NGUYỄN VĂN TUẤN

Lợi ích của vitamin D

(trời cho nắng sao ta chưa phơi!)

Nguyễn Văn Tuấn

Một khám phá mới đây về mối liên hệ giữa vitamin D và ung thư, cùng những hiểu biết về chức năng của sinh tố này trước đây, càng ngày càng khẳng định vai trò hết sức quan trọng của vitamin D trong việc duy trì sức khỏeTuy nhiên, một thực tế đáng quan ngại hiện nay là có quá nhiều người trong cộng đồng thiếu vitamin D, và tình trạng này có thể là một trong những yếu tố gây nên những bệnh tật mãn tính hiện nay.

Kết quả nghiên cứu lâm sàng mới công bố trên một tập san y khoa bên Mĩ cho thấy phụ nữ được bổ sung vitamin D và calcium giảm nguy cơ mắc bệnh ung thư gần 80%.  Quan trọng hơn, nồng độ vitamin D trong máu càng cao, nguy cơ mắc bệnh ung thư càng thấp; và ngược lại, những người có nồng độ vitamin D thấp thì nguy cơ mắc bệnh ung thư tăng cao.  Phát hiện trên đây có ý nghĩa rất lớn đến việc phòng chống ung thư và bệnh tật ở qui mô cộng đồng, bởi vì bổ sung vitamin D tương đối rẻ tiền và cũng không gây ra những ảnh hưởng phụ nguy hiểm. 

Vitamin D: không chỉ có ích cho xương

Vitamin D không phải là một “sinh tố” bình thường (như sinh tố A, B, C) mà thực chất là một loại hormone hay kích thích tố.  Vitamin D thường được sản xuất chủ yếu qua ánh nắng mặt trời.  Khi phơi nắng, da chúng ta tiếp xúc với tia tử ngoại (UVB), một lượng cholecalciferol được sản xinh dưới da.  Các tế bào mỡ tiếp tục vận chuyển cholecalciferol vào hệ thống tuần hoàn, và sẽ trải qua hai giai đoạn chuyển hóa.  Giai đoạn thứ nhất, cholecalciferol trải qua một qui trình chuyển hóa và sản sinh ra 25-hydroxyvitamin D, thường hay viết tắt là 25(OH)D3. Trong giai đoạn hai, 25(OH)D3 được vận chuyển đến thận và chuyển hóa thành 1a25-hydroxyvitamin D (thường viết tắt là 1,25(OH)2D3).

Ảnh hưởng của thiếu vitamin D được ghi nhận vào thế kỉ 16 ở Âu châu.  Thời đó, cuộc cách mạng kĩ nghệ ở vùng bắc Âu thu hút rất nhiều công nhân từ các vùng phía nam, và người ta ghi nhận rằng con em của những công nhân di cư này thường có chứng còi xương (xương không cứng được), cơ thể chậm phát triển.  Mãi đến thế kỉ 19, có người lí giải rằng trẻ em bị còi xương là do thiếu phơi nắng mặt trời.  Sau đó, người ta một mặt khuyến khích phơi nắng, một mặt cho ăn dầu cá tuyết (cold fish, một loại dầu chứa nhiều vitamin D), và kết quả rất tuyệt vời: chứng còi xương được trị dứt.  

Từ đó, vitamin D được biết đến như là một hoạt chất có ảnh hưởng đến sự phát triển và duy trì xương.  Cơ chế chuyển hóa và hoạt động của vitamin D rất phức tạp, khó có thể mô tả trong một bài viết ngắn.  Tuy nhiên, qua nhiều nghiên cứu khoa học, chúng ta biết rằng vitamin D có chức năng kích thích sự hấp thu calcium của cơ thể, kích thích quá trình khoáng hóa để hình thành xương.  Bất cứ một hormone nào cũng phải hoạt động qua thụ thể (receptor), và thụ thể vitamin D có mặt hầu hết trong các tế bào.  Do đó, không ngạc nhiên khi thấy vitamin D ảnh hưởmg đến hàng loạt bệnh.

