NGUYỄN VĂN TUẤN

Điều trị đau dây thần kinh tọa bằng phẫu thuật: không có hiệu quả

Nguyễn Văn Tuấn

Tuần qua, một nghiên cứu vừa công bố làm ngẩn ngơ giới phẫu thuật chấn thương chỉnh hình: bệnh nhân đau dây thần kinh tọa có lẽ không cần đến phẫu thuật! Một số nhà giải phẫu cảm thấy “thất vọng” trước kết quả nghiên cứu, bởi vì trước khi tiến hành, ai cũng kì vọng nghiên cứu sẽ chứng minh rằng hiệu quả của điều trị bằng phẫu thuật. Thế nhưng kết quả nghiên cứu cho thấy bất luận bệnh nhân được điều trị hay không, ai cũng cảm thấy tốt hơn. Không ai đoán được kết quả này nếu không tiến hành nghiên cứu. Đó cũng là cái “đẹp” của khoa học vậy! Nghiên cứu này một lần nữa cho thấy tất cả những “niềm tin” đều trở nên hài hước trước dữ kiện khoa học.

Chứng đau dây thần kinh tọa (sciatica) có cơ chế khá đơn giản: ruột của đĩa liên sống bị thoái hóa. Đĩa này nhô ra ở một bên, làm ép rê thần kinh sống thắt lưng dưới, hay thần kinh đốt sống cùng trên. Hệ quả là bệnh nhân cảm thấy đau dọc theo mặt sau và mặt ngoài đùi, chân và bàn chân, thường do thoái hóa ruột đĩa liên sống. Bệnh có thể bộc phát bất thình lình, làm cho việc cử động nâng, hay xoắn trở nên vụng về. Lưng bị cứng và đau, chân cũng bị cứng và tê. Nằm nghỉ có thể giảm đau lưng, nhưng nếu tình trạng đau và tê dai dẳng vẫn tiếp tục, bệnh nhân thường được điều trị bằng phẫu thuật.

Một câu hỏi đặt ra: ở các bệnh nhân đau dây thần kinh tọa, phẫu thuật có thật sự cải tiến tình trạng đau?

Một nghiên cứu lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên (randomized controlled clinical trial) được tiến hành ở Mĩ để trả lời câu hỏi trên, và kết quả làm cho chúng ta phải ngẩn ngơ. Kết quả nghiên cứu còn làm cho chúng ta phải xét lại cách điều trị chứng đau tọa thần kinh.

Các nhà nghiên cứu Mĩ chọn một nhóm bệnh nhân gồm 472 người, tuổi trung bình khoảng 41-43. Họ ngẫu nhiên chia bệnh nhân thành hai nhóm: nhóm 1 gồm 232 bệnh nhân được điều trị bằng phẫu thuật (lumbar diskectomy), và nhóm 2 gồm 240 bệnh nhân không được điều trị mà chỉ theo dõi và chờ (còn gọi là nhóm “đối chứng”). Cả hai nhóm bệnh bệnh nhân được theo dõi trong vòng 2 năm. Trong thời gian đó, các nhà nghiên cứu thu thập các chỉ tiêu lâm sàng như độ đau đớn cơ thể (bodily pain), cử động cơ thể (physical function), và chỉ số đau thần kinh tọa (sciatica index).

Chỉ số lâm sàng Tháng thứ 3 Tháng thứ 12 Tháng thứ 24
Điều trị Đối chứng Điều trị Đối chứng Điều trị Đối chứng
SF-36 bodily pain 30.5 (1.9) 27.6 (1.8) 39.7 (1.8) 36.9 (1.8) 40.3 (1.9) 37.1 (1.9)
SF-36 physical function 27.7 (1.9) 24.9 (1.9) 36.4 (1.9) 35.2 (1.9) 35.9 (2.0) 35.9 (1.9)
Sciatica index -9.0 (0.46) -6.8 (0.45) -10.3 (0.46) -8.7 (0.45) -10.1 (0.48) -8.5 (0.47)

