NGUYỄN VĂN TUẤN

Vắcxin ngừa viêm gan B: kinh nghiệm từ nước ngoài

Nguyễn Văn Tuấn

            Trong một tháng qua đã có 4 trường hợp trẻ em mới sinh bị tử vong sau khi tiêm vắcxin ngừa viêm gan B.  Có lẽ đây là sự cố nghiêm trọng nhất trong hơn 20 năm triển khai chương trình phòng chống viêm gan B ở nước ta.  Đứng trên phương diện y tế công cộng chương trình tiêm vắcxin ngừa viêm gan B có thể cứu sống rất nhiều người.  Tuy nhiên, trước những sự cố nghiêm trọng trên, có lẽ cần phải rà soát lại phác đồ tiêm ngừa và kiểm định chất lượng của vắcxin để tránh tai nạn đáng tiếc.  Bài viết này trình bày một vài kinh nghiệm từ nước ngoài về chương trình tiêm vắcxin ngừa viêm gan B và hi vọng sẽ cung cấp cho đồng nghiệp trong nước vài thông tin có ích.

Viêm gan B là một bệnh nguy hiểm, là nguyên nhân dẫn đến các bệnh mãn tính như xơ gan, ung thư gan và tử vong.  Tuy ung thư gan thường thấy ở bệnh nhân 40 tuổi trở lên, nhưng ở những vùng có tỉ lệ viêm gan cao như Đông Nam Á, ung thư gan cũng được phát hiện khá nhiều ở trẻ em vị thành niên.  Nghiên cứu ở Đài Loan cho thấy gần 100% trẻ em ung thư gan là do viêm gan B [1].

Theo ước tính của Tổ chức y tế thế giới, có khoảng 350 triệu người (tức 5% dân số thế giới) bị nhiễm viêm gan B.  Khoảng 25% những bệnh nhân này sẽ bị một số bệnh nguy hiểm như xơ gan và ung thư gan [2] là nguyên nhân của hơn 1 triệu tử vong hàng năm trên thế giới [3].

Ở nước ta, theo một nghiên cứu gần đây, khoảng 13% trẻ em mới sinh (9 đến 18 tháng) và 18% trẻ em tuổi từ 4 đến 16 bị nhiễm viêm gan B [4].  Ngay cả ở độ tuổi vị thành niên và trưởng thành (trên 25 tuổi), tỉ lệ viêm gan B cũng khoảng 20%.  Các tỉ lệ này khá cao so với các nước đã phát triển, nhưng tương đương với tỉ lệ ở các nước Đông Nam Á và Nam Mĩ. 

Viêm gan B có thể phòng ngừa bằng cách tiêm chủng vắcxin.  Bởi vì phần lớn trẻ em bị nhiễm thường có mẹ với viêm gan B, cho nên một trong những biện pháp phòng ngừa viêm gan hữu hiệu nhất là tiêm vắcxin cho trẻ em mới sinh.  Chương trình y tế này được Tổ chức y tế thế giới khuyến khích trong nhiều năm qua, và đã triển khai thành công ở 150 nước trên thế giới, kể cả nước ta.  Ngay cả ở Mĩ, năm 1991 chính phủ phát động chương trình tiêm ngừa viêm gan B cho trẻ em sơ sinh trên toàn quốc. 

Kinh nghiệm ở nước ngoài

            Điểm qua y văn trên thế giới, có thể nói rằng vắcxin ngừa viêm gan B rất an toàn, và đã đem lại lợi ích sức khỏe cho nhiều triệu người trên thế giới.  Tính từ năm 1982 cho đến nay, đã có hơn 2 tỉ liều lượng vắcxin ngừa viêm gan B sử dụng trên toàn cầu.  Nhiều nghiên cứu cho thấy hiệu quả của vắcxin lên đến 95% và đã góp phần lớn vào việc phòng chống viêm gan B trên bình diện thế giới.  Ở Đài Loan, chương trình tiêm vắcxin ngừa viêm gan B được triển khai toàn quốc từ năm 1984 và được xem là một trong những nước thành công nhất trong việc ngăn ngừa bệnh này.  Theo nghiên cứu của Đài Loan, chỉ trong vòng 10 năm sau khi triển khai chương trình tiêm chủng, tỉ lệ trẻ em mới sinh với viêm gan B giảm từ 10% xuống còn 1%.  Trong cùng thời gian, tỉ lệ ung thư gan ở trẻ em giảm gần 50% [5,6].

