NGUYỄN VĂN TUẤN

Bàn về hiệu quả vắcxin: lâm sàng và kinh tế

Nguyễn Văn Tuấn

Hiện nay có ý kiến cho rằng vắcxin không nên sử dụng trong những vùng đã bị ảnh hưởng bệnh tả.  Điều này đúng và phù hợp với khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO).  Nhưng vấn đề đặt ra là ở những vùng đang bị bão lụt, tuy bệnh chưa bộc phát, nhưng có nguy cơ bộc phát cao, thì có nên sử dụng vắcxin cho người dân hay không.  Đứng trước vấn đề vừa nêu, quan điểm của Bộ Y tế không mấy rõ ràng và có vẻ dè dặt.  Ông Phó cục trưởng Cục Y tế dự phòng cho biết: “Lý do là hiệu quả của loại văcxin này rất thấp, chỉ đạt 60-70% (các văcxin thông thường phải gần 100%), nghĩa là khoảng 1/3 số người dùng văcxin vẫn có thể phát bệnh.”  Một bác sĩ khác thì dẫn ý kiến của WHO rằng “theo quan điểm của tổ chức y tế thế giới cũng khuyến cáo dùng thuốc dùng ngừa dịch tả không phải là biện pháp hữu hiệu để phòng chống dịch tả cho cộng đồng mà còn có thể gây cảm tưởng sai lầm cho sự an toàn cho người uống thuốc sẽ lơ là không đảm bảo vệ sinh an toàn thì cũng sẽ nhiễm bệnh như người không uống vắcxin.” 

Chúng tôi không tìm thấy bất cứ tài liệu nào của WHO phát biểu như vừa trích dẫn!  Và, thật ra, chúng tôi cũng chẳng quan tâm họ nói hay viết gì.  Tuy nhiên, chúng tôi muốn mượn “câu chuyện” này để có vài dòng bình luận ngắn về vấn đề nên hay không nên tiêm chủng vắcxin ở vùng đang bị bão lụt. 

Thứ nhất là nguyên tắc: cần phải xác định rằng không phải bất cứ phát biểu gì hay khuyến cáo nào của WHO cũng đều là chân lí mà chúng ta phải tuân theo hay phải tin vào.  Các phát biểu và khuyến cáo của WHO chỉ có tính tham khảo.  Vấn đề vắcxin và phòng ngừa bệnh tả ở nước ta phải dựa vào tình hình thực tế ở nước ta, chứ không dựa vào những khuyến cáo chung chung của WHO.  (Hi vọng rằng ta biết tình hình ở nước ta hơn là người ngoài biết). 

Thứ hai, thế nào là “vùng có nguy cơ cao”?  Đó những vùng hội đủ các tiêu chí dịch tễ học sau đây: (a) nhiều người dân có khả năng phải di dời khỏi nhà vì thiên tai; (b) trong điều kiện xa nhà người dân khó có thể có nguồn nước sạch và cũng không có cơ sở y tế ứng phó khi dịch khởi phát; và (c) là những vùng từng bộc phát bệnh.  Theo các tiêu chí này thì miền Trung hiện nay rõ ràng là vùng có nguy cơ cao, bởi vì có nhiều người dân đang lâm vào cảnh “màn trời chiếu đất”, cơ sở y tế thiếu thốn, và miền Trung từng là tâm điểm của nhiều nạn dịch trong quá khứ. 

