và thịt chó) có bao nhiêu người bị bệnh tả, và trong số những người không ăn mắn tôm có bao nhiêu người mắc bệnh? Chúng ta chưa có dữ liệu này.  Và do đó, chúng ta không thể nói mắm tôm là nguyên nhân gây bệnh.  Tuy nhiên, có thể nói mắm tôm là một yếu tố nguy cơ có liên quan đến bệnh tả.

 

Ăn thịt chó hay mắm tôm là yếu tố nguy cơ chứ không phải thủ phạm, bởi vì thủ phạm là vi khuẩn V. cholerae.  Vì thế, tôi e rằng đặt trọng tâm vào một loại thực phẩm như thế có thể làm sao lãng (hay đánh giá thấp) một tác nhân nguy hiểm hơn và qui mô hơn: nguồn nước.  Như đề cập trên, nguồn nước nhiễm trùng -- có thể qua phân người bệnh -- chính là yếu tố gây nên tình trạng dịch lan tràn sang các vùng khác.

 

Cần một chiến dịch tiêm chủng.  Đối với những vùng phía Nam hay Trung chưa mắc bệnh, phương châm của y tế công cộng vẫn là phòng bệnh hơn chữa bệnh.  Hiện nay, các tỉnh miền Trung đang ở trong tình trạng lũ lụt, và kinh nghiệm từ các nước khác cho thấy lũ lụt có thể làm cho bệnh dịch tả lan truyền nhanh hơn, cho nên có thể nói rằng các tỉnh miền Trung và phía Nam đang chịu sức ép của nguy cơ lan truyền bệnh dịch tả.  Đối với các tỉnh này, có lẽ chiến lược phòng ngừa thực tế nhất là tiêm chủng ngừa những người có nguy cơ mắc bệnh cao.  Một số nghiên cứu gần đây ở Bangladesh và Peru cho thấy vắc-xin WC/rBS có hiệu quả chống dịch tả đến 85-90% trong vòng 6 tháng cho tất cả đối tượng bất kể độ tuổi nào [4].  Thật ra, vắc-xin này cũng đã được thử nghiệm ở Việt Nam vào năm 1992-1993 với hiệu quả phòng chống bệnh lên đến 66% trong vòng 8 tháng.  Một loại vắc-xin khác (CVD 103-HgR) cũng đã qua thử nghiệm lâm sàng và hiệu quả cũng rất khả quan với 65% phòng chống vi khuẩn V. cholerae El Tor (loại vi khuẩn gây ra nạn dịch ở Peru vào 1991-1994).  Năm 2005, chính phủ Nam Dương quyết định tiêm chủng vắc-xin WC/rBS để phòng chống dịch tả cho tất cả các cư dân trong vùng bị ảnh hưởng cơn bão Tsunami, và họ đã thành công trong việc kiểm soát và ngăn ngừa cơn đại dịch. 

 

            Đến đây thì câu hỏi đặt ra là tiêm chủng đại trà ở các vùng có nguy cơ cao (như miền Trung) có hiệu quả kinh tế hay không?  Câu trả lời ngắn gọn là “có”.  Năm 1998, một nghiên cứu tiêm chủng từ Việt Nam cho thấy chi phí tiêm 2 liều vắc-xin cho 118.555 người là 105.447 USD.  Như vậy tính trung bình, chi phí tiêm chủng cho một người là khoảng 0,9 USD.  So với số trường hợp bệnh tả được ngăn ngừa và chi phí bệnh viện nếu mắc bệnh thì một chiến dịch tiêm chủng như thế vừa rất có hiệu quả kinh tế và y tế [5] vừa an toàn [6].

 

Bệnh tả và nạn dịch tả cho đến nay vẫn là một vấn đề y tế công cộng có qui mô toàn cầu, và cũng là cũng một chỉ tiêu để đo lường sự phát triển xã hội.  Hàng năm, có khoảng 5-7 triệu người trên thế giới mắc bệnh tả, và số tử vong vì bệnh này khoảng 100.000 người.  Chỉ riêng năm 2005, Tổ chức y tế thế giới (WHO) ghi nhận gần 132.000 trường hợp bệnh dịch tả và 2272 trường hợp tử vong (tỉ lệ tử vong 1,72%) trên thế giới; trong đó, 98% trường hợp xảy ra ở Phi châu.  Mặc dù bệnh dịch tả không còn là mối quan tâm ở các nước đã phát triển, nhưng ở các nước đang phát triển như nước ta với điều kiện vệ sinh nguồn nước là một thách thức lớn thì dịch tả vẫn là một mối đe dọa không nhỏ đến sức khỏe người dân.  Thiết nghĩ kinh nghiệm từ các nước trong vùng và trên thế giới cung cấp cho chúng ta một bài học quan trọng: đó là chủ động phòng chống bệnh, kể cả tiêm ngừa ở qui mô cộng đồng để ngăn chận sự bộc phát của bệnh. 