            Tuy nhiên, bất cứ chương trình y tế nào, dù có an toàn cỡ nào đi nữa, khi áp dụng cho một quần thể lớn, đều có thể gây ra một số tai nạn và sự cố ngoài dự đoán.  Đã có báo khoa học cho thấy các bệnh sau đây được ghi nhận sau khi tiêm vắcxin ngừa viêm gan B: viêm khớp xương, vẩy nến (psoriasis), suy giảm thị lực, suy cơ bắp hay liệt, triệu chứng cảm lạnh, rối loạn gan, viêm dây thần kinh (neuritis), rối loạn thận, viêm ngoại tâm mạc cấp tính (acute pericarditis), rối loạn hệ thống hô hấp, hội chứng Guillain-Barré [7].  Gần đây, có nghiên cứu cho rằng tiêm vắcxin ngừa viêm gan B có thể liên quan đến bệnh đa xơ cứng dây thần kinh (multiple sclerosis) [8], và trước thông tin này, bộ trưởng y tế Pháp quyết định ngưng chương trình tiêm ngừa cho trẻ em tuổi từ 11-12, nhưng cho phép tiếp tục tiêm ngừa trẻ sem sơ sinh có nguy cơ bị nhiễm cao (như có mẹ bị nhiễm viêm gan B).  Một số nhóm trên thế giới chống chương trình tiêm vắcxin cũng có nhiều phát biểu và đề nghị ngưng chương trình này [9].  Trước những dữ liệu trên, Viện Y khoa Mĩ thành lập một ủy ban chuyên môn để điều tra và nghiên cứu về hiệu quả và tác hại của tiêm vắcxin ngừa viêm gan B.  Sau nhiều tháng nghiên cứu và điểm qua y văn, họ đi đến kết luận rằng không có mối liên hệ nào giữa vắcxin ngừa viêm gan và các bệnh trên.

Ở Mĩ, song song với việc triển khai chương trình tiêm vắcxin, họ còn thiết lập một hệ thống báo động để ghi nhận tất cả các báo cáo liên quan đến phản ứng hay sự cố liên quan đến tiêm vắcxin ngừa viêm gan B.  Phân tích số liệu từ hệ thống dữ liệu này cho thấy tính từ 1991 đến 1998, có 18 trẻ em tuổi từ 0 đến 28 ngày tử vong sau khi tiêm vắcxin ngừa viêm gan B.  Phân tích chi tiết nguyên nhân tử vong cho thấy có 12 trường hợp chết do đột tử (sudden infant death syndrome hay SIDS), 3 trường hợp do nhiễm trùng, 1 trường hợp do xuất huyết não, và 1 trường hợp không rõ nguyên nhân [10]. 

Ở nước ta, chỉ trong vòng 4 tuần qua, đã có 4 trẻ em thiệt mạng sau khi tiêm vắcxin ngừa viêm gan B.  Dù đó là những sự cố nghiêm trọng, nhưng không nên phản ứng theo cảm tính mà ngưng chương trình tiêm ngừa.  Hiện nay, chưa có bằng chứng nào trên thế giới để kết luận rằng tiêm vắcxin ngừa viêm gan B trực tiếp gây tác hại đến sức khỏe trẻ em.

Lợi nhiều hơn hại

            Đứng trên phương diện y tế công cộng, chương trình tiêm vắcxin phòng ngừa viêm gan B vẫn đem lại lợi ích nhiều hơn là tác hại.  Nếu số trẻ em mới sinh hàng năm ở nước ta là 1,5 triệu, có thể ước tính rằng số trẻ em mới sinh nhiễm viêm gan B là khoảng 202.000 (tức khoảng 13%).  Nếu không tiêm vắcxin, số trẻ em này sẽ mắc bệnh khi trường thành, và khoảng 15% đến 25% sẽ bị chết vì các bệnh mãn tính liên quan đến gan và ung thư gan [11].  Nhưng tiêm vắcxin lúc mới sinh có thể xóa bỏ khoảng 90% đến 95% các trường hợp viêm gan B [12], và có thể cứu sống cho hơn 38.000 người. 