Thứ ba, khi nói đến “hiệu quả vắcxin” là nói đến cái gì?  Nhiều quan chức y tế nói đến “hiệu quả vắcxin”, nhưng chúng tôi cho rằng ngôn ngữ của họ phức tạp quá và chắc chẳng có bao nhiêu người dân hiểu họ nói gì.  Ngay cả chúng tôi nhiều khi cũng không hiểu họ nói gì!  Phương pháp tốt nhất để đánh giá hiệu nghiệm của vắcxin (hay một thuốc hay một thuật điều trị nói chung) là tiến hành một thử nghiệm lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên (randomized controlled clinical trial).  Theo phương pháp này, chúng ta chọn một nhóm đối tượng theo các tiêu chuẩn đã định trước; sau đó chia nhóm đối tượng này thành hai nhóm một cách ngẫu nhiên: một nhóm được cho sử dụng vắcxin (tạm gọi là nhóm điều trị)và một nhóm không sử dụng vắcxin (còn gọi là nhóm chứng); theo dõi hai nhóm một thời gian để ghi nhận có bao nhiêu trường hợp bệnh tả phát sinh và phát sinh lúc nào; và sau cùng là so sánh tỉ lệ phát sinh giữa hai nhóm.  Gọi tỉ lệ phát sinh bệnh trong nhóm điều trị là p1 và nhóm chứng là p0, hiệu quả được đơn giản định nghĩa bằng tỉ số p1/ p0.  Nói thì hơi phức tạp rối rắm, nhưng một ví dụ đơn giản có thể giải thích rõ hơn: nếu sau 6 tháng theo dõi, tỉ lệ phát sinh bệnh trong nhóm điều trị là 1% và nhóm chứng là 10%, thì chúng ta có tỉ số nguy cơ bằng 0,01/0,10 = 0,1; nói cách khác, vắcxin giảm được 90% ca bệnh. Yếu tố thời gian ở đây quan trọng; nếu nói đến hiệu quả mà không nói đến thời gian thì có khi cũng vô nghĩa. 

Hiểu như thế thì mới thấy câu phát biểu của một quan chức y tế như trích dẫn trên (“Lý do là hiệu quả của loại văcxin này rất thấp, chỉ đạt 60-70% […], nghĩa là khoảng 1/3 số người dùng văcxin vẫn có thể phát bệnh”) không chính xác, nếu không muốn nói là quá sai.  Trong số những người sử dụng vắcxin, chỉ có một số rất ít phát sinh bệnh (bởi vì một phần tỉ lệ phát sinh bệnh thấp, và một phần do hiệu quả phòng bệnh của vắcxin).  Chẳng hạn như trong nghiên cứu của giáo sư Đặng Đức Trạch (mà tôi trích chi tiết dưới đây) trong số 51.975 người sử dụng 2 liều vắcxin, có 25 người mắc bệnh sau 8 tháng theo dõi, tức tỉ lệ khoảng 0,5%.  Nói rằng “1/3 số người dùng văcxin vẫn có thể phát bệnh” là cực kì sai lầm.

Ở đây còn có vấn đề kĩ năng thông tin.  Chúng tôi thắc mắc là tại sao ông lại chọn cách nói tiêu cực (“phát bệnh”) mà không chọn cách nói tích cực (“không phát bệnh”)?  Vì vắcxin có chức năng ngừa bệnh chứ đâu phải phát bệnh.  Do đó, cần phải nói theo chức năng của vắcxin thay vì nói ngược chức năng của nó.  Thành ra, đối với người dân, câu hỏi mà họ muốn biết là: nếu chúng tôi được tiêm vắcxin có bao nhiêu người không mắc bệnh tả, chứ không phải bao nhiêu sẽ mắc bệnh tả.

Chúng tôi cũng thắc mắc tại sao dùng trạng từ “chỉ” (“chỉ đạt 60-70%”) ở đây để nâng cao tính tiêu cực của vắcxin?  Một vắcxin hay thuốc mà giảm nguy cơ mắc bệnh đến 70% thì làm sao có thể nói “chỉ” được.  Kinh nghiệm của chúng tôi cho thấy hầu hết các loại thuốc đắt tiền dùng trong điều trị bệnh tim mạch, bệnh loãng xương, bệnh cao huyết áp, v.v… hiệu quả giảm nguy cơ bệnh dao động từ 30% đến 50%, và với mức độ đó đã được đánh giá là “đáng kể”, và có thể sử dụng để ngừa bệnh ở qui mô cộng đồng.