 

            Cũng cần nói thêm rằng chúng ta không nên quá quan tâm đển “sỉ diện” về vấn đề bệnh tật và địa lí và sắc tộc.  Do lịch sử tiến hóa của con người, một số bệnh thường có xu hướng tập trunng vào một số vùng và sắc dân.  Chẳng hạn như bệnh thần kinh xơ cứng bì rải rác (tiếng Anh là multiple sclerosis) thường tập trung vào các vùng thuộc phí Tây bán cầu (Âu châu, Bắc Mĩ, Úc và Tân Tây Lan), rất hiếm ở Á châu, ngược lại các bệnh như dịch tả thường có xu hướng tập trung vào các vùng Phi châu, Nam Mĩ và Á châu,  nhưng rất hiếm ở Âu châu.  Quá trình chọn lọc gien và “dung hòa” giữa lợi và hại của gien cũng đóng vai trò quan trọng trong sự phân phối bệnh tật nhìn ở góc độ toàn cầu.  Nhiễm trùng là hệ quả của sự cạnh tranh vì sinh tồn giữa hai sinh vật: giữa kí sinh vật (vi khuẩn) và kí chủ (tức cơ thể của chúng ta mà vi khuẩn sống nhờ). Con người nói chung đã chinh phục nhiều tác nhân gây bệnh với những thuốc như thuốc kháng sinh và vắc-xin. Chiến thắng của con người tương đối nhanh và có vẻ như hoàn toàn, như lời tuyên bố đầy tự tin của Bộ trưởng y tế Mĩ, William H. Stewart, vào năm 1969: "Bây giờ chúng ta có thể nói rằng bệnh truyền nhiễm đã được khống chế hoàn toàn. Đã đến lúc chúng ta đóng sổ căn bệnh này." Thế nhưng kẻ thù, và với sức mạnh của chọn lọc tự nhiên, đã làm cho lời tuyên bố đó trở thành khôi hài! Thực tế phũ phàng là các tác nhân gây bệnh có khả năng thích nghi với bất cứ hóa chất nào mà con người dùng để tiêu diệt chúng. Một nhà khoa học nói một cách chua chát: "Cuộc chiến đã kết thúc, nhưng kẻ thắng trận là kẻ thù của chúng ta." Nói như thế không có nghĩa là chúng ta đầu hàng với vi khuẩn, mà chỉ muốn nói rằng vi khuẩn vẫn “song hành” cùng chúng ta, và không có điều gì phải mặc cảm nếu bệnh tả xảy ra ở nước ta.  Chấp nhận bệnh để khắc phục và phòng ngừa, chứ không phải để mang nỗi mặc cảm về mức độ tiến bộ xã hội – y tế.

 

Tài liệu tham khảo:

[1]  Zuckerman JN, Rombo L, Fisch A. The true burden and risk of cholera: implications for prevention and control. Lancet Infect Dis. 2007;7(8):521-30.

[2]  Tickner J, Gouveia-Vigeant T. The 1991 cholera epidemic in Peru: not a case of precaution gone awry. Risk Anal. 2005;25(3):495-502.

[3]  Curioso WH, Miranda JJ, Kimball AM. Learning from low income countries: what are the lessons? Community oral rehydration units can contain cholera epidemics. BMJ. 2004;329(7475):1183-4.

[4]  WHO.  Weekly epidemiological record.  WHO Bulletin No 31, 2006, 81:297-308. 

[5]  Vu DT, et al. Coverage and costs of mass immunization of an oral cholera vaccine in Vietnam. J Health Popul Nutr. 2003 Dec;21(4):304-8.

[6]  Anh DD, et al.  Safety and immunogenicity of a reformulated Vietnamese bivalent killed, whole-cell, oral cholera vaccine in adults. Vaccine. 2007 Jan 22;25(6):1149-55.


