NGUYỄN VĂN TUẤN

Vaccine phòng chống AIDS hiệu quả đến đâu ?

Nguyễn Văn Tuấn

Trong 30 năm qua, kể từ ca AIDS đầu tiên được phát hiện, các nhà khoa học đã tiêu nhiều tiền và thời gian để tìm một vaccine hi vọng phòng chống HIV (HIV được xem là virus dẫn đến bệnh AIDS), nhưng hết nghiên cứu này đến nghiên cứu khác, kết quả đều âm tính, thất bại. 

Hôm qua, một bản tin truyền đi từ Thái Lan cho biết lần đầu tiên sau 30 năm, một vaccine thử nghiệm cho thấy có thể giảm nguy cơ AIDS.  Báo chí quốc tế rầm rộ đưa tin rằng vaccine giảm 1/3 nguy cơ nhiễm HIV.  Tuy nhiên đọc kĩ kết quả nghiên cứu này, tôi lại hiểu khác: tôi cho rằng còn quá sớm để tuyên bố vaccine có hiệu quả, và kết quả giảm 1/3 nguy cơ nhiễm HIV có thể là do yếu tố ngẫu nhiên chứ chưa chắc là vaccine có hiệu quả sinh học thật sự.

Vaccine mang kí danh “RV 144” là kết hợp hai loại vaccine được sản xuất bằng kĩ thuật di truyền.  Nghiên cứu trước đây cho thấy cả hai vaccine này đều không có hiệu quả ở con người. 

Công trình nghiên cứu do quân y Mĩ tài trợ và thực hiện qua sự hợp tác của các chuyên gia Thái Lan.  Năm 2006, nhóm nghiên cứu tuyển 16,395 đối tượng từ cộng đồng (không phải nhóm có nguy cơ cao), tuổi từ 18 đến 30, theo các tiêu chuẩn định sẵn từ 2 tỉnh của Thái Lan.  Tất cả những người này đều không bị nhiễm HIV lúc tham gia công trình nghiên cứu; họ được chia thành 2 nhóm một cách ngẫu nhiên: 8197 người được tiêm 6 liều vaccine RV144, 8198 người dùng giả dược (tức placebo).  Sau 3 năm theo dõi, kết quả như sau:

 

Kết quả nghiên cứu vaccine RV144

 

  • Nhóm vaccine có 51 người nhiễm HIV, tỉ lệ 0.62%(hay 6 trên 1000 người);
  • Nhóm giả dược có 74 người nhiễm HIV, tỉ lệ 0.90% (9 trên 1000 người);

Như vậy con số 31% đến từ đâu?  Tôi nghĩ các nhà nghiên cứu tính theo nguy cơ tương đối (relative risk), tức là lấy 0.62 chia cho 0.90 và kết quả là 0.69.  Nói cách khác, xác suất nhiễm HIV trong nhóm vaccine thấp hơn nhóm giả dược 31%.  Đây chính là con số mà giới báo chí được các nhà nghiên cứu cung cấp và chuyển tải đến công chúng trên thế giới.

Nhưng cách tính và cách phát biểu đó có thể gây hiểu lầm.  Con số giảm 31% mà giới báo chí rầm rộ đưa tin không có nghĩa là giảm 31% ca nhiễm HIV, mà giảm 31% nguy cơ nhiễm HIV.  Chú ý, ca nhiễm HIV khác với nguy cơ nhiễm HIV.  Một cá nhân hoặc là nhiễm hoặc là không nhiễm HIV; do đó, con số ca nhiễm là những ca cụ thể.  Nguy cơ là xác suất phản ảnh tính bất định của tình trạng nhiễm HIV, do động từ 0 đến 1.  Một cá nhân có thể có nguy cơ nhiễm cao (hay thấp), nhưng điều đó không có nghĩa là cá nhân bị nhiễm HIV.