            Tuy nhiên, các trường hợp tử vong mà báo chí phản ảnh trong thời gian gần đây rất đáng quan tâm, vì thời gian xảy ra gần như liên tục.  Dù các sự cố này rất nghiêm trọng, nhưng với tần số quá thấp, chưa thể kết luận rằng các trường hợp này do vắcxin gây ra hay không.  Những phản ảnh gần đây về những bất cập trong hệ thống kiểm nghiệm và chất lượng vắcxin rất đáng quan tâm và cần điều tra nghiêm chỉnh.

Ngoài ra, cần rà soát lại phác đồ tiêm ngừa và qui trình thực hiện phác đồ, cũng như phân tích kĩ nguyên nhân tử vong để ngăn ngừa một trường hợp thương tâm tương tự trong tương lai.  Chẳng hạn như theo phác đồ phòng ngừa ở nước ngoài, không nên tiêm vắcxin ngừa viêm gan B cho trẻ em mới sinh dưới 2 kg ngay sau khi sinh, mà có thể chờ đến 2 tháng tuổi hay đến khi trẻ em câng nặng trên 2 kg [13]. 

            Ở Mĩ, theo phác đồ tiêm ngừa của do Trung tâm kiểm soát và phòng chống bệnh (Centers for Disease Control and Prevention), mỗi trẻ em nên được tiêm 3 liều vắcxin, theo biểu đồ dưới đây.  Tuy nhiên, trẻ em tuổi từ 11 đến 15 có thể chỉ cần 2 liều vắcxin, cách khoảng từ 4 đến 6 tháng.

Đối tượng

Thời gian tiêm

Lần đầu

Lần hai

Lần ba

 

Trẻ em mà mẹ bị nhiễm viêm gan B

 

Trong vòng 12 giờ sau khi sinh

 

 

1 đến 2 tháng tuổi

 

 

6 tháng tuổi

 

Trẻ em mà mẹ không bị nhiễm viêm gan B

 

 

Từ lúc mới sinh đến 2 tháng tuổi

 

1 đến 4 tháng tuổi (ít nhất là 1 tháng sau lần tiêm thứ nhất)

 

6 đến 18 tháng tuổi

 

Trẻ em vị thành niên hay người lớn

 

Bất cứ lúc nào

 

1 đến 2 tnáng sau lần tiêm đầu tiên

 

4 đến 6 tháng sau lần tiêm đầu tiên

Nguồn: Tài liệu trích từ “Hepatitis B 7/1//2001” của Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Bệnh (CDC), Mĩ. Website: www.cdc.gov/hepatitis.

Phác đồ này cũng khuyến cáo không nên tiêm vắcxin cho những trẻ em hay bất cứ ai bị dị ứng có thể đe dọa đến tính mạng, kể cả dị ứng với men làm bánh mì, dị ứng vắcxin, mắc bệnh có ảnh hưởng đế hệ thống miễn dịch.

Kinh nghiệm ở Đài Loan (nơi được xem là chương trình vắcxin thành công ngoạn mục) cho thấy các yếu tố dẫn đến thành công của chương trình phòng ngừa viêm gan B là:

  • sự quyết tâm của chính phủ, mà cụ thể là Bộ y tế và Bộ thông tin, cùng với các trường đại học và bệnh viện công cũng như tư trong công tác tuyên truyền và phòng chống viêm gan;
  • chương trình tiêm chủng được thiết kế cẩn thận và triển khai từng bước một, với các chương trình giáo dục được tiến hành đầu tiên và huấn luyện nhân viên y tế theo sau;
  • trong khi triển khai, các chương trình nghiên cứu và đánh giá hiệu quả của vắcxin cũng được tiến hành.

Không thể quản lí vấn đề nếu không đo lường được vấn đề.  Chúng ta cần có những nghiên cứu nghiêm chỉnh để đánh giá hiệu quả và những sự cố có liên quan trực tiếp hay gián tiếp với chương trình tiêm vắcxin ngừa viêm gan B.  Hi vọng rằng các thông tin và kinh nghiệm từ nước ngoài mà tôi vừa trình bày trên có thể giúp cho các đồng nghiệp trong nước đi đến một định hướng thích hợp trong tương lai.