Thật vậy, ngày nay các nhà khoa học biết rằng thiếu hụt vitamin D không chỉ làm tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư, mà còn tăng nguy cơ mắc bệnh loãng xương, tim mạch, cao huyết áp, tai biến mạch máu não, đái tháo đường, vẫy nến, viêm đường ruột, viêm khớp, viêm gan, nhiễm trùng, lao phổi, v.v…  Người thiếu vitamin D thường hay bị đau nhức cơ bắp, hay bị té ngã và dễ bị gãy xương.  Ở những phụ nữ lúc mang thai, thiếu vitamin D làm tăng nguy cơ sinh con với chấn thương não, thậm chí dị tật.

Nhiều nghiên cứu dịch tễ học cho thấy cư dân sống ở các vùng  độ vĩ tuyến cao thường mắc bệnh cao huyết áp.  Khi bệnh nhân được cho phơi nắng thì hàm lượng vitamin D tăng 180%, và huyết áp giảm khoảng 6 mmHg.  Ngoài ra, bệnh nhân phơi nắng còn có tác dụng giảm LDL và tăng HDL cholesterol.

Một nghiên cứu trên 13.000 người Mĩ tuổi trên 20 cho thấy những người có nồng độ vitamin D thấp có nguy cơ tử vong tăng 26% so với những người có nồng độ vitamin D bình thường.  Một phân tích tổng hợp kết quả nghiên cứu từ các nghiên cứu lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên cho thấy bổ sung vitamin D với liều lượng 300-2000 IU/ngày giảm nguy cơ tử vong 7% sau 3 năm theo dõi.

Vitamin D và bệnh truyền nhiễm

Một số nghiên cứu gần đây còn cho thấy vitamin D đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao hệ thống miễn nhiễm.  Bác sĩ John Cannel có một kinh nghiệm thú vị trong nhà tù ở Los Angeles (Mĩ).  Khoảng 10 năm trước, nhà tù trải qua một trận dịch, rất nhiều tù nhân bị cảm cúm.  Tuy nhiên, có hai khu mà không tù nhân nào bị cảm cả, và khi kiểm tra thì mới biết hai khu này các tù nhân được cho uống vitamin D 2000 IU/ngày trước đó vài tháng.

Trong một nghiên cứu lâm sàng trên 67 bệnh nhân lao, khi họ được bổ sung vitamin D với liều lượng 10.000 IU/ngày sau 6 tuần, họ không có bất cứ triệu chứng đàm trong phổi.  Ngược lại, nhóm không uống vitamin D thì có 77% có đàm trong phổi.  Một quan sát tương tự ở London cũng đi đến kết luận rằng bổ sung vitamin D có khả năng điều trị bệnh lao phổi. 

Ở Phần Lan, các bác sĩ đo nồng độ vitamin D ở 800 lính mới nhập ngũ và xem có tương quan đến nguy cơ cảm cúm hay không.  Qua theo dõi ba tháng, họ phát hiện rằng nhóm có nồng độ vitamin D trên trung bình không ai bị viêm phổi, nhưng nhóm có nồng độ vitamin D thấp thì bị viêm phổi và cảm cúm tăng theo tỉ lệ ngịch với vitamin D.  Một nghiên cứu khác cho thấy bệnh nhân sử dụng statin (một loại thuốc giảm cholesterol) có khả năng tăng vitamin D, và đây có lẽ là lí do tại sao statin còn có khả năng chống viêm mà giới khoa học mới phát hiện gần đây.