Thứ tư, hiệu quả vắcxin ở mức độ nào?  Liên quan đến câu hỏi này các quan chức và chuyên gia y tế phát biểu thiếu nhất quán.  Người thì nói hiệu quả “chỉ đạt 60-70%”, người thì nói 65%, lại có người nói “hiệu lực đạt 70%”.  Nói chung, các chuyên gia y tế trong nước thiếu nhất quán về câu trả lời.  Sự thiếu nhất quán này thật đáng ngạc nhiên, bởi vì nghiên cứu về hiệu quả của vắcxin chống bệnh tả đã từng được tiến hành ở nước ta và trên thế giới.  Theo kết quả thử nghiệm tại Huế trên gần 52.000 người được công bố trên Tập san Lancet năm 1997, hai liều lượng vắcxin WB cho uống cách nhau từ 10-14 ngày, hiệu quả là 66% (ở trẻ em hiệu quả là 68%) sau 6-8 tháng theo dõi [1].  Bảng sau đây trình bày kết quả chính của nghiên cứu đó:

Bảng 1.  Kết quả sử dụng vắcxin phòng chống bệnh tả ở Huế năm 1993

 

Đặc tính

Nhóm vắcxin

Nhóm không vắcxin

Tỉ số nguy cơ

Tổng số

25 / 51975

92 / 67058

0,34 (0,21 – 0,54)

Nam

11 / 24283

44 / 32034

0,32 (0,17 – 0,63)

Nữ

14 / 27692

48 / 350240

0,36 (0,19 – 0,66)

Nước sạch

18 / 35696

62 / 46840

0,38 (0,22  – 0,64)

Nước không sạch

6 / 14536

28 / 17725

0,26 (0,10 – 0,72)

Bệnh tả nặng

7 / 51975

37 / 67058

0,24 (0,21 – 0,54)

Bệnh tả không nặng

18 / 51975

54 / 67058

0,42 (0,24 – 0,72)

Chú thích diễn dịch: Tính chung, sau 8 tháng theo dõi, nhóm sử dụng vắcxin có 25 người mắc bệnh tả (chiếm 0,5% trong tổng số 51.975), và nhóm không sử dụng vắcxin có 92 người mắc bệnh tả (tỉ lệ 0,14% trong tổng số 67.058).  Sau khi điều chỉnh các yếu tố nguy cơ khác, nguy cơ mắc bệnh tả trong nhóm vắcxin bằng 34% so với nhóm không sử dụng vắcxin, và do đó hiệu quả là 66%.  Nhìn qua bảng trên, chúng ta thấy hiệu quả vắcxin cao ở những người không có nguồn nước sạch (hiệu quả 74%) và những người có bệnh nặng (76%).

Ngoài ra, nghiên cứu hiệu quả của vắcxin ở Nam Dương trong đợt sóng thần Tsunami vào năm 2005 cho thấy hiệu quả của vắc-xin WC/rBS và CVD103 Hg-R lên đến 90% trong vòng 6 tháng [2].  Một số nghiên cứu gần đây ở Bangladesh và Peru cho thấy vắc-xin WC/rBS có hiệu quả chống dịch tả lên đến 85-90% trong vòng 6 tháng cho tất cả đối tượng bất kể độ tuổi nào [3].

Nói tóm lại, bằng chứng nghiên cứu khoa học trong 10 năm qua cho thấy hiệu quả trung bình của vắcxin phòng chống bệnh tả dao động trong khoảng 66% đến 90%.  Không có vắcxin nào với hiệu quả 100% cả.  Do đó, theo tôi đó là một hiệu quả rất đáng khích lệ, chứ không thể nói là “chỉ” được!  Có thể thấy lợi ích lâm sàng của hiệu quả trên như sau: nếu tỉ lệ phát sinh bệnh tả là 5% và hiệu quả của vắcxin là 80%, thì cứ 25 người được điều trị chúng ta sẽ ngừa được 1 ca bệnh tả. 