Chú thích và tài liệu tham khảo:

[1]  Chang MH, et al. Maternal transmission of heptatitis B virus in childhood hepatocellular carcinoma. Cancer 1989; 64:2377-80.

[2]  Van Damme P, et al. Integration of hepatitis B vaccination into national immunisation programmes BMJ 1997;314:1033.

[3]  WHO. Hepatitis B. Geneva: WHO, 2002 www.who.int/emc-documents/hepatitis/docs/whocdscsrlyo20022.pdf .

1 [4]  Hipgrave DB, et al. Hepatitis B infection in rural Vietnam and the implications for a national program of infant immunization.  Am J Trop Med Hyg 2003; 69:288-94.

[5]  Chang MH, et al. Universal hepatitis B vaccination in Taiwan and the incidence of hepatocellular carcinoma in children. N Engl J Med 1997; 336:1855-9.

[6]  Chang MH, et al. Hepatitis B vaccination and hepatocellular carcinoma rates in boys and girls. JAMA 2000; 284:3040-2.

[7]  Institute of Medicine.  Hepitatis B vaccine: in: Stratton KR, Howe CJ, Johnston RB.  Adverse events associated with childhood vaccines: evidence bearing on causality.  Washington DC: National Academy Press 1994:211-25.

[8]  Hernan MA, et al.  Recombinant heptatitis B vaccine and the risk of multiple sclerosis: a prospective study. Neurology 2004;63:838-42.

[9]  Cantekin EI, Melkin M. Hepatitis B vaccination for newborns.  JAMA 1/8/2001.

[10]  Niu MT, et al. Neonatal deaths after hepatitis B vaccine.  Arch Pediatr Adolesc Med 1999; 153:1279-82.

[11]  Margolis HS, et al.  Prevention of hepatitis B virus transmission by immunization. An economic analysis of current recommendations. JAMA 1995;274:1201-8.

[12]  Shepard CW, et al. Hepatitis B virus infection: epidemiology and vaccination.  Epidemiol Review 2006;28:112-25.

[13]  Losonsky GA, et al. Hepatitis B vaccination of premature infants: a reassessment of current recommendations for delays immunization. Pediatrics 1999;103:e14.

 