Vậy thì chúng ta phải diễn giải kết quả trên như thế nào?  Chúng ta phải quay lại với số liệu trên:  nếu tính bằng nguy cơ tuyệt đối (absolute risk), vaccine chỉ giảm 0.28% (lấy 0.90% trừ cho 0.62%) mà thôi.  Nói cách khác, trong 3 năm, cứ 1000 người được tiêm chủng thì vaccine giảm khoảng 3 người so với nhóm không tiêm vaccine.  Đây chính là kết quả thật của công trình nghiên cứu. 

Với một hiệu quả quá khiêm tốn như thế, người hoạch định chiến lược y tế cộng đồng phải đặt câu hỏi: có đáng đồng tiền bỏ ra hay không?  Giả dụ 6 liều vaccine tốn 300 USD, kết quả trên có nghĩa là xã hội phải chi ra 300,000 USD chỉ để giảm 3 ca nhiễm HIV!  (Nên nhớ rằng người được tiêm chủng vaccine cũng bị nhiễm HIV, chứ không phải hoàn toàn miễn nhiễm).

Câu hỏi kế tiếp là kết quả trên có phải do ngẫu nhiên hay ảnh thưởng sinh học?  Khó có câu trả lời cho câu hỏi này, bởi vì ngay cả nhóm làm nghiên cứu cũng không tiên lượng được.  Thật ra, công trình nghiên cứu là một chủ đề tranh cãi ngay từ lúc bắt đầu.  Các nhà khoa học Mĩ, kể cả Robert Gallo (người có công khám phá HIV), kí tên trong một tuyên bố trên tập san Science cáo buộc rằng chính phủ Mĩ đã phung phí 119 triệu USD cho một thử nghiệm, vì họ cho rằng vaccine sẽ không có hiệu quả.  Như tôi đề cập trên, vaccine sử dụng trong thử nghiệm này được sản xuất từ 2 vaccine (ALVAC của công ti sanofi-aventis và AIDSVAX của VaxGen), và cả hai vaccine thành tố này trước đây đều không có hiệu quả ở người, vậy thì tại sao khi 2 vaccine kết hợp nhau lại có hiệu quả?  Không (hay chưa) có câu trả lời.  

Trong khi chưa có câu trả lời mang tính sinh học, chúng ta phải đặt câu hỏi: có phải kết quả là do yếu tố ngẫu nhiên?  Có nhiều cách để trả lời câu hỏi này.  Cách đơn giản nhất là ước tính trị số P, và trong trường hợp này (với các số liệu trên), P = 0.048.  Nói cách khác, nếu vaccine không có hiệu quả, thì xác suất mà chúng ta có kết quả trên là khoảng 5%.  Như vậy, chúng ta vẫn chưa có bằng chứng thuyết phục để tuyên bố rằng vaccine thật sự có hiệu quả, bởi vì kết quả có thể chỉ là tình cờ.  Nếu các nhà nghiên cứu lặp lại thử nghiệm, chưa chắc họ đã có kết quả trên.

Nhưng trong thực tế chắc chắn chẳng ai lại tiêu ra 119 triệu USD chỉ để lặp lại nghiên cứu trên!  Do đó, một cách lí giải khác nhanh hơn là sử dụng lí thuyết Bayes.  Gọi D là dữ liệu mà công trình nghiên cứu vừa thu thập được, H0 là giả thuyết vaccine không có hiệu quả, H1 là giả thuyết vaccine có hiệu quả.  Chúng ta tính hai xác suất có điều kiện: P(D | H0) là xác suất dữ liệu quan sát được nếu giả thuyết H0 đúng; và P(D | H1) là xác suất dữ liệu quan sát được nếu giả thuyết H1 đúng.  Tỉ số của 2 xác suất này được gọi là Bayes Factor (BF):

 

 