Nguồn vitamin D

Vitamin D thường được xem là “vitamin D trời cho”, bởi vì như đề cập trên, được sản xuất từ ánh nắng mặt trời.  Khoảng 90-95% vitamin D trong cơ thể chúng ta là do da sản sinh, và chỉ 5-10% là do nguồn thực phẩm.  Thực phẩm chúng ta dùng hàng ngày chứa rất ít vitamin D.  Các loại cá giàu chất dầu như cá hồi, cá tuyết, cá thu, cá trích có lượng vitamin D cao hơn những cá khác.  Nấm phơi khô cũng chứa vitamin D.  Những cá và nấm trên đây hàm chứa khoảng 400-500 IU vitamin D tùy vào liều lượng ăn uống (IU là đơn vị quốc tế để đánh giá liều lượng vitamin D). 

Có nhiều nghiên cứu cho thấy vào mùa hè chỉ cần phơi nắng trong vòng vài phút (10-30 phút) hay đối với người có da trắng chờ đến khi da chuyển màu, lúc đó cơ thể chúng ta đã sản xuất được trung bình 20.000 IU vitamin D (nhưng ở một số người mức độ có thể dao động từ 10.000 đến 50,000 IU).  Da chúng ta có khả năng rất tuyệt vời, đó là phòng ngừa ngộ độc vitamin D.  Cho dù chúng ta phơi nắng cả giờ đồng hồ, và mức độ vitamin D sản xuất tăng trên 50.000 IU thì da vẫn có khả năng đào thải số lượng không cần thiết; do đó, trong lịch sử chưa có ai ngộ độc vitamin D vì phơi nắng.

Tình trạng thiếu vitamin D

Nghiên cứu dịch tễ học cho thấy những người sống ở các vùng với độ vĩ tuyến cao (như các nước bắc Âu, bắc Mĩ) mắc bệnh ung thư, xơ cứng bì, viêm khớp, đái tháo đường, tim mạch, tai biến, hay bị nhiễm trùng, v.v… Những vùng này cũng là những vùng thiếu vitamin D trầm trọng.  Mới đây, có nghiên cứu cho thấy tỉ lệ thiếu vitamin D trong dân số ở các nước bắc Âu và bắc Mĩ lên đến 50-70%.  Các giới chức y tế ở đây xem đó là một vấn nạn y tế công cộng, nên họ có chính sách bổ sung vitamin D trong thực phẩm như bơ sữa, nước cam, và bánh mì.

Vì vitamin D được sản xuất từ ánh nắng mặt trời, người ta thường lầm tưởng rằng ở những nước nhiệt đới như nước ta, không có vấn đề thiếu vitamin D.  Sự thật là ngược lại: một tỉ lệ lớn dân số trên thế giới, kể cả các nước nhiệt đới, thiếu vitamin D.  Theo ước tính của các chuyên gia, 40-50% dân số trên thế giới thiếu vitamin D.  Nghiên cứu ở Thái Lan và Mã Lai cho thấy cứ 100 người thì có khoảng 50 người thiếu vitamin D.  Riêng ở Nhật và Hàn Quốc, tỉ lệ thiếu vitamin D lên đến 80-90%!  

Và ở Việt Nam

Ở nước ta, chưa có một nghiên cứu nào đánh giá về tình trạng thiếu vitamin D trong cộng đồng.  Ngày nay, nhiều người có lẽ do muốn giữ làn da trắng, nên người ta thường bao kín mít tay, chân, mặt để … chống nắng.  Thói quen này có thể dẫn đến tình trạng thiếu vitamin D trong cơ thể nghiêm trọng.  Nếu các nghiên cứu trong vùng là những tín hiệu, chúng ta có thể đoán rằng tỉ lệ thiếu vitamin trong dân số cũng khoảng 40%.