Thứ năm, một chiến dịch tiêm chủng vắcxin có hiệu quả kinh tế không?  Phân tích trên cho thấy lợi ích lâm sàng.  Nhưng đó chỉ mới là 1 khía cạnh, một khía cạnh khác của vấn đề là nếu cho uống hay tiêm chủng vắcxin ở qui mô cộng đồng có đem lại lợi ích kinh tế hay không?  Câu trả lời còn tùy thuộc vào 3 yếu tố chính: (a) chi phí vắcxin; (b) tỉ lệ phát sinh trong cộng đồng; và (c) hiệu quả của vắcxin. 

Chúng ta biết rằng hiệu quả vắcxin dao động trong khoảng 66% đến 90%.  Tỉ lệ phát sinh của bệnh thì chưa rõ ràng, nhưng y văn cho chúng ta biết tỉ lệ này dao động từ 2% đến 10% (tùy vùng và tùy năm).  Chi phí vắcxin ở Việt Nam cũng chưa rõ ràng, nhưng theo báo chí thì giá thành của 2 liều vắcxin do nhà nước qui định là 6.500 đồng (tức khoảng 0,4 USD).  Ngoài ra, theo báo chí, chi phí để điều trị một ca bệnh tả là khoảng 4 triệu đồng (tức 25 USD).  Với những thông số trên, chúng ta có thể làm vài “cộng trừ nhân chia” để biết chiến dịch phòng bệnh bằng vắcxin có hiệu quả kinh tế hay không. 

Thử tưởng tượng một cộng đồng gồm 1 triệu người.  Nếu chúng ta không phát động chiến dịch sử dụng vắcxin, thì số người mắc bệnh (giả dụ 2% tỉ lệ phát sinh), thì sẽ có 20.000 người mắc bệnh, và chi phí điều trị sẽ lên đến 500.000 USD.  Đó là chưa tính chi phí gián tiếp vì người thân gia đình phải chăm sóc cho bệnh nhân.

            Nếu chúng ta tiến hành chiến dịch vắcxin thì số bệnh nhân sẽ là 20.000 x 0,2 = 1600 người (giả dụ hiệu quả vắcxin là 80%).  Chi phí điều trị cho số bệnh nhân này là 40.000 USD.  Nhưng chi phí vắcxin cho toàn bộ 1 triệu người là 400.000 USD.  Như vậy tổng chi phí cho chiến lược vắcxin là 440.000 USD.  So với “kế hoạch thụ động”, chúng ta tiết kiệm được cho xã hội ít nhất là 60.000 USD.

            Nhưng để nâng cao hiệu quả kinh tế, chúng ta cần phải tập trung vào những đối tượng có nguy cơ cao (như trẻ em, người cao tuổi, người có máu nhóm O, v.v…) vì tỉ lệ phát sinh trong nhóm này cao, và do đó hiệu quả kinh tế cũng cao (tiết kiệm nhiều tiền hơn).  Với dữ liệu chính xác, chúng ta có thể tiến hành một phân tích nghiêm chỉnh để đi đến một chiến lược đem lại lợi ích cho nhiều người dân.  

Những phân tích trên đây dựa vào giả định.  Nhưng giả định có thể sai.  Nếu giả định sai thì các kết quả tính toán trên cũng sai.  Do đó, ngay từ bây giờ, chúng ta rất cần các thông tin về tỉ lệ phát sinh bệnh trong quá khứ, và nhất là cần thông tin về giá cả vắcxin.  Không có hai thông tin này, chúng ta khó mà bàn thảo vấn đề cho đến nơi đến chốn được. 

            Tóm lại, các lí giải và phân tích trên đây cho thấy nếu tỉ lệ phát sinh bệnh cao và chi phí vắcxin thấp thì một chiến dịch phòng bệnh tả bằng vắcxin ở vùng có nguy cơ cao như miền Trung có thể đem lại hiệu quả lâm sàng và kinh tế.  Trong thời gian qua, có khá nhiều (hay quá nhiều) phát biểu từ các quan chức và chuyên gia y tế, do thiếu bằng chứng khoa học và thiếu phân tích, nên dẫn đến những ngộ nhận đáng tiếc về hiệu quả của vắcxin. 