Chú thích: Các số ngoài ngoặc là số trung bình; các số trong ngoặc có nghĩa là sai số chuẩn (standard error). Mức độ khác biệt giữa hai nhóm điều trị và đối chứng đều không có ý nghĩa thống kê (statistical non-significance). Khi chỉ số đau đớn cơ thể (bodily pain) và cử động cơ thể (physical function) tăng có nghĩa là bệnh nhân cảm thấy tốt hơn (ít đau hơn và khả năng cử động cơ thể tốt hơn). Khi chỉ số đau thần kinh tọa ở số âm có nghĩa là tìn trạng đau thần kinh tọa thuyên giảm. Nguồn: Weinstein JN, et al. Surgical vs nonoperative treatment for lumbar spine disk herniation: the Spine Patient Outcomes Research Trial (SPORT) – a randomized trial. JAMA 2006; 296:2441-2450.

Một số biến chứng sau phẫu thuật được ghi nhận: khoảng 4% trong nhóm điều trị phải tái giải phẫu trong vòng 1 năm và 5% tái giải phẫu trong vòng 2 năm, 4% trường hợp bệnh nhân phẫu thuật bị rách màng cứng (dural tear), và 2% bị nhiễm trùng ở vết mổ.

Đây là một nghiên cứu lâm sàng “táo bạo” để thử nghiệm một giả thiết mà nhiều người vẫn xem là sự thật. Đã từ lâu, giới y khoa vẫn tin rằng phẫu thuật là một thuật điều trị chuẩn cho các bệnh nhân đau dây thần kinh tọa. Không điều trị cũng có nghĩa là mâu thuẫn với y đức. Bệnh nhân thường được bác sĩ khuyến cáo rằng nếu hoãn giải phẫu có thể dẫn đến tình trạng dây thần kinh bị tổn hại vĩnh viễn, chân bị yếu đi, thậm chí mất khả năng đi tiêu tiểu. Do đó, ý tưởng về một nghiên cứu mà trong đó bệnh nhân chỉ cho chờ, không điều trị, là một ý tưởng táo bạo.

Đây là một trong những nghiên cứu lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên rất hiếm hoi trong lĩnh vực phẫu thuật. Nói chung, giới phẫu thuật thường quá tự tin và thích nghĩ rằng phương pháp điều trị mà họ quen thuộc hay có kinh nghiệm là tối ưu, không có gì phải chất vấn hay bàn luận thêm. Có một câu chuyện vui về nghiên cứu và phẫu thuật. Hôm đó, một giáo sư phẫu thuật danh tiếng được mời đến thuyết trình về phương pháp điều trị do chính ông phát triển. Ông giáo sư oai nghi, bệ vệ trên bục giảng, thao thao bất tuyệt về phương pháp của ông, thì một bác sĩ nội trú trẻ tần ngần dơ tay xin hỏi. “Thưa giáo sư, xin hỏi là giáo sư đã làm nghiên cứu lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên để thẩm định xem phương pháp của giáo sư thật sự có hiệu quả chưa ạ?” Ông giáo sư cười to, đầy tự tin đưa mắt nhìn khán giả trong hội trường và nói móc: “Ý của anh là phân nửa bệnh nhân của tôi phải bị tước mất lợi ích từ phẫu thuật này à?” Cả hội trường hỉ hả cười theo. Chờ đến khi tràng cười lắng xuống, anh bác sĩ trẻ lí nhí thắc mắc: “Nhưng thưa giáo sư, phân nửa nào ạ?” Ông giáo sư xanh mặt và cả hội trưòng im phăng phắt, vì lúc đó người ta đã nhận ra cái phi logic trong câu nói móc của vị giáo sư khả kính kia!

