NGUYỄN VĂN TUẤN

Hợp tác khoa học kiểu nhảy dù

(hay khoa học thực dân)

Nguyễn Văn Tuấn

(Bài đã đăng trên tạp chí Tia Sáng tháng 6/07)

Theo tác giả Phạm Duy Hiển trong năm 2001 các nhà khoa học công bố 375 bài báo khoa học trên các tập san quốc tế; trong số này, 81% là do hợp tác với các nhà khoa học nước ngoài (Tia Sáng 1/6/2007).  Vấn đề đặt ra là hợp tác như thế nào, và sở hữu tri thức thuộc về các nhà khoa học Việt Nam hay các đồng nghiệp ngoại quốc.  Tôi đã xem qua một phần lớn các bài báo và công trình hợp tác trong lĩnh vực y khoa, và có thể nói rằng hơn 95% các công trình này là những dạng hợp tác theo kiểu “nhảy dù khoa học”, và do đó sở hữu tri thức thuộc về các nhà khoa học nước ngoài.  Có lẽ đã đến lúc chúng ta cần phải xem lại các nguyên tắc và có thái độ dứt khoát hơn trong việc hợp tác với các nhà khoa học nước ngoài.

            Tình hình nghiên cứu khoa học ở nước ta trong những năm gần đây có phát triển khá nhanh, với số lượng bài báo công bố trên các tập san khoa học quốc tế tăng trung bình khoảng 10%.  Đó là một tin vui.  Nhưng con số tăng trưởng đó chưa phản ảnh một khía cạnh đáng lo ngại hơn: đó là các công trình do “nội lực” (tức hoàn toàn thực hiện bởi các nhà khoa học trong nước) giảm từ 23% vào năm 1997 xuống còn 19% trong năm 2001.  Nói cách khác, hiện nay, hơn 80% các công trình nghiên cứu khoa học xuất phát từ Việt Nam được công bố trên các tập san quốc tế là do hợp tác với các nhà khoa học nước ngoài.  Thật vậy, chính nhờ vào nguồn hợp tác này (chứ không phải nội lực) mà số lượng bài báo khoa học tăng trưởng trong thời gian qua.

            Hợp tác trong nghiên cứu khoa học là một xu hướng tất yếu ngày nay.  Trong điều kiện nước ta còn thiếu thốn về phương tiện nghiên cứu, thiếu thốn nhân sự có kinh nghiệm cao, hạn chế về ngân sách khoa học, thì việc các đồng nghiệp trong nước phải hợp tác với các nhà khoa học nước ngoài là điều hoàn toàn có thể hiểu được.  Tuy nhiên, cần phải rất cẩn thận trong việc hợp tác sao cho các nhà khoa học trong nước không phải chịu thiệt thòi.  Theo kinh nghiệm cá nhân, tôi thấy rất nhiều (nếu không muốn nói là tất cả) các nhà khoa học trong nước mà tôi đã tiếp xúc chưa ý thức được vấn đề này, và do đó họ còn quá dễ dãi trong việc hợp tác, và dẫn đến thất thoát cho nước nhà.  Có người vì quá hồ hởi được đứng tên trong một bài báo trên một tập san quốc tế mà không cần biết nội dung gì trong đó.  Lại có trường hợp khá bi hài là đồng nghiệp nước ngoài công bố bài báo và tự tiện đưa tên đồng nghiệp trong nước vào danh sách tác giả bài báo nhưng đánh vần sai tên mà chính tác cũng không hay biết!  Chưa ý thức được vấn đề, tôi nghiệm ra, là vì họ chưa rành luật chơi, nhất là các nguyên tắc vả qui ước trong việc định công trạng, trong hợp tác nghiên cứu khoa học.