200 năm Darwin
Agent Orange: collateral damage
Alexandre Yersin và Việt Nam
Bàn về hiệu quả vắcxin: lâm sàng và kinh tế
Bàn về vấn đề dịch thuật và đánh giá năng suất khoa học
Béo phì ở người Á châu
Béo phì ở trẻ em và virus
Bình luận từ Dr. Yến
Bưởi không gây ung thư vú
Bảo hiểm y tế cộng đồng
Bảo tồn môi sinh: Chiến tranh giữa hai thế giới
Bằng chứng khoa học thay vì lên lớp
Bệnh tả: không để Việt Nam thành Bangladesh thứ hai
Bệnh tật nhìn từ quan điểm của thuyết tiến hóa
Bệnh xơ hóa cơ delta qua y văn thế giới
Bổ sung kẽm và điều trị bệnh tả
Bộ gen trong cây lúa và triển vọng
Bộ Y tế phản ứng chậm với rét đậm
Chiều cao của người Việt
Chiều cao và tổng thống Mĩ
Cholesterol và bệnh Tim
Cholesterol: hung thần hay bạn?
Chuột và... các nhà khoa học
Chính sách y tế cần dựa vào bằng chứng khoa học
Chạy đua vũ khí và … dịch cúm
Chất béo, cholesterol, bệnh tim và statins: xét lại bằng chứng
Chất keo xã hội: hormones
Chất lượng nghiên cứu dịch tễ học và y tế cộng đồng của Việt Nam qua chỉ số H
Chất lượng nghiên cứu khoa học ở Việt Nam qua chỉ số trích dẫn
Chất vấn chuẩn chẩn đoán béo phì
Chế độ ăn uống với nhiều thịt động vật và nguy cơ tử vong
Chủng vi khuẩn tả hiện nay ở nước ta có phải mới xuất hiện?
Cuộc chiến hóa học phi pháp lớn nhất trong lịch sử chiến tranh
Câu chuyện y học: Leptin và béo phì
Có bao nhiêu bác sĩ viết chữ khó đọc
Có nên tập trung vào vi khuẩn E. coli ?
Có thể xảy ra đại dịch cúm gia cầm?
Công cụ đơn giản để chẩn đoán tiểu đường ở người Đông Nam Á
Cúm gia cầm và nhiễu thông tin
Cúm H1N1: biết và chưa biết
Cơ hội để khép lại một chương lịch sử đau lòng
Cần hiểu đúng về Ung thư và nguy cơ ung thư
Cần qui ước đạo đức cho kĩ nghệ thực phẩm
Cần tiêm chủng ngừa bệnh tả vùng có nguy cơ cao
Cần điều tra về chất lượng bệnh viện
Cổ phần hóa bệnh viện công và chất lượng
Cổ phần hóa: chưa phải cách duy nhất
DDT và vấn đề cân đối giữa lợi ích và nguy hiểm
Dinh dưỡng: một nguồn thuốc quí giá
DNA không nói dối, nhưng DNA có thể nói … sai
Dịch cúm gà: hoang mang và sự thật khoa học
Dịch cúm heo và tác hại kinh tế
Dịch tay-chân-miệng
Dịch tả: gọi đúng tên để phòng ngừa
Dựa vào khoa học, đừng dựa vào niềm tin!
E. coli – vài câu hỏi thông thường
Gen và bệnh tật
Ghen tuông dưới cái nhìn của tâm lí y khoa
Gian lận trong nghiên cứu khoa học: áp lực kinh tế và cơ chế bình duyệt
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC: KHƠI DẬY VÀ NUÔI DƯỠNG TÍNH HAM HỌC
Giải nobel y học hay sinh lí học 2007 và lợi ích cho người bệnh
Giải Nobel Y sinh học 2008 và những tranh chấp khoa học
Giải Nobel y sinh học 2010 vinh danh người đem niềm vui cho người vô sinh
Giải Nobel y sinh học năm 2005: Một cõi đi về với vi khuẩn
Giải Nobel y sinh học: Nhìn lại quãng đường 100 năm
Giải phẫu ghép mặt và vấn đề y đức
Gout ở xương sống
Gãy xương và tử vong: một vấn nạn y tế cộng đồng
Hiệu quả vắcxin có nghĩa gì?
Hoa vàng mấy độc
Hàm lượng đạm trong sữa “siêu thấp” hay “siêu cao”?
Hóa chất khai hoang trong cuộc chiến Viện Nam: Qui mô và tầm ảnh hưởng
Hướng đi nào để giải quyết vấn đề chất độc da cam ở Việt Nam
Hậu “mắm tôm được minh oan”: bằng chứng khoa học, nhà xí và nghiên cứu
Hệ Thống Học Vị Và Học Hàm Khoa Học Ở Vài Nước Tây Phương
Hợp tác khoa học kiểu nhảy dù - Nguyễn Văn Tuấn
Khi bác sĩ trẻ “khoe” quá nhiều
Khoa học và ngụy khoa học: một vài đặc điểm và khác biệt cần biết