Cách suy nghĩ của vị giáo sư trong câu chuyện vừa kể là một suy nghĩ phi khoa học và nguy hiểm. Giới phẫu thuật thường có xu hướng chủ quan. Nếu theo một giác quan thông thường nào đó, một phương pháp điều trị sẽ có hiệu nghiệm, thì họ sẽ cảm nhận rằng phương pháp đó thực sự có hiệu nghiệm, dù bằng chứng khoa học cho thấy ngược lại. Trong thực tế, có nhiều phương pháp điều trị hiện hành không có hiệu quả như chúng ta tưởng. Thậm chí, một số phương pháp còn có thể gây nên thương tổn cho bệnh nhân. Nhưng đó không phải là vấn đề. Vấn đề là những quyết định của bác sĩ rút ra từ kinh nghiệm cá nhân hay quan sát lâm sàng hàng ngày thường không có độ tin cậy cao. Thêm vào đó là phần lớn các phương pháp chữa trị trong y học chưa bao giờ được kiểm tra, đánh giá bằng các phương pháp khoa học. Những phương pháp này được dùng vì bác sĩ tin rằng chúng có hiệu quả, và cũng như mọi niềm tin tôn giáo, nó không dựa vào bằng chứng khoa học.

Nhưng sự thật mích lòng. Nghiên cứu này đã giúp cho chúng ta mật lần nữa phải xét lại các quan điểm về điều trị theo kinh nghiệm cá nhân, hay theo niềm tin không có cơ sở khoa học. Các chuyên gia Mĩ khi đọc qua kết quả nghiên cứu đều nhất trí cho rằng các kết quả trình bày trên sẽ làm thay đổi sơ đồ điều trị bệnh đau dây thần kinh tọa trong tương lai. Tiêu biểu cho nhận xét này là Bác sĩ Steven R. Garfin, chủ nhiệm khoa chấn thương chỉnh hình, Đại học California tại San Diego: “Kết quả nghiên cứu này nói chúng ta biết rằng: không nên vội vả giải phẫu. Thời gian thường là đồng minh chứ không phải kẻ thù của chúng ta.”