Con người tiến hóa từ Phi châu.  Thời tiền sử, trong quá trình tiến hóa, con người không mặc quần áo, và ánh nắng mặt trời là nguồn vitamin D.  Nhưng trong vòng hai thế kỉ qua, con người thay đổi môi trường làm việc, ngồi trong văn phòng tránh ánh nắng mặt trời, indoors, lái xe, và gần đây nhất là bào chế những loại kem chống nắng.  Tất cả những phát triển này có hiệu quả làm giảm hàm lượng vitamin D trong cơ thể.  Do đó, không ngạc nhiên khi thấy rất nhiều người hiện nay thiếu vitamin D.  Không chỉ “thiếu”, mà còn “rất thiếu”.

Ở nước ta, các bệnh truyền nhiễm vẫn còn là một trong những nguyên nhân tử vong hàng đầu.  Ngoài bệnh truyền nhiễm, các bệnh liên quan đến “xã hội hiện đại” như tim mạch, tai biến mạch máu não, ung thư, viêm khớp, loãng xương, đái tháo đường… càng ngày càng tăng.  Tất cả các bệnh này đều liên quan đến vitamin D.  Thật ra, hầu như không một bệnh mãn tính nào mà không có liên hệ với vitamin D!  Trong một hội nghị về vitamin D diễn ra ở Mĩ vào năm ngoái, một chuyên gia hàng đầu cho rằng y học thế giới đang ở trong một “kỉ nguyên vitamin D”. 

Trong kỉ nguyên vitamin D, vẫn còn một loạt câu hỏi cần được đặt ra và cần nghiên cứu thêm ở nước ta.  Những câu hỏi thông thường nhất là: có bao nhiêu người Việt trong tình trạng thiếu vitamin D, nồng độ vitamin D bao nhiêu là tối ưu cho người Việt, mối liên hệ giữa các bệnh nhiễm trùng, dịch tả và vitamin D như thế nào, tại sao trẻ em ở thôn quê phơi nắng ít bị cảm cúm so với trẻ em ở thành thị, v.v…  Giải đáp cho những câu hỏi này chẳng những làm sáng tỏ vai trò của vitamin D trong việc phòng chống bệnh tật và giảm tử vong trong cộng đồng, mà còn thể hiện một đóng góp quan trọng cho y học quốc tế.

 