Khoa học, xã hội, và rủi ro
Không thể thành Phù Đổng trong 20 năm!
Khẩu trang và phòng chống cúm A/H1N1
Kiểm định giả thuyết mắm tôm và vi khuẩn tả
Liều lượng melamine bao nhiêu là an toàn?
Lí lịch sinh học của heo và dấu vết văn minh nông nghiệp Đông Nam Á
Lượng giá mạng sống con người
Lợi ích của vitamin D
Miệng nhà quan
Mắm tôm có phải là “thủ phạm” gây bệnh tả? Xét lại bằng chứng khoa học
Mắm tôm và chuyện xin lỗi
Mắm tôm và dịch tả: phân biệt yếu tố nguy cơ và nguyên nhân
Mắm tôm vô tội!
Mắm tôm, nguyên nhân và hệ quả
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Một bệnh hiếm X-linked recessive hypoparathyroidism
Một lần đi phỏng vấn
Một năm nhìn lại
Một phán quyết thiếu cơ sở khoa học
Một vài hiểu lầm tai hại
Một vài ngộ nhận về nghiên cứu khoa học
Một vài vấn đề về qui định chức danh giáo sư ở Việt Nam
Một vụ Madoff trong y khoa: Lại một ngôi sao y khoa rơi rụng!
Mỡ trắng, mỡ nâu
Mỡ  trong máu, huyết áp, và  tiểu đường
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nguyên nhân bệnh tiêu chảy
Ngó trên tay điếu thuốc đã lụi dần
Người cao tuổi và sự hạn chế của y khoa
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Nhân chuyện dịch tả nhớ lại John Snow
Nhân câu chuyện điện não đồ xét nghiệm nghiện ma túy:
Nhân năm khỉ_nguồn gốc con người hiện đại
Nhân năm Tý bàn chuyện thí nghiệm trên chuột
Nhìn lại khoa học Việt Nam năm 2008 qua công bố quốc tế
Nhầm lẫn trong y khoa: Khá phổ biến, nhưng ít ai biết!
Những câu hỏi và trả lời về dịch gia cầm
Những sai sót khó tin nhưng có thật
Những sai sót nguy hiểm trong toa thuốc
Những điều khó tin về “Bảy điều khó tin nhất trong y học”
Năm lí do cho mắm tôm “vô tội”
Phán quyết sau cùng: Chất béo không ảnh hưởng đến ung thư và bệnh tim
Phát hiện gien kiểm soát ráy tai: vài bài học về mò kim đáy biển
Phòng chống bệnh phải dựa vào bằng chứng khoa học!
Phòng chống H1N1 bằng rửa tay và khẩu trang: Biện pháp nào hiệu quả hơn?
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao và cân nặng: thiếu cơ sở khoa học và kì thị giới tính
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao: vấn đề giả định và bằng chứng khoa học
Quyền phê phán và trí thức
Quyền được tiếp cận hồ sơ bệnh án
Quản lý chất lượng: Thuốc phòng "tai nạn y khoa"
Rửa tay bằng xà phòng và tiêu chảy
Serotonin có liên quan đến chứng đột tử
Suy dinh dưỡng ở trẻ em: vấn đề của kinh tế
Sàng lọc trẻ sơ sinh trên phạm vi toàn quốc
Tai nạn y khoa trong bệnh viện
Thế nào là một "bài báo khoa học"
Thế nào là “Cơ sở khoa học” ?
Thịt chó là nguyên nhân của bệnh tiêu chảy cấp tính?
Thịt chó và bệnh tả: nguyên nhân và yếu tố nguy cơ
Tiên lượng bệnh Alzheimer bằng protein expression ?
Tiêu chuẩn chất lượng giáo dục đại học
Tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì cho người Việt - Nguyễn Văn Tuấn
Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh đái tháo đường (diabetes mellitus)
Tiêu chuẩn đề bạt giáo sư: Có nên căn cứ vào số lượng bài báo ?
Tiêu chảy cấp tính và bệnh tả: Định danh cho đúng
Truy tìm ung thư bằng mammography từ tuổi 50
Truyền thông và khoa học: Qui ước Ingelfinger
Truyền thông và y tế
Truyền thông, khoa học và … doanh nghiệp
Trà xanh và sức khỏe
Trách nhiệm và nhân đạo trong vấn đề chất độc da cam
Trái chanh và phòng chống bệnh tả
Trả lời những câu hỏi liên quan đến loãng xương