            Ai cũng biết trong thế kỉ trước, các cường quốc Tây phương như Anh và Pháp có nhiều thuộc địa ở Phi châu và Á châu.  Trong một thời gian dài, các nhà khoa học từ các cường quốc này đến các nước thuộc địa tiến hành nhiều nghiên cứu khoa học, kể cả nhân chủng học và văn hóa học, và công bố trên các tập san ở nước họ.  Do đó, quyền sở hữu tri thức thuộc về họ, cho các tri thức này dựa vào các mẫu vật và sự cộng tác của nhân sự  từ địa phương.  Trong giới khoa học, người ta gọi cách làm khoa học này là “scientific colonism” (khoa học thuộc địa).  Ở nước ta, do nhiều thế hệ học sinh, sinh viên không có cơ hội nghiên cứu khoa học, và do đó, một phần không nhỏ kiến thức về Việt Nam, dân tộc Việt Nam và tài nguyên Việt Nam lại nằm trong tay các nhà khoa học ngoại quốc, thay vì trong tay các nhà khoa học Việt Nam. 

            Đến thế kỉ 20, Mĩ trở thành cường quốc khoa học và kinh tế số một.  Cùng với Mĩ, các nước Âu châu, chủ yếu là Anh, Pháp, Đức, Hà Lan, và các nước Bắc Âu kiểm soát gần như toàn bộ hệ thống thông tin khoa học.  Tất cả các nhà xuất bản lớn nhất thế giới, tất cả các tập san khoa học lớn và có ảnh hưởng trên thế giới đều xuất phát từ các nước này.  Hệ quả là thế giới không chỉ bị ngăn cách bởi thu nhập cá nhân, mà còn bị chia cách bởi “bức tường thông tin” (Information Divide).  Trong khi các nước Tây phương thừa thông tin khoa học, thì các nước đang phát triển như nước ta lại thiếu thông tin trầm trọng.  Một thư viện của một đại học trung bình ở Anh hay Mĩ có 3000 tập san khoa học, trong khi đó một đại học lớn ở nước ta con số này chưa đến 50!

            Khoảng 25% các nhà khoa học trên thế giới sống và làm việc ở các nước đang phát triển, nhưng họ sản xuất dưới 3% tổng số ấn phẩm khoa học trên thế giới (BMJ 1997;314:980).  Vì thiếu thông tin, cho nên chất lượng nghiên cứu từ các nước đang phát triển không cao, và thường bị từ chối cho công bố trên các tập san quốc tế (hay nói đúng hơn là các tập san khoa học Tây phương).  Trong thời gian 10 năm (tính từ 1989 đến 1998), tập san y khoa của Anh, British Medical Journal, nhận được 44.690 bài báo khoa học trên thế giới; trong số này chỉ có 6% (hay 2550 bài) từ các nước đang phát triển.  Tỉ lệ các bài báo từ các nước đang phát triển được chấp nhận cho công bố là 8% (tức 92% trong số 2550 bài bị từ chối).  Tỉ lệ các bài báo từ các nước đã phát triển được chấp nhận cho công bố là 17%.  Do đó, trong tổng số các bài báo được công bố trên tập san British Medical Journal, chỉ có ~3% là từ các nước đang phát triển.  Ở các tập san lớn hơn như Science, Nature, Cell, New England Journal of Medicine, Lancet, v.v… tình trạng còn “bi thảm” hơn: tỉ lệ các bài báo từ các nước đang phát triển chỉ dưới 1%. 

            Trong nỗ lực khắc phục tình trạng trên và nhằm gia tăng sự có mặt của các công trình nghiên cứu từ các nước đang phát triển, các nhà khoa học từ các nước Tây phương tìm cách hợp tác với đồng nghiệp ở các nước đang phát triển.  Thường thường, họ được hỗ trợ và khuyến khích từ chính phủ để tiến hành các nghiên cứu “viễn chinh”.  Nhưng ý đồ tích cực này đang dần dần trở thành một hình thức thuộc địa chủ nghĩa kiểu mới trong khoa học, mà giới khoa học đặt tên là “Scientific Colonism” hay “Parachute Science” (Làm khoa học kiểu nhảy dù).  Mới đây, có người còn đặt tên cho loại hợp tác này là “Safari Science”.  Nói một cách ngắn gọn, cũng giống như giới khoa học thuộc địa thời xưa đến các nước Á châu và Phi châu thu thập các cổ vật văn hóa về sung vào viện bảo tàng ở nước họ, giới làm khoa học kiểu nhảy dù ngày nay là các nhà khoa học Tây phương đến các nước đang phát triển thu thập mẫu máu, DNA, hay mẫu vật, hay số liệu, và đem về phòng thí nghiệm nước họ để phân tích và công bố kết quả.  Trong bài báo, họ đứng tên tác giả số một hay tác giả chịu trách nhiệm (responsible author) và cho tên của vài nhà khoa học địa phương trong danh sách tác giả như là “foot soldier” (lính đánh bộ)!  