200 năm Darwin
Agent Orange: collateral damage
Alexandre Yersin và Việt Nam
Bàn về hiệu quả vắcxin: lâm sàng và kinh tế
Bàn về vấn đề dịch thuật và đánh giá năng suất khoa học
Béo phì ở người Á châu
Béo phì ở trẻ em và virus
Bình luận từ Dr. Yến
Bưởi không gây ung thư vú
Bảo hiểm y tế cộng đồng
Bảo tồn môi sinh: Chiến tranh giữa hai thế giới
Bằng chứng khoa học thay vì lên lớp
Bệnh tả: không để Việt Nam thành Bangladesh thứ hai
Bệnh tật nhìn từ quan điểm của thuyết tiến hóa
Bệnh xơ hóa cơ delta qua y văn thế giới
Bổ sung kẽm và điều trị bệnh tả
Bộ gen trong cây lúa và triển vọng
Bộ Y tế phản ứng chậm với rét đậm
Chiều cao của người Việt
Chiều cao và tổng thống Mĩ
Cholesterol và bệnh Tim
Cholesterol: hung thần hay bạn?
Chuột và... các nhà khoa học
Chính sách y tế cần dựa vào bằng chứng khoa học
Chạy đua vũ khí và … dịch cúm
Chất béo, cholesterol, bệnh tim và statins: xét lại bằng chứng
Chất keo xã hội: hormones
Chất lượng nghiên cứu dịch tễ học và y tế cộng đồng của Việt Nam qua chỉ số H
Chất lượng nghiên cứu khoa học ở Việt Nam qua chỉ số trích dẫn
Chất vấn chuẩn chẩn đoán béo phì
Chế độ ăn uống với nhiều thịt động vật và nguy cơ tử vong
Chủng vi khuẩn tả hiện nay ở nước ta có phải mới xuất hiện?
Cuộc chiến hóa học phi pháp lớn nhất trong lịch sử chiến tranh
Câu chuyện y học: Leptin và béo phì
Có bao nhiêu bác sĩ viết chữ khó đọc
Có nên tập trung vào vi khuẩn E. coli ?
Có thể xảy ra đại dịch cúm gia cầm?
Công cụ đơn giản để chẩn đoán tiểu đường ở người Đông Nam Á
Cúm gia cầm và nhiễu thông tin
Cúm H1N1: biết và chưa biết
Cơ hội để khép lại một chương lịch sử đau lòng
Cần hiểu đúng về Ung thư và nguy cơ ung thư
Cần qui ước đạo đức cho kĩ nghệ thực phẩm
Cần tiêm chủng ngừa bệnh tả vùng có nguy cơ cao
Cần điều tra về chất lượng bệnh viện
Cổ phần hóa bệnh viện công và chất lượng
Cổ phần hóa: chưa phải cách duy nhất
DDT và vấn đề cân đối giữa lợi ích và nguy hiểm
Dinh dưỡng: một nguồn thuốc quí giá
DNA không nói dối, nhưng DNA có thể nói … sai
Dịch cúm gà: hoang mang và sự thật khoa học
Dịch cúm heo và tác hại kinh tế
Dịch tay-chân-miệng
Dịch tả: gọi đúng tên để phòng ngừa
Dựa vào khoa học, đừng dựa vào niềm tin!
E. coli – vài câu hỏi thông thường
Gen và bệnh tật
Ghen tuông dưới cái nhìn của tâm lí y khoa
Gian lận trong nghiên cứu khoa học: áp lực kinh tế và cơ chế bình duyệt
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC: KHƠI DẬY VÀ NUÔI DƯỠNG TÍNH HAM HỌC
Giải nobel y học hay sinh lí học 2007 và lợi ích cho người bệnh
Giải Nobel Y sinh học 2008 và những tranh chấp khoa học
Giải Nobel y sinh học 2010 vinh danh người đem niềm vui cho người vô sinh
Giải Nobel y sinh học năm 2005: Một cõi đi về với vi khuẩn
Giải Nobel y sinh học: Nhìn lại quãng đường 100 năm
Giải phẫu ghép mặt và vấn đề y đức
Gout ở xương sống
Gãy xương và tử vong: một vấn nạn y tế cộng đồng
Hiệu quả vắcxin có nghĩa gì?
Hoa vàng mấy độc
Hàm lượng đạm trong sữa “siêu thấp” hay “siêu cao”?
Hóa chất khai hoang trong cuộc chiến Viện Nam: Qui mô và tầm ảnh hưởng
Hướng đi nào để giải quyết vấn đề chất độc da cam ở Việt Nam
Hậu “mắm tôm được minh oan”: bằng chứng khoa học, nhà xí và nghiên cứu
Hệ Thống Học Vị Và Học Hàm Khoa Học Ở Vài Nước Tây Phương
Hợp tác khoa học kiểu nhảy dù - Nguyễn Văn Tuấn
Khi bác sĩ trẻ “khoe” quá nhiều
Khoa học và ngụy khoa học: một vài đặc điểm và khác biệt cần biết