200 năm Darwin
Agent Orange: collateral damage
Alexandre Yersin và Việt Nam
Bàn về hiệu quả vắcxin: lâm sàng và kinh tế
Bàn về vấn đề dịch thuật và đánh giá năng suất khoa học
Béo phì ở người Á châu
Béo phì ở trẻ em và virus
Bình luận từ Dr. Yến
Bưởi không gây ung thư vú
Bảo hiểm y tế cộng đồng
Bảo tồn môi sinh: Chiến tranh giữa hai thế giới
Bằng chứng khoa học thay vì lên lớp
Bệnh tả: không để Việt Nam thành Bangladesh thứ hai
Bệnh tật nhìn từ quan điểm của thuyết tiến hóa
Bệnh xơ hóa cơ delta qua y văn thế giới
Bổ sung kẽm và điều trị bệnh tả
Bộ gen trong cây lúa và triển vọng
Bộ Y tế phản ứng chậm với rét đậm
Chiều cao của người Việt
Chiều cao và tổng thống Mĩ
Cholesterol và bệnh Tim
Cholesterol: hung thần hay bạn?
Chuột và... các nhà khoa học
Chính sách y tế cần dựa vào bằng chứng khoa học
Chạy đua vũ khí và … dịch cúm
Chất béo, cholesterol, bệnh tim và statins: xét lại bằng chứng
Chất keo xã hội: hormones
Chất lượng nghiên cứu dịch tễ học và y tế cộng đồng của Việt Nam qua chỉ số H
Chất lượng nghiên cứu khoa học ở Việt Nam qua chỉ số trích dẫn
Chất vấn chuẩn chẩn đoán béo phì
Chế độ ăn uống với nhiều thịt động vật và nguy cơ tử vong
Chủng vi khuẩn tả hiện nay ở nước ta có phải mới xuất hiện?
Cuộc chiến hóa học phi pháp lớn nhất trong lịch sử chiến tranh
Câu chuyện y học: Leptin và béo phì
Có bao nhiêu bác sĩ viết chữ khó đọc
Có nên tập trung vào vi khuẩn E. coli ?
Có thể xảy ra đại dịch cúm gia cầm?
Công cụ đơn giản để chẩn đoán tiểu đường ở người Đông Nam Á
Cúm gia cầm và nhiễu thông tin
Cúm H1N1: biết và chưa biết
Cơ hội để khép lại một chương lịch sử đau lòng
Cần hiểu đúng về Ung thư và nguy cơ ung thư
Cần qui ước đạo đức cho kĩ nghệ thực phẩm
Cần tiêm chủng ngừa bệnh tả vùng có nguy cơ cao
Cần điều tra về chất lượng bệnh viện
Cổ phần hóa bệnh viện công và chất lượng
Cổ phần hóa: chưa phải cách duy nhất
DDT và vấn đề cân đối giữa lợi ích và nguy hiểm
Dinh dưỡng: một nguồn thuốc quí giá
DNA không nói dối, nhưng DNA có thể nói … sai
Dịch cúm gà: hoang mang và sự thật khoa học
Dịch cúm heo và tác hại kinh tế
Dịch tay-chân-miệng
Dịch tả: gọi đúng tên để phòng ngừa
Dựa vào khoa học, đừng dựa vào niềm tin!
E. coli – vài câu hỏi thông thường
Gen và bệnh tật
Ghen tuông dưới cái nhìn của tâm lí y khoa
Gian lận trong nghiên cứu khoa học: áp lực kinh tế và cơ chế bình duyệt
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC: KHƠI DẬY VÀ NUÔI DƯỠNG TÍNH HAM HỌC
Giải nobel y học hay sinh lí học 2007 và lợi ích cho người bệnh
Giải Nobel Y sinh học 2008 và những tranh chấp khoa học
Giải Nobel y sinh học 2010 vinh danh người đem niềm vui cho người vô sinh
Giải Nobel y sinh học năm 2005: Một cõi đi về với vi khuẩn
Giải Nobel y sinh học: Nhìn lại quãng đường 100 năm
Giải phẫu ghép mặt và vấn đề y đức
Gout ở xương sống
Gãy xương và tử vong: một vấn nạn y tế cộng đồng
Hiệu quả vắcxin có nghĩa gì?
Hoa vàng mấy độc
Hàm lượng đạm trong sữa “siêu thấp” hay “siêu cao”?
Hóa chất khai hoang trong cuộc chiến Viện Nam: Qui mô và tầm ảnh hưởng
Hướng đi nào để giải quyết vấn đề chất độc da cam ở Việt Nam
Hậu “mắm tôm được minh oan”: bằng chứng khoa học, nhà xí và nghiên cứu
Hệ Thống Học Vị Và Học Hàm Khoa Học Ở Vài Nước Tây Phương
Hợp tác khoa học kiểu nhảy dù - Nguyễn Văn Tuấn
Khi bác sĩ trẻ “khoe” quá nhiều
Khoa học và ngụy khoa học: một vài đặc điểm và khác biệt cần biết