            Tình trạng khoa học nhảy dù hay khoa học thuộc địa này phổ biến cỡ nào?  Tính từ 1993 đến 1998, tập san British Medical Journal công bố 59 bài báo với sự hợp tác giữa các nhà khoa học các nước Tây phương và các nước đang phát triển; trong số này, 58% bài báo mà tác giả đứng đầu là các nhà khoa học Tây phương.  Tỉ lệ khoa học nhảy dù ở tập san Lancet là 57% (trong số 82 bài báo).  Trong thời gian trên, tập san Science công bố 6 bài báo hợp tác, và tất cả đều do các nhà khoa học Tây phương đứng tên tác giả đầu.  Tập san có ảnh hưởng càng cao, tỉ lệ khoa học nhảy dù hay khoa học thuộc địa càng cao.  Nói cách khác, các nhà khoa học Tây phương chỉ “tử tế” với các nhà khoa học địa phương chỉ khi nào các bài báo đăng trên các tập san có ảnh hưởng thấp, nhưng với các bài báo trên các tập san ảnh hưởng lớn thì họ dành quyền đứng tên tác giả đầu. 

Xu hướng hợp tác khoa học theo kiểu nhảy dù này đã và đang xảy ra ở nước ta, nhất là trong lĩnh vực y học.  Người viết bài này đã điểm qua các bài báo nghiên cứu được thực hiện ở Việt Nam có tác giả nước ngoài và tác giả người Việt Nam trong vòng 10 năm qua, và hơn 95% các bài báo này đều do các tác giả nước ngoài đứng tác giả đầu hay tác giả chịu trách nhiệm.  Như vậy, có thể nói tình trạng khoa học nhảy dù trong y học ở nước ta rất phổ biến.  Một vài ví dụ cụ thể như: “A Schecter, HT Quynh, M Pavuk, O Papke, R Malish, JD Constable.  Food as a source of dioxin exposure in the residents of Bien Hoa City, Vietnam.  J Occup Environ Med 2003”, “A Schecter, LC Dai, LTB Thuy, HT Quynh, DQ Minh, HD Cau, PH Phiet, NTN Phuong, JD Constable, R Baughman, O Papke, JJ Ryan, P Furst, S Raisanen.  Agent Orange and the Vietnamese: the persistence of elevated dioxin levels in human tissues.  American Journal of Public Health 1995”, v.v… Thật ra, tất cả các nghiên cứu về chất độc da cam ở Việt Nam trong thời gian qua có thể nói là các hợp tác kiểu khoa học nhảy dù.  Rõ ràng, các nghiên cứu này lấy mẫu vật và số liệu từ người Việt tại Việt Nam, nhưng các nhà khoa học Việt Nam chỉ đóng vai trò “lính đánh bộ”, và công trạng và sở hữu tri thức vẫn thuộc về các nhà khoa học nước ngoài.

            Đây là một vấn đề tế nhị và gai góc.  Có lẽ phần lớn các nhà khoa học Tây phương không nghĩ họ bóc lột hay lợi dụng đồng nghiệp từ các nước đang phát triển, bởi vì trong thực tế, họ là những người đề xuất ý tưởng, thiết kế nghiên cứu, phân tích dữ liệu, soạn thảo bài báo, và trực tiếp thực hiện việc công bố bài báo.  Đứng trên mặt qui tắc thì họ hoàn toàn có tư cách đứng tên đầu.  Tuy nhiên, vấn đề ở đây là họ sử dụng dữ liệu từ Việt Nam, mẫu máu, DNA, hay nói chung là chất liệu nghiên cứu từ Việt Nam và của người Việt Nam, và trong nhiều trường hợp, họ sử dụng các nhà khoa học Việt Nam để thu thập các dữ liệu này.  Nếu không có các chất liệu này hay không có sự hợp tác của đồng nghiệp Việt Nam, thì dù ý tưởng có hay cỡ nào cũng không thể thành hiện thực.  Vậy thì vấn đề đặt ra là việc họ đứng tên đầu có hợp lí không?  Theo tôi câu trả lời là “không”.  Kinh nghiệm của tôi cho thấy trước khi hợp tác với bất cứ ai ở nước ngoài, một hợp đồng phải được soạn thảo trước với những qui định rõ ràng về vị trí tác giả của bất cứ bài báo nào sẽ xuất bản, và tất cả các nhà khoa học liên quan phải kí tên vào trước khi thực hiện. 