            Sau cùng chúng tôi muốn nói rằng vấn đề của chúng ta thì chúng ta phải là người đầu tiên chịu trách nhiệm và giải quyết; không nên nhờ cậy người nước ngoài -- dù người ngoài đó là WHO hay cơ quan quốc tế nào -- làm những việc mà chúng ta có thể làm được.  Không nên xem các khuyến cáo của WHO là chân lí, mà cần phải phân tích các khuyến cáo đó trong bối cảnh thực tế của nước ta.  Cũng không cần nhờ cậy họ suy nghĩ dùm chúng ta những việc mà chúng ta có đủ trí lực để suy nghĩ được.

Tài liệu tham khảo:

[1]  Trach DD, et al. Field trial of a locally produced, killed, oral cholera vaccine in Vietnam. Lancet. 1997 Jan 25;349(9047):231-5.

[2] World Health Organization.  “Oral cholera vaccine use in complex emergencies: what next” Có thể tải về để tham khảo từ địa chỉ:

http://www.who.int/entity/cholera/publications/
cholera_vaccines_emergencies_2005.pdf.

[3]  World Health Organization.  Weekly epidemiological record.  WHO Bulletin No 31, 2006, 81:297-308. 

 

 


200 năm Darwin
Agent Orange: collateral damage
Alexandre Yersin và Việt Nam
Bàn về hiệu quả vắcxin: lâm sàng và kinh tế
Bàn về vấn đề dịch thuật và đánh giá năng suất khoa học
Béo phì ở người Á châu
Béo phì ở trẻ em và virus
Bình luận từ Dr. Yến
Bưởi không gây ung thư vú
Bảo hiểm y tế cộng đồng
Bảo tồn môi sinh: Chiến tranh giữa hai thế giới
Bằng chứng khoa học thay vì lên lớp
Bệnh tả: không để Việt Nam thành Bangladesh thứ hai
Bệnh tật nhìn từ quan điểm của thuyết tiến hóa
Bệnh xơ hóa cơ delta qua y văn thế giới
Bổ sung kẽm và điều trị bệnh tả
Bộ gen trong cây lúa và triển vọng
Bộ Y tế phản ứng chậm với rét đậm
Chiều cao của người Việt
Chiều cao và tổng thống Mĩ
Cholesterol và bệnh Tim
Cholesterol: hung thần hay bạn?
Chuột và... các nhà khoa học
Chính sách y tế cần dựa vào bằng chứng khoa học
Chạy đua vũ khí và … dịch cúm
Chất béo, cholesterol, bệnh tim và statins: xét lại bằng chứng
Chất keo xã hội: hormones
Chất lượng nghiên cứu dịch tễ học và y tế cộng đồng của Việt Nam qua chỉ số H
Chất lượng nghiên cứu khoa học ở Việt Nam qua chỉ số trích dẫn
Chất vấn chuẩn chẩn đoán béo phì
Chế độ ăn uống với nhiều thịt động vật và nguy cơ tử vong
Chủng vi khuẩn tả hiện nay ở nước ta có phải mới xuất hiện?
Cuộc chiến hóa học phi pháp lớn nhất trong lịch sử chiến tranh
Câu chuyện y học: Leptin và béo phì
Có bao nhiêu bác sĩ viết chữ khó đọc
Có nên tập trung vào vi khuẩn E. coli ?
Có thể xảy ra đại dịch cúm gia cầm?
Công cụ đơn giản để chẩn đoán tiểu đường ở người Đông Nam Á
Cúm gia cầm và nhiễu thông tin
Cúm H1N1: biết và chưa biết
Cơ hội để khép lại một chương lịch sử đau lòng
Cần hiểu đúng về Ung thư và nguy cơ ung thư
Cần qui ước đạo đức cho kĩ nghệ thực phẩm
Cần tiêm chủng ngừa bệnh tả vùng có nguy cơ cao