Bởi vì dữ liệu D là bằng chứng, cho nên BF chính là một đo lường bằng chứng nghiêng về giả thuyết nào.  Nhìn qua công thức trên chúng ta có thể thấy: Nếu BF = 1, bằng chứng không nghiêng về một giả thuyết nào cả (hai giả thuyết có xác suất như nhau); nếu BF > 1, bằng chứng nghiêng về (yểm trợ) giả thuyết H1 hơn là H0; và nếu BF < 1, bằng chứng nghiêng về (yểm trợ) giả thuyết H0 hơn là H1.  Theo qui ước, chỉ khi nào BF trên 30 thì bằng chứng mới có tính thuyết phục.  Trong trường hợp y tế công cộng (liên quan và ảnh hưởng đến nhiều người), BF phải trên 100.

Với những dữ liệu trên, tôi ước tính BF khoảng 2.5.  Do đó, có thể nói rằng bằng chứng về hiệu quả của vaccine phòng chống HIV vẫn chưa thuyết phục.  Rất có thể kết quả mà các nhà nghiên cứu công bố chỉ là tình cờ, ngẫu nhiên.  Con đường đi đến một vaccine phòng chống HIV vẫn còn xa.

 

 


200 năm Darwin
Agent Orange: collateral damage
Alexandre Yersin và Việt Nam
Bàn về hiệu quả vắcxin: lâm sàng và kinh tế
Bàn về vấn đề dịch thuật và đánh giá năng suất khoa học
Béo phì ở người Á châu
Béo phì ở trẻ em và virus
Bình luận từ Dr. Yến
Bưởi không gây ung thư vú
Bảo hiểm y tế cộng đồng
Bảo tồn môi sinh: Chiến tranh giữa hai thế giới
Bằng chứng khoa học thay vì lên lớp
Bệnh tả: không để Việt Nam thành Bangladesh thứ hai
Bệnh tật nhìn từ quan điểm của thuyết tiến hóa
Bệnh xơ hóa cơ delta qua y văn thế giới
Bổ sung kẽm và điều trị bệnh tả
Bộ gen trong cây lúa và triển vọng
Bộ Y tế phản ứng chậm với rét đậm
Chiều cao của người Việt
Chiều cao và tổng thống Mĩ
Cholesterol và bệnh Tim
Cholesterol: hung thần hay bạn?
Chuột và... các nhà khoa học
Chính sách y tế cần dựa vào bằng chứng khoa học
Chạy đua vũ khí và … dịch cúm
Chất béo, cholesterol, bệnh tim và statins: xét lại bằng chứng
Chất keo xã hội: hormones
Chất lượng nghiên cứu dịch tễ học và y tế cộng đồng của Việt Nam qua chỉ số H
Chất lượng nghiên cứu khoa học ở Việt Nam qua chỉ số trích dẫn
Chất vấn chuẩn chẩn đoán béo phì
Chế độ ăn uống với nhiều thịt động vật và nguy cơ tử vong
Chủng vi khuẩn tả hiện nay ở nước ta có phải mới xuất hiện?
Cuộc chiến hóa học phi pháp lớn nhất trong lịch sử chiến tranh
Câu chuyện y học: Leptin và béo phì
Có bao nhiêu bác sĩ viết chữ khó đọc
Có nên tập trung vào vi khuẩn E. coli ?
Có thể xảy ra đại dịch cúm gia cầm?
Công cụ đơn giản để chẩn đoán tiểu đường ở người Đông Nam Á
Cúm gia cầm và nhiễu thông tin
Cúm H1N1: biết và chưa biết
Cơ hội để khép lại một chương lịch sử đau lòng
Cần hiểu đúng về Ung thư và nguy cơ ung thư
Cần qui ước đạo đức cho kĩ nghệ thực phẩm
Cần tiêm chủng ngừa bệnh tả vùng có nguy cơ cao
Cần điều tra về chất lượng bệnh viện
Cổ phần hóa bệnh viện công và chất lượng
Cổ phần hóa: chưa phải cách duy nhất