            Hợp tác trong nghiên cứu khoa học cũng giống như thương lượng trong kinh doanh, tức là đôi bên cùng có lợi, chứ không thể để một bên chịu thiệt thòi và một bên dành phần thắng.  Nhưng để đạt được một hợp tác đôi bên cùng có lợi, hay một hợp tác bình đẳng, các nhà khoa học Việt Nam cần phải tìm hiểu kĩ hơn nữa về luật chơi trong hoạt động khoa học quốc tế để không phải chịu thiệt thòi trong hợp tác.  Những luật chơi này không phải là những qui tắc được viết thành văn bản trên giấy trắng mực đen, và chỉ có thể biết được qua trao đổi với những nhà khoa học Việt Nam ở nước ngoài có kinh nghiệm lâu năm trong việc giải quyết vấn đề này.

            Ngoài việc hiểu và biết luật chơi quốc tế, kiến thức và năng lực của nhà khoa học còn là hai yếu tố rất quan trọng trong việc thương lượng.  Một nhà khoa học với kiến thức rộng, kĩ năng cao, và kinh nghiệm làm khoa học lâu năm (hay nói chung là có “nội lực”) thường ở thế thượng phong trong thương lượng và hợp tác khoa học, và qua đó có thể đảm bảo bình đẳng cho đồng nghiệp của mình.  Nhưng quan trọng hơn hết, trong thời đại hội nhập quốc tế, các nhà khoa học nước ta rất cần ý thức rõ quyền lợi quốc gia và không nên để những tri thức về Việt Nam, dân tộc Việt Nam và tài nguyên Việt Nam lại một lần nữa nằm trong tay các nhà khoa học ngoại quốc trong các hợp tác khoa học theo kiểu nhảy dù.

 