Cần điều tra về chất lượng bệnh viện
Cổ phần hóa bệnh viện công và chất lượng
Cổ phần hóa: chưa phải cách duy nhất
DDT và vấn đề cân đối giữa lợi ích và nguy hiểm
Dinh dưỡng: một nguồn thuốc quí giá
DNA không nói dối, nhưng DNA có thể nói … sai
Dịch cúm gà: hoang mang và sự thật khoa học
Dịch cúm heo và tác hại kinh tế
Dịch tay-chân-miệng
Dịch tả: gọi đúng tên để phòng ngừa
Dựa vào khoa học, đừng dựa vào niềm tin!
E. coli – vài câu hỏi thông thường
Gen và bệnh tật
Ghen tuông dưới cái nhìn của tâm lí y khoa
Gian lận trong nghiên cứu khoa học: áp lực kinh tế và cơ chế bình duyệt
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC: KHƠI DẬY VÀ NUÔI DƯỠNG TÍNH HAM HỌC
Giải nobel y học hay sinh lí học 2007 và lợi ích cho người bệnh
Giải Nobel Y sinh học 2008 và những tranh chấp khoa học
Giải Nobel y sinh học 2010 vinh danh người đem niềm vui cho người vô sinh
Giải Nobel y sinh học năm 2005: Một cõi đi về với vi khuẩn
Giải Nobel y sinh học: Nhìn lại quãng đường 100 năm
Giải phẫu ghép mặt và vấn đề y đức
Gout ở xương sống
Gãy xương và tử vong: một vấn nạn y tế cộng đồng
Hiệu quả vắcxin có nghĩa gì?
Hoa vàng mấy độc
Hàm lượng đạm trong sữa “siêu thấp” hay “siêu cao”?
Hóa chất khai hoang trong cuộc chiến Viện Nam: Qui mô và tầm ảnh hưởng
Hướng đi nào để giải quyết vấn đề chất độc da cam ở Việt Nam
Hậu “mắm tôm được minh oan”: bằng chứng khoa học, nhà xí và nghiên cứu
Hệ Thống Học Vị Và Học Hàm Khoa Học Ở Vài Nước Tây Phương
Hợp tác khoa học kiểu nhảy dù - Nguyễn Văn Tuấn
Khi bác sĩ trẻ “khoe” quá nhiều
Khoa học và ngụy khoa học: một vài đặc điểm và khác biệt cần biết
Khoa học, xã hội, và rủi ro
Không thể thành Phù Đổng trong 20 năm!
Khẩu trang và phòng chống cúm A/H1N1
Kiểm định giả thuyết mắm tôm và vi khuẩn tả
Liều lượng melamine bao nhiêu là an toàn?
Lí lịch sinh học của heo và dấu vết văn minh nông nghiệp Đông Nam Á
Lượng giá mạng sống con người
Lợi ích của vitamin D
Miệng nhà quan
Mắm tôm có phải là “thủ phạm” gây bệnh tả? Xét lại bằng chứng khoa học
Mắm tôm và chuyện xin lỗi
Mắm tôm và dịch tả: phân biệt yếu tố nguy cơ và nguyên nhân
Mắm tôm vô tội!
Mắm tôm, nguyên nhân và hệ quả
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Một bệnh hiếm X-linked recessive hypoparathyroidism
Một lần đi phỏng vấn
Một năm nhìn lại
Một phán quyết thiếu cơ sở khoa học
Một vài hiểu lầm tai hại
Một vài ngộ nhận về nghiên cứu khoa học
Một vài vấn đề về qui định chức danh giáo sư ở Việt Nam
Một vụ Madoff trong y khoa: Lại một ngôi sao y khoa rơi rụng!
Mỡ trắng, mỡ nâu
Mỡ  trong máu, huyết áp, và  tiểu đường
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nguyên nhân bệnh tiêu chảy
Ngó trên tay điếu thuốc đã lụi dần
Người cao tuổi và sự hạn chế của y khoa