200 năm Darwin
Agent Orange: collateral damage
Alexandre Yersin và Việt Nam
Bàn về hiệu quả vắcxin: lâm sàng và kinh tế
Bàn về vấn đề dịch thuật và đánh giá năng suất khoa học
Béo phì ở người Á châu
Béo phì ở trẻ em và virus
Bình luận từ Dr. Yến
Bưởi không gây ung thư vú
Bảo hiểm y tế cộng đồng
Bảo tồn môi sinh: Chiến tranh giữa hai thế giới
Bằng chứng khoa học thay vì lên lớp
Bệnh tả: không để Việt Nam thành Bangladesh thứ hai
Bệnh tật nhìn từ quan điểm của thuyết tiến hóa
Bệnh xơ hóa cơ delta qua y văn thế giới
Bổ sung kẽm và điều trị bệnh tả
Bộ gen trong cây lúa và triển vọng
Bộ Y tế phản ứng chậm với rét đậm
Chiều cao của người Việt
Chiều cao và tổng thống Mĩ
Cholesterol và bệnh Tim
Cholesterol: hung thần hay bạn?
Chuột và... các nhà khoa học
Chính sách y tế cần dựa vào bằng chứng khoa học
Chạy đua vũ khí và … dịch cúm
Chất béo, cholesterol, bệnh tim và statins: xét lại bằng chứng
Chất keo xã hội: hormones
Chất lượng nghiên cứu dịch tễ học và y tế cộng đồng của Việt Nam qua chỉ số H
Chất lượng nghiên cứu khoa học ở Việt Nam qua chỉ số trích dẫn
Chất vấn chuẩn chẩn đoán béo phì
Chế độ ăn uống với nhiều thịt động vật và nguy cơ tử vong
Chủng vi khuẩn tả hiện nay ở nước ta có phải mới xuất hiện?
Cuộc chiến hóa học phi pháp lớn nhất trong lịch sử chiến tranh
Câu chuyện y học: Leptin và béo phì
Có bao nhiêu bác sĩ viết chữ khó đọc
Có nên tập trung vào vi khuẩn E. coli ?
Có thể xảy ra đại dịch cúm gia cầm?
Công cụ đơn giản để chẩn đoán tiểu đường ở người Đông Nam Á
Cúm gia cầm và nhiễu thông tin
Cúm H1N1: biết và chưa biết
Cơ hội để khép lại một chương lịch sử đau lòng
Cần hiểu đúng về Ung thư và nguy cơ ung thư
Cần qui ước đạo đức cho kĩ nghệ thực phẩm
Cần tiêm chủng ngừa bệnh tả vùng có nguy cơ cao
Cần điều tra về chất lượng bệnh viện
Cổ phần hóa bệnh viện công và chất lượng
Cổ phần hóa: chưa phải cách duy nhất
DDT và vấn đề cân đối giữa lợi ích và nguy hiểm
Dinh dưỡng: một nguồn thuốc quí giá
DNA không nói dối, nhưng DNA có thể nói … sai
Dịch cúm gà: hoang mang và sự thật khoa học
Dịch cúm heo và tác hại kinh tế
Dịch tay-chân-miệng
Dịch tả: gọi đúng tên để phòng ngừa
Dựa vào khoa học, đừng dựa vào niềm tin!
E. coli – vài câu hỏi thông thường
Gen và bệnh tật
Ghen tuông dưới cái nhìn của tâm lí y khoa
Gian lận trong nghiên cứu khoa học: áp lực kinh tế và cơ chế bình duyệt
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC: KHƠI DẬY VÀ NUÔI DƯỠNG TÍNH HAM HỌC
Giải nobel y học hay sinh lí học 2007 và lợi ích cho người bệnh
Giải Nobel Y sinh học 2008 và những tranh chấp khoa học
Giải Nobel y sinh học 2010 vinh danh người đem niềm vui cho người vô sinh
Giải Nobel y sinh học năm 2005: Một cõi đi về với vi khuẩn
Giải Nobel y sinh học: Nhìn lại quãng đường 100 năm
Giải phẫu ghép mặt và vấn đề y đức
Gout ở xương sống
Gãy xương và tử vong: một vấn nạn y tế cộng đồng
Hiệu quả vắcxin có nghĩa gì?
Hoa vàng mấy độc
Hàm lượng đạm trong sữa “siêu thấp” hay “siêu cao”?
Hóa chất khai hoang trong cuộc chiến Viện Nam: Qui mô và tầm ảnh hưởng
Hướng đi nào để giải quyết vấn đề chất độc da cam ở Việt Nam
Hậu “mắm tôm được minh oan”: bằng chứng khoa học, nhà xí và nghiên cứu