200 năm Darwin
Agent Orange: collateral damage
Alexandre Yersin và Việt Nam
Bàn về hiệu quả vắcxin: lâm sàng và kinh tế
Bàn về vấn đề dịch thuật và đánh giá năng suất khoa học
Béo phì ở người Á châu
Béo phì ở trẻ em và virus
Bình luận từ Dr. Yến
Bưởi không gây ung thư vú
Bảo hiểm y tế cộng đồng
Bảo tồn môi sinh: Chiến tranh giữa hai thế giới
Bằng chứng khoa học thay vì lên lớp
Bệnh tả: không để Việt Nam thành Bangladesh thứ hai
Bệnh tật nhìn từ quan điểm của thuyết tiến hóa
Bệnh xơ hóa cơ delta qua y văn thế giới
Bổ sung kẽm và điều trị bệnh tả
Bộ gen trong cây lúa và triển vọng
Bộ Y tế phản ứng chậm với rét đậm
Chiều cao của người Việt
Chiều cao và tổng thống Mĩ
Cholesterol và bệnh Tim
Cholesterol: hung thần hay bạn?
Chuột và... các nhà khoa học
Chính sách y tế cần dựa vào bằng chứng khoa học
Chạy đua vũ khí và … dịch cúm
Chất béo, cholesterol, bệnh tim và statins: xét lại bằng chứng
Chất keo xã hội: hormones
Chất lượng nghiên cứu dịch tễ học và y tế cộng đồng của Việt Nam qua chỉ số H
Chất lượng nghiên cứu khoa học ở Việt Nam qua chỉ số trích dẫn
Chất vấn chuẩn chẩn đoán béo phì
Chế độ ăn uống với nhiều thịt động vật và nguy cơ tử vong
Chủng vi khuẩn tả hiện nay ở nước ta có phải mới xuất hiện?
Cuộc chiến hóa học phi pháp lớn nhất trong lịch sử chiến tranh
Câu chuyện y học: Leptin và béo phì
Có bao nhiêu bác sĩ viết chữ khó đọc
Có nên tập trung vào vi khuẩn E. coli ?
Có thể xảy ra đại dịch cúm gia cầm?
Công cụ đơn giản để chẩn đoán tiểu đường ở người Đông Nam Á
Cúm gia cầm và nhiễu thông tin
Cúm H1N1: biết và chưa biết
Cơ hội để khép lại một chương lịch sử đau lòng
Cần hiểu đúng về Ung thư và nguy cơ ung thư
Cần qui ước đạo đức cho kĩ nghệ thực phẩm
Cần tiêm chủng ngừa bệnh tả vùng có nguy cơ cao
Cần điều tra về chất lượng bệnh viện
Cổ phần hóa bệnh viện công và chất lượng
Cổ phần hóa: chưa phải cách duy nhất
DDT và vấn đề cân đối giữa lợi ích và nguy hiểm
Dinh dưỡng: một nguồn thuốc quí giá
DNA không nói dối, nhưng DNA có thể nói … sai
Dịch cúm gà: hoang mang và sự thật khoa học
Dịch cúm heo và tác hại kinh tế
Dịch tay-chân-miệng
Dịch tả: gọi đúng tên để phòng ngừa
Dựa vào khoa học, đừng dựa vào niềm tin!
E. coli – vài câu hỏi thông thường
Gen và bệnh tật
Ghen tuông dưới cái nhìn của tâm lí y khoa
Gian lận trong nghiên cứu khoa học: áp lực kinh tế và cơ chế bình duyệt
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC: KHƠI DẬY VÀ NUÔI DƯỠNG TÍNH HAM HỌC
Giải nobel y học hay sinh lí học 2007 và lợi ích cho người bệnh
Giải Nobel Y sinh học 2008 và những tranh chấp khoa học
Giải Nobel y sinh học 2010 vinh danh người đem niềm vui cho người vô sinh
Giải Nobel y sinh học năm 2005: Một cõi đi về với vi khuẩn
Giải Nobel y sinh học: Nhìn lại quãng đường 100 năm
Giải phẫu ghép mặt và vấn đề y đức
Gout ở xương sống
Gãy xương và tử vong: một vấn nạn y tế cộng đồng
Hiệu quả vắcxin có nghĩa gì?
Hoa vàng mấy độc
Hàm lượng đạm trong sữa “siêu thấp” hay “siêu cao”?
Hóa chất khai hoang trong cuộc chiến Viện Nam: Qui mô và tầm ảnh hưởng
Hướng đi nào để giải quyết vấn đề chất độc da cam ở Việt Nam
Hậu “mắm tôm được minh oan”: bằng chứng khoa học, nhà xí và nghiên cứu
Hệ Thống Học Vị Và Học Hàm Khoa Học Ở Vài Nước Tây Phương
Hợp tác khoa học kiểu nhảy dù - Nguyễn Văn Tuấn
Khi bác sĩ trẻ “khoe” quá nhiều
Khoa học và ngụy khoa học: một vài đặc điểm và khác biệt cần biết