Khoa học, xã hội, và rủi ro
Không thể thành Phù Đổng trong 20 năm!
Khẩu trang và phòng chống cúm A/H1N1
Kiểm định giả thuyết mắm tôm và vi khuẩn tả
Liều lượng melamine bao nhiêu là an toàn?
Lí lịch sinh học của heo và dấu vết văn minh nông nghiệp Đông Nam Á
Lượng giá mạng sống con người
Lợi ích của vitamin D
Miệng nhà quan
Mắm tôm có phải là “thủ phạm” gây bệnh tả? Xét lại bằng chứng khoa học
Mắm tôm và chuyện xin lỗi
Mắm tôm và dịch tả: phân biệt yếu tố nguy cơ và nguyên nhân
Mắm tôm vô tội!
Mắm tôm, nguyên nhân và hệ quả
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Một bệnh hiếm X-linked recessive hypoparathyroidism
Một lần đi phỏng vấn
Một năm nhìn lại
Một phán quyết thiếu cơ sở khoa học
Một vài hiểu lầm tai hại
Một vài ngộ nhận về nghiên cứu khoa học
Một vài vấn đề về qui định chức danh giáo sư ở Việt Nam
Một vụ Madoff trong y khoa: Lại một ngôi sao y khoa rơi rụng!
Mỡ trắng, mỡ nâu
Mỡ  trong máu, huyết áp, và  tiểu đường
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nguyên nhân bệnh tiêu chảy
Ngó trên tay điếu thuốc đã lụi dần
Người cao tuổi và sự hạn chế của y khoa
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Nhân chuyện dịch tả nhớ lại John Snow
Nhân câu chuyện điện não đồ xét nghiệm nghiện ma túy:
Nhân năm khỉ_nguồn gốc con người hiện đại
Nhân năm Tý bàn chuyện thí nghiệm trên chuột
Nhìn lại khoa học Việt Nam năm 2008 qua công bố quốc tế
Nhầm lẫn trong y khoa: Khá phổ biến, nhưng ít ai biết!
Những câu hỏi và trả lời về dịch gia cầm
Những sai sót khó tin nhưng có thật
Những sai sót nguy hiểm trong toa thuốc
Những điều khó tin về “Bảy điều khó tin nhất trong y học”
Năm lí do cho mắm tôm “vô tội”
Phán quyết sau cùng: Chất béo không ảnh hưởng đến ung thư và bệnh tim
Phát hiện gien kiểm soát ráy tai: vài bài học về mò kim đáy biển
Phòng chống bệnh phải dựa vào bằng chứng khoa học!
Phòng chống H1N1 bằng rửa tay và khẩu trang: Biện pháp nào hiệu quả hơn?
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao và cân nặng: thiếu cơ sở khoa học và kì thị giới tính
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao: vấn đề giả định và bằng chứng khoa học
Quyền phê phán và trí thức
Quyền được tiếp cận hồ sơ bệnh án
Quản lý chất lượng: Thuốc phòng "tai nạn y khoa"
Rửa tay bằng xà phòng và tiêu chảy
Serotonin có liên quan đến chứng đột tử
Suy dinh dưỡng ở trẻ em: vấn đề của kinh tế
Sàng lọc trẻ sơ sinh trên phạm vi toàn quốc
Tai nạn y khoa trong bệnh viện
Thế nào là một "bài báo khoa học"
Thế nào là “Cơ sở khoa học” ?
Thịt chó là nguyên nhân của bệnh tiêu chảy cấp tính?
Thịt chó và bệnh tả: nguyên nhân và yếu tố nguy cơ
Tiên lượng bệnh Alzheimer bằng protein expression ?
Tiêu chuẩn chất lượng giáo dục đại học
Tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì cho người Việt - Nguyễn Văn Tuấn
Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh đái tháo đường (diabetes mellitus)
Tiêu chuẩn đề bạt giáo sư: Có nên căn cứ vào số lượng bài báo ?
Tiêu chảy cấp tính và bệnh tả: Định danh cho đúng
Truy tìm ung thư bằng mammography từ tuổi 50
Truyền thông và khoa học: Qui ước Ingelfinger
Truyền thông và y tế
Truyền thông, khoa học và … doanh nghiệp
Trà xanh và sức khỏe
Trách nhiệm và nhân đạo trong vấn đề chất độc da cam
Trái chanh và phòng chống bệnh tả
Trả lời những câu hỏi liên quan đến loãng xương