Khoa học, xã hội, và rủi ro
Không thể thành Phù Đổng trong 20 năm!
Khẩu trang và phòng chống cúm A/H1N1
Kiểm định giả thuyết mắm tôm và vi khuẩn tả
Liều lượng melamine bao nhiêu là an toàn?
Lí lịch sinh học của heo và dấu vết văn minh nông nghiệp Đông Nam Á
Lượng giá mạng sống con người
Lợi ích của vitamin D
Miệng nhà quan
Mắm tôm có phải là “thủ phạm” gây bệnh tả? Xét lại bằng chứng khoa học
Mắm tôm và chuyện xin lỗi
Mắm tôm và dịch tả: phân biệt yếu tố nguy cơ và nguyên nhân
Mắm tôm vô tội!
Mắm tôm, nguyên nhân và hệ quả
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Một bệnh hiếm X-linked recessive hypoparathyroidism
Một lần đi phỏng vấn
Một năm nhìn lại
Một phán quyết thiếu cơ sở khoa học
Một vài hiểu lầm tai hại
Một vài ngộ nhận về nghiên cứu khoa học
Một vài vấn đề về qui định chức danh giáo sư ở Việt Nam
Một vụ Madoff trong y khoa: Lại một ngôi sao y khoa rơi rụng!
Mỡ trắng, mỡ nâu
Mỡ  trong máu, huyết áp, và  tiểu đường
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nguyên nhân bệnh tiêu chảy
Ngó trên tay điếu thuốc đã lụi dần
Người cao tuổi và sự hạn chế của y khoa
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Nhân chuyện dịch tả nhớ lại John Snow
Nhân câu chuyện điện não đồ xét nghiệm nghiện ma túy:
Nhân năm khỉ_nguồn gốc con người hiện đại
Nhân năm Tý bàn chuyện thí nghiệm trên chuột
Nhìn lại khoa học Việt Nam năm 2008 qua công bố quốc tế
Nhầm lẫn trong y khoa: Khá phổ biến, nhưng ít ai biết!
Những câu hỏi và trả lời về dịch gia cầm
Những sai sót khó tin nhưng có thật
Những sai sót nguy hiểm trong toa thuốc
Những điều khó tin về “Bảy điều khó tin nhất trong y học”
Năm lí do cho mắm tôm “vô tội”
Phán quyết sau cùng: Chất béo không ảnh hưởng đến ung thư và bệnh tim
Phát hiện gien kiểm soát ráy tai: vài bài học về mò kim đáy biển
Phòng chống bệnh phải dựa vào bằng chứng khoa học!
Phòng chống H1N1 bằng rửa tay và khẩu trang: Biện pháp nào hiệu quả hơn?
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao và cân nặng: thiếu cơ sở khoa học và kì thị giới tính
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao: vấn đề giả định và bằng chứng khoa học
Quyền phê phán và trí thức
Quyền được tiếp cận hồ sơ bệnh án
Quản lý chất lượng: Thuốc phòng "tai nạn y khoa"
Rửa tay bằng xà phòng và tiêu chảy
Serotonin có liên quan đến chứng đột tử
Suy dinh dưỡng ở trẻ em: vấn đề của kinh tế
Sàng lọc trẻ sơ sinh trên phạm vi toàn quốc
Tai nạn y khoa trong bệnh viện
Thế nào là một "bài báo khoa học"
Thế nào là “Cơ sở khoa học” ?
Thịt chó là nguyên nhân của bệnh tiêu chảy cấp tính?
Thịt chó và bệnh tả: nguyên nhân và yếu tố nguy cơ
Tiên lượng bệnh Alzheimer bằng protein expression ?
Tiêu chuẩn chất lượng giáo dục đại học
Tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì cho người Việt - Nguyễn Văn Tuấn
Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh đái tháo đường (diabetes mellitus)
Tiêu chuẩn đề bạt giáo sư: Có nên căn cứ vào số lượng bài báo ?
Tiêu chảy cấp tính và bệnh tả: Định danh cho đúng
Truy tìm ung thư bằng mammography từ tuổi 50
Truyền thông và khoa học: Qui ước Ingelfinger
Truyền thông và y tế
Truyền thông, khoa học và … doanh nghiệp
Trà xanh và sức khỏe
Trách nhiệm và nhân đạo trong vấn đề chất độc da cam
Trái chanh và phòng chống bệnh tả
Trả lời những câu hỏi liên quan đến loãng xương