Khoa học, xã hội, và rủi ro
Không thể thành Phù Đổng trong 20 năm!
Khẩu trang và phòng chống cúm A/H1N1
Kiểm định giả thuyết mắm tôm và vi khuẩn tả
Liều lượng melamine bao nhiêu là an toàn?
Lí lịch sinh học của heo và dấu vết văn minh nông nghiệp Đông Nam Á
Lượng giá mạng sống con người
Lợi ích của vitamin D
Miệng nhà quan
Mắm tôm có phải là “thủ phạm” gây bệnh tả? Xét lại bằng chứng khoa học
Mắm tôm và chuyện xin lỗi
Mắm tôm và dịch tả: phân biệt yếu tố nguy cơ và nguyên nhân
Mắm tôm vô tội!
Mắm tôm, nguyên nhân và hệ quả
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Một bệnh hiếm X-linked recessive hypoparathyroidism
Một lần đi phỏng vấn
Một năm nhìn lại
Một phán quyết thiếu cơ sở khoa học
Một vài hiểu lầm tai hại
Một vài ngộ nhận về nghiên cứu khoa học
Một vài vấn đề về qui định chức danh giáo sư ở Việt Nam
Một vụ Madoff trong y khoa: Lại một ngôi sao y khoa rơi rụng!
Mỡ trắng, mỡ nâu
Mỡ  trong máu, huyết áp, và  tiểu đường
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nguyên nhân bệnh tiêu chảy
Ngó trên tay điếu thuốc đã lụi dần
Người cao tuổi và sự hạn chế của y khoa
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Nhân chuyện dịch tả nhớ lại John Snow
Nhân câu chuyện điện não đồ xét nghiệm nghiện ma túy:
Nhân năm khỉ_nguồn gốc con người hiện đại
Nhân năm Tý bàn chuyện thí nghiệm trên chuột
Nhìn lại khoa học Việt Nam năm 2008 qua công bố quốc tế
Nhầm lẫn trong y khoa: Khá phổ biến, nhưng ít ai biết!
Những câu hỏi và trả lời về dịch gia cầm
Những sai sót khó tin nhưng có thật
Những sai sót nguy hiểm trong toa thuốc
Những điều khó tin về “Bảy điều khó tin nhất trong y học”
Năm lí do cho mắm tôm “vô tội”
Phán quyết sau cùng: Chất béo không ảnh hưởng đến ung thư và bệnh tim
Phát hiện gien kiểm soát ráy tai: vài bài học về mò kim đáy biển
Phòng chống bệnh phải dựa vào bằng chứng khoa học!
Phòng chống H1N1 bằng rửa tay và khẩu trang: Biện pháp nào hiệu quả hơn?
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao và cân nặng: thiếu cơ sở khoa học và kì thị giới tính
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao: vấn đề giả định và bằng chứng khoa học
Quyền phê phán và trí thức
Quyền được tiếp cận hồ sơ bệnh án
Quản lý chất lượng: Thuốc phòng "tai nạn y khoa"
Rửa tay bằng xà phòng và tiêu chảy
Serotonin có liên quan đến chứng đột tử
Suy dinh dưỡng ở trẻ em: vấn đề của kinh tế
Sàng lọc trẻ sơ sinh trên phạm vi toàn quốc
Tai nạn y khoa trong bệnh viện
Thế nào là một "bài báo khoa học"
Thế nào là “Cơ sở khoa học” ?
Thịt chó là nguyên nhân của bệnh tiêu chảy cấp tính?
Thịt chó và bệnh tả: nguyên nhân và yếu tố nguy cơ
Tiên lượng bệnh Alzheimer bằng protein expression ?
Tiêu chuẩn chất lượng giáo dục đại học
Tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì cho người Việt - Nguyễn Văn Tuấn
Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh đái tháo đường (diabetes mellitus)
Tiêu chuẩn đề bạt giáo sư: Có nên căn cứ vào số lượng bài báo ?
Tiêu chảy cấp tính và bệnh tả: Định danh cho đúng
Truy tìm ung thư bằng mammography từ tuổi 50
Truyền thông và khoa học: Qui ước Ingelfinger
Truyền thông và y tế
Truyền thông, khoa học và … doanh nghiệp
Trà xanh và sức khỏe
Trách nhiệm và nhân đạo trong vấn đề chất độc da cam
Trái chanh và phòng chống bệnh tả
Trả lời những câu hỏi liên quan đến loãng xương