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Nhân chuyện dịch tả nhớ lại John Snow
Nhân câu chuyện điện não đồ xét nghiệm nghiện ma túy:
Nhân năm khỉ_nguồn gốc con người hiện đại
Nhân năm Tý bàn chuyện thí nghiệm trên chuột
Nhìn lại khoa học Việt Nam năm 2008 qua công bố quốc tế
Nhầm lẫn trong y khoa: Khá phổ biến, nhưng ít ai biết!
Những câu hỏi và trả lời về dịch gia cầm
Những sai sót khó tin nhưng có thật
Những sai sót nguy hiểm trong toa thuốc
Những điều khó tin về “Bảy điều khó tin nhất trong y học”
Năm lí do cho mắm tôm “vô tội”
Phán quyết sau cùng: Chất béo không ảnh hưởng đến ung thư và bệnh tim
Phát hiện gien kiểm soát ráy tai: vài bài học về mò kim đáy biển
Phòng chống bệnh phải dựa vào bằng chứng khoa học!
Phòng chống H1N1 bằng rửa tay và khẩu trang: Biện pháp nào hiệu quả hơn?
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao và cân nặng: thiếu cơ sở khoa học và kì thị giới tính
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao: vấn đề giả định và bằng chứng khoa học
Quyền phê phán và trí thức
Quyền được tiếp cận hồ sơ bệnh án
Quản lý chất lượng: Thuốc phòng "tai nạn y khoa"
Rửa tay bằng xà phòng và tiêu chảy
Serotonin có liên quan đến chứng đột tử
Suy dinh dưỡng ở trẻ em: vấn đề của kinh tế
Sàng lọc trẻ sơ sinh trên phạm vi toàn quốc
Tai nạn y khoa trong bệnh viện
Thế nào là một "bài báo khoa học"
Thế nào là “Cơ sở khoa học” ?
Thịt chó là nguyên nhân của bệnh tiêu chảy cấp tính?
Thịt chó và bệnh tả: nguyên nhân và yếu tố nguy cơ
Tiên lượng bệnh Alzheimer bằng protein expression ?
Tiêu chuẩn chất lượng giáo dục đại học
Tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì cho người Việt - Nguyễn Văn Tuấn
Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh đái tháo đường (diabetes mellitus)
Tiêu chuẩn đề bạt giáo sư: Có nên căn cứ vào số lượng bài báo ?
Tiêu chảy cấp tính và bệnh tả: Định danh cho đúng
Truy tìm ung thư bằng mammography từ tuổi 50
Truyền thông và khoa học: Qui ước Ingelfinger
Truyền thông và y tế
Truyền thông, khoa học và … doanh nghiệp
Trà xanh và sức khỏe
Trách nhiệm và nhân đạo trong vấn đề chất độc da cam
Trái chanh và phòng chống bệnh tả
Trả lời những câu hỏi liên quan đến loãng xương
Trọng lượng cơ thể và tử vong ở người Trung Quốc: Ý nghĩa về việc xác định tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì
Tuổi thọ của người dân giảm 10 năm ?
Tác dụng Placebo trong y học: Tâm lí và ý nghĩa
Tình yêu, sắc đẹp nhìn dưới quan điểm di truyền học
Tín hiệu môi trường từ những “làng ung thư”
Tính khoa học và minh bạch đằng sau xét nghiệm doping
Tại sao không phát biểu về nguyên nhân và hệ quả ?
Tại sao uống rượu gây đỏ mặt và nguy cơ ung thư thực quản
Tạo sinh vô tính và cái chết của Thượng đế
Tạo sinh vô tính và vấn đề sinh đạo đức
Tản mạn về SARS