DDT và vấn đề cân đối giữa lợi ích và nguy hiểm
Dinh dưỡng: một nguồn thuốc quí giá
DNA không nói dối, nhưng DNA có thể nói … sai
Dịch cúm gà: hoang mang và sự thật khoa học
Dịch cúm heo và tác hại kinh tế
Dịch tay-chân-miệng
Dịch tả: gọi đúng tên để phòng ngừa
Dựa vào khoa học, đừng dựa vào niềm tin!
E. coli – vài câu hỏi thông thường
Gen và bệnh tật
Ghen tuông dưới cái nhìn của tâm lí y khoa
Gian lận trong nghiên cứu khoa học: áp lực kinh tế và cơ chế bình duyệt
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC: KHƠI DẬY VÀ NUÔI DƯỠNG TÍNH HAM HỌC
Giải nobel y học hay sinh lí học 2007 và lợi ích cho người bệnh
Giải Nobel Y sinh học 2008 và những tranh chấp khoa học
Giải Nobel y sinh học 2010 vinh danh người đem niềm vui cho người vô sinh
Giải Nobel y sinh học năm 2005: Một cõi đi về với vi khuẩn
Giải Nobel y sinh học: Nhìn lại quãng đường 100 năm
Giải phẫu ghép mặt và vấn đề y đức
Gout ở xương sống
Gãy xương và tử vong: một vấn nạn y tế cộng đồng
Hiệu quả vắcxin có nghĩa gì?
Hoa vàng mấy độc
Hàm lượng đạm trong sữa “siêu thấp” hay “siêu cao”?
Hóa chất khai hoang trong cuộc chiến Viện Nam: Qui mô và tầm ảnh hưởng
Hướng đi nào để giải quyết vấn đề chất độc da cam ở Việt Nam
Hậu “mắm tôm được minh oan”: bằng chứng khoa học, nhà xí và nghiên cứu
Hệ Thống Học Vị Và Học Hàm Khoa Học Ở Vài Nước Tây Phương
Hợp tác khoa học kiểu nhảy dù - Nguyễn Văn Tuấn
Khi bác sĩ trẻ “khoe” quá nhiều
Khoa học và ngụy khoa học: một vài đặc điểm và khác biệt cần biết
Khoa học, xã hội, và rủi ro
Không thể thành Phù Đổng trong 20 năm!
Khẩu trang và phòng chống cúm A/H1N1
Kiểm định giả thuyết mắm tôm và vi khuẩn tả
Liều lượng melamine bao nhiêu là an toàn?
Lí lịch sinh học của heo và dấu vết văn minh nông nghiệp Đông Nam Á
Lượng giá mạng sống con người
Lợi ích của vitamin D
Miệng nhà quan
Mắm tôm có phải là “thủ phạm” gây bệnh tả? Xét lại bằng chứng khoa học
Mắm tôm và chuyện xin lỗi
Mắm tôm và dịch tả: phân biệt yếu tố nguy cơ và nguyên nhân
Mắm tôm vô tội!
Mắm tôm, nguyên nhân và hệ quả
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Một bệnh hiếm X-linked recessive hypoparathyroidism
Một lần đi phỏng vấn
Một năm nhìn lại
Một phán quyết thiếu cơ sở khoa học
Một vài hiểu lầm tai hại
Một vài ngộ nhận về nghiên cứu khoa học
Một vài vấn đề về qui định chức danh giáo sư ở Việt Nam
Một vụ Madoff trong y khoa: Lại một ngôi sao y khoa rơi rụng!
Mỡ trắng, mỡ nâu
Mỡ  trong máu, huyết áp, và  tiểu đường
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nguyên nhân bệnh tiêu chảy
Ngó trên tay điếu thuốc đã lụi dần
Người cao tuổi và sự hạn chế của y khoa
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Nhân chuyện dịch tả nhớ lại John Snow