Trọng lượng cơ thể và tử vong ở người Trung Quốc: Ý nghĩa về việc xác định tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì
Tuổi thọ của người dân giảm 10 năm ?
Tác dụng Placebo trong y học: Tâm lí và ý nghĩa
Tình yêu, sắc đẹp nhìn dưới quan điểm di truyền học
Tín hiệu môi trường từ những “làng ung thư”
Tính khoa học và minh bạch đằng sau xét nghiệm doping
Tại sao không phát biểu về nguyên nhân và hệ quả ?
Tại sao uống rượu gây đỏ mặt và nguy cơ ung thư thực quản
Tạo sinh vô tính và cái chết của Thượng đế
Tạo sinh vô tính và vấn đề sinh đạo đức
Tản mạn về SARS
Tỉ lệ tử vong do cúm heo là bao nhiêu ?
Tự trị, chất lượng và y đức thay vì cổ phần hóa bệnh viện công
Ung thư vú và vấn đề thông tin y khoa
Uống bia hấp dẫn muỗi
Vaccine phòng chống AIDS hiệu quả đến đâu ?
Vaccine phòng chống cúm A/H1N1
Vi khuẩn gây tiêu chảy và ý nghĩa tiêm chủng
Vi khuẩn tả trong chó ?
Viết văn có thể chữa nhiều loại bệnh
Viết văn và trị liệu
Việc ta, ta cứ làm!
Vài nhận xét về 12 điều lệ y đức của Việt Nam
Vài thông tin cần biết về các chương trình truy tìm ung thư vú
Vài đóng góp quan trọng của người Việt khoa học thống kê
Văn hóa khoa học
Văn hóa tranh luận và vấn đề ngụy biện
Vấn đề sinh tố: kẽm và đồng
Vấn đề truy tìm ung thư phổi và hiệu quả 
Vấn đề y đức trong nghiên cứu tế bào mầm (stem cells)
Vấn đề đo lường melamine
Vấn đề đào tạo tiến sĩ: kinh nghiệm từ Australia
Vắc-xin phòng chống ung thư cổ tử cung
Vắcxin ngừa viêm gan B: cẩn thận với “nhiễu thông tin”
Vắcxin ngừa viêm gan B: kinh nghiệm từ nước ngoài
Vắcxin phòng bệnh sởi - quai bị - Rubella: lợi và hại
Vắcxin phòng chống ung thư cổ tử cung: hiệu quả lâm sàng và kinh tế
Vắcxin phòng ngừa bệnh tả: rất cần thiết
Về chấn chỉnh đào tạo tiến sĩ: Công bố bài báo khoa học là một thách thức lớn ?
Về học vị tiến sĩ
Về một sự hiểu lầm thuật ngữ "prospective"
Về phản ứng phụ của bisphosphonates liên quan đến hoại tử xương hàm và rung nhĩ
Vệ sinh như là một loại hàng hóa
Vị thế của nền khoa học Việt Nam
Xung quang xì căng đan về nghiên cứu tế bào mầm
Xã hội hóa và an toàn thực phẩm
Xếp hạng đại học: cần minh bạch hóa phương pháp
Y học hiện đại và những hứa hẹn
Y học thực chứng: vài nét khái quát
Y Khoa và những nhầm lẫn chết người
Y tế dự phòng: nền tảng của y khoa hiện đại
Y đức và nghiên cứu y học
Ói mửa, cao huyết áp và hôn mê
Ăn chay như là một trị liệu
Ăn chay và loãng xương
Điều trị bệnh dựa vào màu da ?
Điều trị đau dây thần kinh tọa bằng phẫu thuật: không có hiệu quả
Đo lường hiệu suất khoa học
Đánh giá đúng tầm quan trọng của ung thư vú 
Đại dịch H1N1
Đại dịch và đại dịch ảo
Đại dịch đã đến ?
Đạo văn trong hoạt động khoa học
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đằng sau những con số hàm lượng đạm trong sữa
Đế quốc Trà
Đề bạt các chức danh khoa bảng: vài kinh nghiệm từ Úc
Đọc lại 12 điều y đức của Việt Nam
Đồi điều về sữa nhiễm melamine
Đừng quên melamine trong các thực phẩm khác!
Ước vọng 200 ?
“Kỹ năng mềm” cho nhà khoa học
“Sẽ” và “có thể”


Trang nhiều tác giả
Trang riêng của Lê Ngọc Dũng
Trang riêng của Lương Lễ Hoàng
Trang riêng của Nguyễn Bảo Trung
Trang riêng của Nguyễn Hoài Nam
Trang riêng của Nguyễn Hữu Đức
Trang riêng của Nguyễn Văn Tuấn
Trang riêng của Nguyễn Ý Đức
Trang riêng của Nguyễn Đình Nguyên
Trang riêng của Phan Xuân Trung
Trang riêng của Đỗ Hồng Ngọc
Trang riêng của Đỗ Minh Tuấn