Hệ Thống Học Vị Và Học Hàm Khoa Học Ở Vài Nước Tây Phương
Hợp tác khoa học kiểu nhảy dù - Nguyễn Văn Tuấn
Khi bác sĩ trẻ “khoe” quá nhiều
Khoa học và ngụy khoa học: một vài đặc điểm và khác biệt cần biết
Khoa học, xã hội, và rủi ro
Không thể thành Phù Đổng trong 20 năm!
Khẩu trang và phòng chống cúm A/H1N1
Kiểm định giả thuyết mắm tôm và vi khuẩn tả
Liều lượng melamine bao nhiêu là an toàn?
Lí lịch sinh học của heo và dấu vết văn minh nông nghiệp Đông Nam Á
Lượng giá mạng sống con người
Lợi ích của vitamin D
Miệng nhà quan
Mắm tôm có phải là “thủ phạm” gây bệnh tả? Xét lại bằng chứng khoa học
Mắm tôm và chuyện xin lỗi
Mắm tôm và dịch tả: phân biệt yếu tố nguy cơ và nguyên nhân
Mắm tôm vô tội!
Mắm tôm, nguyên nhân và hệ quả
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Một bệnh hiếm X-linked recessive hypoparathyroidism
Một lần đi phỏng vấn
Một năm nhìn lại
Một phán quyết thiếu cơ sở khoa học
Một vài hiểu lầm tai hại
Một vài ngộ nhận về nghiên cứu khoa học
Một vài vấn đề về qui định chức danh giáo sư ở Việt Nam
Một vụ Madoff trong y khoa: Lại một ngôi sao y khoa rơi rụng!
Mỡ trắng, mỡ nâu
Mỡ  trong máu, huyết áp, và  tiểu đường
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nguyên nhân bệnh tiêu chảy
Ngó trên tay điếu thuốc đã lụi dần
Người cao tuổi và sự hạn chế của y khoa
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Nhân chuyện dịch tả nhớ lại John Snow
Nhân câu chuyện điện não đồ xét nghiệm nghiện ma túy:
Nhân năm khỉ_nguồn gốc con người hiện đại
Nhân năm Tý bàn chuyện thí nghiệm trên chuột
Nhìn lại khoa học Việt Nam năm 2008 qua công bố quốc tế
Nhầm lẫn trong y khoa: Khá phổ biến, nhưng ít ai biết!
Những câu hỏi và trả lời về dịch gia cầm
Những sai sót khó tin nhưng có thật
Những sai sót nguy hiểm trong toa thuốc
Những điều khó tin về “Bảy điều khó tin nhất trong y học”
Năm lí do cho mắm tôm “vô tội”
Phán quyết sau cùng: Chất béo không ảnh hưởng đến ung thư và bệnh tim
Phát hiện gien kiểm soát ráy tai: vài bài học về mò kim đáy biển
Phòng chống bệnh phải dựa vào bằng chứng khoa học!
Phòng chống H1N1 bằng rửa tay và khẩu trang: Biện pháp nào hiệu quả hơn?
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao và cân nặng: thiếu cơ sở khoa học và kì thị giới tính
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao: vấn đề giả định và bằng chứng khoa học
Quyền phê phán và trí thức
Quyền được tiếp cận hồ sơ bệnh án
Quản lý chất lượng: Thuốc phòng "tai nạn y khoa"
Rửa tay bằng xà phòng và tiêu chảy
Serotonin có liên quan đến chứng đột tử
Suy dinh dưỡng ở trẻ em: vấn đề của kinh tế
Sàng lọc trẻ sơ sinh trên phạm vi toàn quốc
Tai nạn y khoa trong bệnh viện
Thế nào là một "bài báo khoa học"
Thế nào là “Cơ sở khoa học” ?
Thịt chó là nguyên nhân của bệnh tiêu chảy cấp tính?
Thịt chó và bệnh tả: nguyên nhân và yếu tố nguy cơ
Tiên lượng bệnh Alzheimer bằng protein expression ?
Tiêu chuẩn chất lượng giáo dục đại học
Tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì cho người Việt - Nguyễn Văn Tuấn
Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh đái tháo đường (diabetes mellitus)
Tiêu chuẩn đề bạt giáo sư: Có nên căn cứ vào số lượng bài báo ?