Trọng lượng cơ thể và tử vong ở người Trung Quốc: Ý nghĩa về việc xác định tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì
Tuổi thọ của người dân giảm 10 năm ?
Tác dụng Placebo trong y học: Tâm lí và ý nghĩa
Tình yêu, sắc đẹp nhìn dưới quan điểm di truyền học
Tín hiệu môi trường từ những “làng ung thư”
Tính khoa học và minh bạch đằng sau xét nghiệm doping
Tại sao không phát biểu về nguyên nhân và hệ quả ?
Tại sao uống rượu gây đỏ mặt và nguy cơ ung thư thực quản
Tạo sinh vô tính và cái chết của Thượng đế
Tạo sinh vô tính và vấn đề sinh đạo đức
Tản mạn về SARS
Tỉ lệ tử vong do cúm heo là bao nhiêu ?
Tự trị, chất lượng và y đức thay vì cổ phần hóa bệnh viện công
Ung thư vú và vấn đề thông tin y khoa
Uống bia hấp dẫn muỗi
Vaccine phòng chống AIDS hiệu quả đến đâu ?
Vaccine phòng chống cúm A/H1N1
Vi khuẩn gây tiêu chảy và ý nghĩa tiêm chủng
Vi khuẩn tả trong chó ?
Viết văn có thể chữa nhiều loại bệnh
Viết văn và trị liệu
Việc ta, ta cứ làm!
Vài nhận xét về 12 điều lệ y đức của Việt Nam
Vài thông tin cần biết về các chương trình truy tìm ung thư vú
Vài đóng góp quan trọng của người Việt khoa học thống kê
Văn hóa khoa học
Văn hóa tranh luận và vấn đề ngụy biện
Vấn đề sinh tố: kẽm và đồng
Vấn đề truy tìm ung thư phổi và hiệu quả 
Vấn đề y đức trong nghiên cứu tế bào mầm (stem cells)
Vấn đề đo lường melamine
Vấn đề đào tạo tiến sĩ: kinh nghiệm từ Australia
Vắc-xin phòng chống ung thư cổ tử cung
Vắcxin ngừa viêm gan B: cẩn thận với “nhiễu thông tin”
Vắcxin ngừa viêm gan B: kinh nghiệm từ nước ngoài
Vắcxin phòng bệnh sởi - quai bị - Rubella: lợi và hại
Vắcxin phòng chống ung thư cổ tử cung: hiệu quả lâm sàng và kinh tế
Vắcxin phòng ngừa bệnh tả: rất cần thiết
Về chấn chỉnh đào tạo tiến sĩ: Công bố bài báo khoa học là một thách thức lớn ?
Về học vị tiến sĩ
Về một sự hiểu lầm thuật ngữ "prospective"
Về phản ứng phụ của bisphosphonates liên quan đến hoại tử xương hàm và rung nhĩ
Vệ sinh như là một loại hàng hóa
Vị thế của nền khoa học Việt Nam
Xung quang xì căng đan về nghiên cứu tế bào mầm
Xã hội hóa và an toàn thực phẩm
Xếp hạng đại học: cần minh bạch hóa phương pháp
Y học hiện đại và những hứa hẹn
Y học thực chứng: vài nét khái quát
Y Khoa và những nhầm lẫn chết người
Y tế dự phòng: nền tảng của y khoa hiện đại
Y đức và nghiên cứu y học
Ói mửa, cao huyết áp và hôn mê
Ăn chay như là một trị liệu
Ăn chay và loãng xương
Điều trị bệnh dựa vào màu da ?
Điều trị đau dây thần kinh tọa bằng phẫu thuật: không có hiệu quả
Đo lường hiệu suất khoa học
Đánh giá đúng tầm quan trọng của ung thư vú 
Đại dịch H1N1
Đại dịch và đại dịch ảo
Đại dịch đã đến ?
Đạo văn trong hoạt động khoa học
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đằng sau những con số hàm lượng đạm trong sữa
Đế quốc Trà
Đề bạt các chức danh khoa bảng: vài kinh nghiệm từ Úc
Đọc lại 12 điều y đức của Việt Nam
Đồi điều về sữa nhiễm melamine
Đừng quên melamine trong các thực phẩm khác!
Ước vọng 200 ?
“Kỹ năng mềm” cho nhà khoa học
“Sẽ” và “có thể”


Trang nhiều tác giả
Trang riêng của Lê Ngọc Dũng
Trang riêng của Lương Lễ Hoàng
Trang riêng của Nguyễn Bảo Trung
Trang riêng của Nguyễn Hoài Nam
Trang riêng của Nguyễn Hữu Đức
Trang riêng của Nguyễn Văn Tuấn
Trang riêng của Nguyễn Ý Đức
Trang riêng của Nguyễn Đình Nguyên
Trang riêng của Phan Xuân Trung
Trang riêng của Đỗ Hồng Ngọc
Trang riêng của Đỗ Minh Tuấn