Trọng lượng cơ thể và tử vong ở người Trung Quốc: Ý nghĩa về việc xác định tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì
Tuổi thọ của người dân giảm 10 năm ?
Tác dụng Placebo trong y học: Tâm lí và ý nghĩa
Tình yêu, sắc đẹp nhìn dưới quan điểm di truyền học
Tín hiệu môi trường từ những “làng ung thư”
Tính khoa học và minh bạch đằng sau xét nghiệm doping
Tại sao không phát biểu về nguyên nhân và hệ quả ?
Tại sao uống rượu gây đỏ mặt và nguy cơ ung thư thực quản
Tạo sinh vô tính và cái chết của Thượng đế
Tạo sinh vô tính và vấn đề sinh đạo đức
Tản mạn về SARS
Tỉ lệ tử vong do cúm heo là bao nhiêu ?
Tự trị, chất lượng và y đức thay vì cổ phần hóa bệnh viện công
Ung thư vú và vấn đề thông tin y khoa
Uống bia hấp dẫn muỗi
Vaccine phòng chống AIDS hiệu quả đến đâu ?
Vaccine phòng chống cúm A/H1N1
Vi khuẩn gây tiêu chảy và ý nghĩa tiêm chủng
Vi khuẩn tả trong chó ?
Viết văn có thể chữa nhiều loại bệnh
Viết văn và trị liệu
Việc ta, ta cứ làm!
Vài nhận xét về 12 điều lệ y đức của Việt Nam
Vài thông tin cần biết về các chương trình truy tìm ung thư vú
Vài đóng góp quan trọng của người Việt khoa học thống kê
Văn hóa khoa học
Văn hóa tranh luận và vấn đề ngụy biện
Vấn đề sinh tố: kẽm và đồng
Vấn đề truy tìm ung thư phổi và hiệu quả 
Vấn đề y đức trong nghiên cứu tế bào mầm (stem cells)
Vấn đề đo lường melamine
Vấn đề đào tạo tiến sĩ: kinh nghiệm từ Australia
Vắc-xin phòng chống ung thư cổ tử cung
Vắcxin ngừa viêm gan B: cẩn thận với “nhiễu thông tin”
Vắcxin ngừa viêm gan B: kinh nghiệm từ nước ngoài
Vắcxin phòng bệnh sởi - quai bị - Rubella: lợi và hại
Vắcxin phòng chống ung thư cổ tử cung: hiệu quả lâm sàng và kinh tế
Vắcxin phòng ngừa bệnh tả: rất cần thiết
Về chấn chỉnh đào tạo tiến sĩ: Công bố bài báo khoa học là một thách thức lớn ?
Về học vị tiến sĩ
Về một sự hiểu lầm thuật ngữ "prospective"
Về phản ứng phụ của bisphosphonates liên quan đến hoại tử xương hàm và rung nhĩ
Vệ sinh như là một loại hàng hóa
Vị thế của nền khoa học Việt Nam
Xung quang xì căng đan về nghiên cứu tế bào mầm
Xã hội hóa và an toàn thực phẩm
Xếp hạng đại học: cần minh bạch hóa phương pháp
Y học hiện đại và những hứa hẹn
Y học thực chứng: vài nét khái quát
Y Khoa và những nhầm lẫn chết người
Y tế dự phòng: nền tảng của y khoa hiện đại
Y đức và nghiên cứu y học
Ói mửa, cao huyết áp và hôn mê
Ăn chay như là một trị liệu
Ăn chay và loãng xương
Điều trị bệnh dựa vào màu da ?
Điều trị đau dây thần kinh tọa bằng phẫu thuật: không có hiệu quả
Đo lường hiệu suất khoa học
Đánh giá đúng tầm quan trọng của ung thư vú 
Đại dịch H1N1
Đại dịch và đại dịch ảo
Đại dịch đã đến ?
Đạo văn trong hoạt động khoa học
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đằng sau những con số hàm lượng đạm trong sữa
Đế quốc Trà
Đề bạt các chức danh khoa bảng: vài kinh nghiệm từ Úc
Đọc lại 12 điều y đức của Việt Nam
Đồi điều về sữa nhiễm melamine
Đừng quên melamine trong các thực phẩm khác!
Ước vọng 200 ?
“Kỹ năng mềm” cho nhà khoa học
“Sẽ” và “có thể”


Trang nhiều tác giả
Trang riêng của Lê Ngọc Dũng
Trang riêng của Lương Lễ Hoàng
Trang riêng của Nguyễn Bảo Trung
Trang riêng của Nguyễn Hoài Nam
Trang riêng của Nguyễn Hữu Đức
Trang riêng của Nguyễn Văn Tuấn
Trang riêng của Nguyễn Ý Đức
Trang riêng của Nguyễn Đình Nguyên
Trang riêng của Phan Xuân Trung
Trang riêng của Đỗ Hồng Ngọc
Trang riêng của Đỗ Minh Tuấn