Nhân câu chuyện điện não đồ xét nghiệm nghiện ma túy:
Nhân năm khỉ_nguồn gốc con người hiện đại
Nhân năm Tý bàn chuyện thí nghiệm trên chuột
Nhìn lại khoa học Việt Nam năm 2008 qua công bố quốc tế
Nhầm lẫn trong y khoa: Khá phổ biến, nhưng ít ai biết!
Những câu hỏi và trả lời về dịch gia cầm
Những sai sót khó tin nhưng có thật
Những sai sót nguy hiểm trong toa thuốc
Những điều khó tin về “Bảy điều khó tin nhất trong y học”
Năm lí do cho mắm tôm “vô tội”
Phán quyết sau cùng: Chất béo không ảnh hưởng đến ung thư và bệnh tim
Phát hiện gien kiểm soát ráy tai: vài bài học về mò kim đáy biển
Phòng chống bệnh phải dựa vào bằng chứng khoa học!
Phòng chống H1N1 bằng rửa tay và khẩu trang: Biện pháp nào hiệu quả hơn?
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao và cân nặng: thiếu cơ sở khoa học và kì thị giới tính
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao: vấn đề giả định và bằng chứng khoa học
Quyền phê phán và trí thức
Quyền được tiếp cận hồ sơ bệnh án
Quản lý chất lượng: Thuốc phòng "tai nạn y khoa"
Rửa tay bằng xà phòng và tiêu chảy
Serotonin có liên quan đến chứng đột tử
Suy dinh dưỡng ở trẻ em: vấn đề của kinh tế
Sàng lọc trẻ sơ sinh trên phạm vi toàn quốc
Tai nạn y khoa trong bệnh viện
Thế nào là một "bài báo khoa học"
Thế nào là “Cơ sở khoa học” ?
Thịt chó là nguyên nhân của bệnh tiêu chảy cấp tính?
Thịt chó và bệnh tả: nguyên nhân và yếu tố nguy cơ
Tiên lượng bệnh Alzheimer bằng protein expression ?
Tiêu chuẩn chất lượng giáo dục đại học
Tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì cho người Việt - Nguyễn Văn Tuấn
Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh đái tháo đường (diabetes mellitus)
Tiêu chuẩn đề bạt giáo sư: Có nên căn cứ vào số lượng bài báo ?
Tiêu chảy cấp tính và bệnh tả: Định danh cho đúng
Truy tìm ung thư bằng mammography từ tuổi 50
Truyền thông và khoa học: Qui ước Ingelfinger
Truyền thông và y tế
Truyền thông, khoa học và … doanh nghiệp
Trà xanh và sức khỏe
Trách nhiệm và nhân đạo trong vấn đề chất độc da cam
Trái chanh và phòng chống bệnh tả
Trả lời những câu hỏi liên quan đến loãng xương
Trọng lượng cơ thể và tử vong ở người Trung Quốc: Ý nghĩa về việc xác định tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì
Tuổi thọ của người dân giảm 10 năm ?
Tác dụng Placebo trong y học: Tâm lí và ý nghĩa
Tình yêu, sắc đẹp nhìn dưới quan điểm di truyền học
Tín hiệu môi trường từ những “làng ung thư”
Tính khoa học và minh bạch đằng sau xét nghiệm doping
Tại sao không phát biểu về nguyên nhân và hệ quả ?
Tại sao uống rượu gây đỏ mặt và nguy cơ ung thư thực quản
Tạo sinh vô tính và cái chết của Thượng đế
Tạo sinh vô tính và vấn đề sinh đạo đức
Tản mạn về SARS
Tỉ lệ tử vong do cúm heo là bao nhiêu ?