Tỉ lệ tử vong do cúm heo là bao nhiêu ?
Tự trị, chất lượng và y đức thay vì cổ phần hóa bệnh viện công
Ung thư vú và vấn đề thông tin y khoa
Uống bia hấp dẫn muỗi
Vaccine phòng chống AIDS hiệu quả đến đâu ?
Vaccine phòng chống cúm A/H1N1
Vi khuẩn gây tiêu chảy và ý nghĩa tiêm chủng
Vi khuẩn tả trong chó ?
Viết văn có thể chữa nhiều loại bệnh
Viết văn và trị liệu
Việc ta, ta cứ làm!
Vài nhận xét về 12 điều lệ y đức của Việt Nam
Vài thông tin cần biết về các chương trình truy tìm ung thư vú
Vài đóng góp quan trọng của người Việt khoa học thống kê
Văn hóa khoa học
Văn hóa tranh luận và vấn đề ngụy biện
Vấn đề sinh tố: kẽm và đồng
Vấn đề truy tìm ung thư phổi và hiệu quả 
Vấn đề y đức trong nghiên cứu tế bào mầm (stem cells)
Vấn đề đo lường melamine
Vấn đề đào tạo tiến sĩ: kinh nghiệm từ Australia
Vắc-xin phòng chống ung thư cổ tử cung
Vắcxin ngừa viêm gan B: cẩn thận với “nhiễu thông tin”
Vắcxin ngừa viêm gan B: kinh nghiệm từ nước ngoài
Vắcxin phòng bệnh sởi - quai bị - Rubella: lợi và hại
Vắcxin phòng chống ung thư cổ tử cung: hiệu quả lâm sàng và kinh tế
Vắcxin phòng ngừa bệnh tả: rất cần thiết
Về chấn chỉnh đào tạo tiến sĩ: Công bố bài báo khoa học là một thách thức lớn ?
Về học vị tiến sĩ
Về một sự hiểu lầm thuật ngữ "prospective"
Về phản ứng phụ của bisphosphonates liên quan đến hoại tử xương hàm và rung nhĩ
Vệ sinh như là một loại hàng hóa
Vị thế của nền khoa học Việt Nam
Xung quang xì căng đan về nghiên cứu tế bào mầm
Xã hội hóa và an toàn thực phẩm
Xếp hạng đại học: cần minh bạch hóa phương pháp
Y học hiện đại và những hứa hẹn
Y học thực chứng: vài nét khái quát
Y Khoa và những nhầm lẫn chết người
Y tế dự phòng: nền tảng của y khoa hiện đại
Y đức và nghiên cứu y học
Ói mửa, cao huyết áp và hôn mê
Ăn chay như là một trị liệu
Ăn chay và loãng xương
Điều trị bệnh dựa vào màu da ?
Điều trị đau dây thần kinh tọa bằng phẫu thuật: không có hiệu quả
Đo lường hiệu suất khoa học
Đánh giá đúng tầm quan trọng của ung thư vú 
Đại dịch H1N1
Đại dịch và đại dịch ảo
Đại dịch đã đến ?
Đạo văn trong hoạt động khoa học
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đằng sau những con số hàm lượng đạm trong sữa
Đế quốc Trà
Đề bạt các chức danh khoa bảng: vài kinh nghiệm từ Úc
Đọc lại 12 điều y đức của Việt Nam
Đồi điều về sữa nhiễm melamine
Đừng quên melamine trong các thực phẩm khác!
Ước vọng 200 ?
“Kỹ năng mềm” cho nhà khoa học
“Sẽ” và “có thể”


Trang nhiều tác giả
Trang riêng của Lê Ngọc Dũng
Trang riêng của Lương Lễ Hoàng
Trang riêng của Nguyễn Bảo Trung
Trang riêng của Nguyễn Hoài Nam
Trang riêng của Nguyễn Hữu Đức
Trang riêng của Nguyễn Văn Tuấn
Trang riêng của Nguyễn Ý Đức
Trang riêng của Nguyễn Đình Nguyên
Trang riêng của Phan Xuân Trung
Trang riêng của Đỗ Hồng Ngọc
Trang riêng của Đỗ Minh Tuấn