Trọng lượng cơ thể và tử vong ở người Trung Quốc: Ý nghĩa về việc xác định tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì
Tuổi thọ của người dân giảm 10 năm ?
Tác dụng Placebo trong y học: Tâm lí và ý nghĩa
Tình yêu, sắc đẹp nhìn dưới quan điểm di truyền học
Tín hiệu môi trường từ những “làng ung thư”
Tính khoa học và minh bạch đằng sau xét nghiệm doping
Tại sao không phát biểu về nguyên nhân và hệ quả ?
Tại sao uống rượu gây đỏ mặt và nguy cơ ung thư thực quản
Tạo sinh vô tính và cái chết của Thượng đế
Tạo sinh vô tính và vấn đề sinh đạo đức
Tản mạn về SARS
Tỉ lệ tử vong do cúm heo là bao nhiêu ?
Tự trị, chất lượng và y đức thay vì cổ phần hóa bệnh viện công
Ung thư vú và vấn đề thông tin y khoa
Uống bia hấp dẫn muỗi
Vaccine phòng chống AIDS hiệu quả đến đâu ?
Vaccine phòng chống cúm A/H1N1
Vi khuẩn gây tiêu chảy và ý nghĩa tiêm chủng
Vi khuẩn tả trong chó ?
Viết văn có thể chữa nhiều loại bệnh
Viết văn và trị liệu
Việc ta, ta cứ làm!
Vài nhận xét về 12 điều lệ y đức của Việt Nam
Vài thông tin cần biết về các chương trình truy tìm ung thư vú
Vài đóng góp quan trọng của người Việt khoa học thống kê
Văn hóa khoa học
Văn hóa tranh luận và vấn đề ngụy biện
Vấn đề sinh tố: kẽm và đồng
Vấn đề truy tìm ung thư phổi và hiệu quả 
Vấn đề y đức trong nghiên cứu tế bào mầm (stem cells)
Vấn đề đo lường melamine
Vấn đề đào tạo tiến sĩ: kinh nghiệm từ Australia
Vắc-xin phòng chống ung thư cổ tử cung
Vắcxin ngừa viêm gan B: cẩn thận với “nhiễu thông tin”
Vắcxin ngừa viêm gan B: kinh nghiệm từ nước ngoài
Vắcxin phòng bệnh sởi - quai bị - Rubella: lợi và hại
Vắcxin phòng chống ung thư cổ tử cung: hiệu quả lâm sàng và kinh tế
Vắcxin phòng ngừa bệnh tả: rất cần thiết
Về chấn chỉnh đào tạo tiến sĩ: Công bố bài báo khoa học là một thách thức lớn ?
Về học vị tiến sĩ
Về một sự hiểu lầm thuật ngữ "prospective"
Về phản ứng phụ của bisphosphonates liên quan đến hoại tử xương hàm và rung nhĩ
Vệ sinh như là một loại hàng hóa
Vị thế của nền khoa học Việt Nam
Xung quang xì căng đan về nghiên cứu tế bào mầm
Xã hội hóa và an toàn thực phẩm
Xếp hạng đại học: cần minh bạch hóa phương pháp
Y học hiện đại và những hứa hẹn
Y học thực chứng: vài nét khái quát
Y Khoa và những nhầm lẫn chết người
Y tế dự phòng: nền tảng của y khoa hiện đại
Y đức và nghiên cứu y học
Ói mửa, cao huyết áp và hôn mê
Ăn chay như là một trị liệu
Ăn chay và loãng xương
Điều trị bệnh dựa vào màu da ?
Điều trị đau dây thần kinh tọa bằng phẫu thuật: không có hiệu quả
Đo lường hiệu suất khoa học
Đánh giá đúng tầm quan trọng của ung thư vú 
Đại dịch H1N1
Đại dịch và đại dịch ảo
Đại dịch đã đến ?
Đạo văn trong hoạt động khoa học
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đằng sau những con số hàm lượng đạm trong sữa
Đế quốc Trà
Đề bạt các chức danh khoa bảng: vài kinh nghiệm từ Úc
Đọc lại 12 điều y đức của Việt Nam
Đồi điều về sữa nhiễm melamine
Đừng quên melamine trong các thực phẩm khác!
Ước vọng 200 ?
“Kỹ năng mềm” cho nhà khoa học
“Sẽ” và “có thể”


Trang nhiều tác giả
Trang riêng của Lê Ngọc Dũng
Trang riêng của Lương Lễ Hoàng
Trang riêng của Nguyễn Bảo Trung
Trang riêng của Nguyễn Hoài Nam
Trang riêng của Nguyễn Hữu Đức
Trang riêng của Nguyễn Văn Tuấn
Trang riêng của Nguyễn Ý Đức
Trang riêng của Nguyễn Đình Nguyên
Trang riêng của Phan Xuân Trung
Trang riêng của Đỗ Hồng Ngọc
Trang riêng của Đỗ Minh Tuấn