Tự trị, chất lượng và y đức thay vì cổ phần hóa bệnh viện công
Ung thư vú và vấn đề thông tin y khoa
Uống bia hấp dẫn muỗi
Vaccine phòng chống AIDS hiệu quả đến đâu ?
Vaccine phòng chống cúm A/H1N1
Vi khuẩn gây tiêu chảy và ý nghĩa tiêm chủng
Vi khuẩn tả trong chó ?
Viết văn có thể chữa nhiều loại bệnh
Viết văn và trị liệu
Việc ta, ta cứ làm!
Vài nhận xét về 12 điều lệ y đức của Việt Nam
Vài thông tin cần biết về các chương trình truy tìm ung thư vú
Vài đóng góp quan trọng của người Việt khoa học thống kê
Văn hóa khoa học
Văn hóa tranh luận và vấn đề ngụy biện
Vấn đề sinh tố: kẽm và đồng
Vấn đề truy tìm ung thư phổi và hiệu quả 
Vấn đề y đức trong nghiên cứu tế bào mầm (stem cells)
Vấn đề đo lường melamine
Vấn đề đào tạo tiến sĩ: kinh nghiệm từ Australia
Vắc-xin phòng chống ung thư cổ tử cung
Vắcxin ngừa viêm gan B: cẩn thận với “nhiễu thông tin”
Vắcxin ngừa viêm gan B: kinh nghiệm từ nước ngoài
Vắcxin phòng bệnh sởi - quai bị - Rubella: lợi và hại
Vắcxin phòng chống ung thư cổ tử cung: hiệu quả lâm sàng và kinh tế
Vắcxin phòng ngừa bệnh tả: rất cần thiết
Về chấn chỉnh đào tạo tiến sĩ: Công bố bài báo khoa học là một thách thức lớn ?
Về học vị tiến sĩ
Về một sự hiểu lầm thuật ngữ "prospective"
Về phản ứng phụ của bisphosphonates liên quan đến hoại tử xương hàm và rung nhĩ
Vệ sinh như là một loại hàng hóa
Vị thế của nền khoa học Việt Nam
Xung quang xì căng đan về nghiên cứu tế bào mầm
Xã hội hóa và an toàn thực phẩm
Xếp hạng đại học: cần minh bạch hóa phương pháp
Y học hiện đại và những hứa hẹn
Y học thực chứng: vài nét khái quát
Y Khoa và những nhầm lẫn chết người
Y tế dự phòng: nền tảng của y khoa hiện đại
Y đức và nghiên cứu y học
Ói mửa, cao huyết áp và hôn mê
Ăn chay như là một trị liệu
Ăn chay và loãng xương
Điều trị bệnh dựa vào màu da ?
Điều trị đau dây thần kinh tọa bằng phẫu thuật: không có hiệu quả
Đo lường hiệu suất khoa học
Đánh giá đúng tầm quan trọng của ung thư vú 
Đại dịch H1N1
Đại dịch và đại dịch ảo
Đại dịch đã đến ?
Đạo văn trong hoạt động khoa học
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đằng sau những con số hàm lượng đạm trong sữa
Đế quốc Trà
Đề bạt các chức danh khoa bảng: vài kinh nghiệm từ Úc
Đọc lại 12 điều y đức của Việt Nam
Đồi điều về sữa nhiễm melamine
Đừng quên melamine trong các thực phẩm khác!
Ước vọng 200 ?
“Kỹ năng mềm” cho nhà khoa học
“Sẽ” và “có thể”


Trang nhiều tác giả
Trang riêng của Lê Ngọc Dũng
Trang riêng của Lương Lễ Hoàng
Trang riêng của Nguyễn Bảo Trung
Trang riêng của Nguyễn Hoài Nam
Trang riêng của Nguyễn Hữu Đức
Trang riêng của Nguyễn Văn Tuấn
Trang riêng của Nguyễn Ý Đức
Trang riêng của Nguyễn Đình Nguyên
Trang riêng của Phan Xuân Trung
Trang riêng của Đỗ Hồng Ngọc
Trang riêng của Đỗ Minh Tuấn