Tiêu chảy cấp tính và bệnh tả: Định danh cho đúng
Truy tìm ung thư bằng mammography từ tuổi 50
Truyền thông và khoa học: Qui ước Ingelfinger
Truyền thông và y tế
Truyền thông, khoa học và … doanh nghiệp
Trà xanh và sức khỏe
Trách nhiệm và nhân đạo trong vấn đề chất độc da cam
Trái chanh và phòng chống bệnh tả
Trả lời những câu hỏi liên quan đến loãng xương
Trọng lượng cơ thể và tử vong ở người Trung Quốc: Ý nghĩa về việc xác định tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì
Tuổi thọ của người dân giảm 10 năm ?
Tác dụng Placebo trong y học: Tâm lí và ý nghĩa
Tình yêu, sắc đẹp nhìn dưới quan điểm di truyền học
Tín hiệu môi trường từ những “làng ung thư”
Tính khoa học và minh bạch đằng sau xét nghiệm doping
Tại sao không phát biểu về nguyên nhân và hệ quả ?
Tại sao uống rượu gây đỏ mặt và nguy cơ ung thư thực quản
Tạo sinh vô tính và cái chết của Thượng đế
Tạo sinh vô tính và vấn đề sinh đạo đức
Tản mạn về SARS
Tỉ lệ tử vong do cúm heo là bao nhiêu ?
Tự trị, chất lượng và y đức thay vì cổ phần hóa bệnh viện công
Ung thư vú và vấn đề thông tin y khoa
Uống bia hấp dẫn muỗi
Vaccine phòng chống AIDS hiệu quả đến đâu ?
Vaccine phòng chống cúm A/H1N1
Vi khuẩn gây tiêu chảy và ý nghĩa tiêm chủng
Vi khuẩn tả trong chó ?
Viết văn có thể chữa nhiều loại bệnh
Viết văn và trị liệu
Việc ta, ta cứ làm!
Vài nhận xét về 12 điều lệ y đức của Việt Nam
Vài thông tin cần biết về các chương trình truy tìm ung thư vú
Vài đóng góp quan trọng của người Việt khoa học thống kê
Văn hóa khoa học
Văn hóa tranh luận và vấn đề ngụy biện
Vấn đề sinh tố: kẽm và đồng
Vấn đề truy tìm ung thư phổi và hiệu quả 
Vấn đề y đức trong nghiên cứu tế bào mầm (stem cells)
Vấn đề đo lường melamine
Vấn đề đào tạo tiến sĩ: kinh nghiệm từ Australia
Vắc-xin phòng chống ung thư cổ tử cung
Vắcxin ngừa viêm gan B: cẩn thận với “nhiễu thông tin”
Vắcxin ngừa viêm gan B: kinh nghiệm từ nước ngoài
Vắcxin phòng bệnh sởi - quai bị - Rubella: lợi và hại
Vắcxin phòng chống ung thư cổ tử cung: hiệu quả lâm sàng và kinh tế
Vắcxin phòng ngừa bệnh tả: rất cần thiết
Về chấn chỉnh đào tạo tiến sĩ: Công bố bài báo khoa học là một thách thức lớn ?
Về học vị tiến sĩ
Về một sự hiểu lầm thuật ngữ "prospective"
Về phản ứng phụ của bisphosphonates liên quan đến hoại tử xương hàm và rung nhĩ
Vệ sinh như là một loại hàng hóa
Vị thế của nền khoa học Việt Nam
Xung quang xì căng đan về nghiên cứu tế bào mầm
Xã hội hóa và an toàn thực phẩm
Xếp hạng đại học: cần minh bạch hóa phương pháp
Y học hiện đại và những hứa hẹn
Y học thực chứng: vài nét khái quát
Y Khoa và những nhầm lẫn chết người
Y tế dự phòng: nền tảng của y khoa hiện đại
Y đức và nghiên cứu y học
Ói mửa, cao huyết áp và hôn mê
Ăn chay như là một trị liệu
Ăn chay và loãng xương
Điều trị bệnh dựa vào màu da ?
Điều trị đau dây thần kinh tọa bằng phẫu thuật: không có hiệu quả
Đo lường hiệu suất khoa học
Đánh giá đúng tầm quan trọng của ung thư vú 
Đại dịch H1N1
Đại dịch và đại dịch ảo
Đại dịch đã đến ?
Đạo văn trong hoạt động khoa học
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đằng sau những con số hàm lượng đạm trong sữa
Đế quốc Trà
Đề bạt các chức danh khoa bảng: vài kinh nghiệm từ Úc
Đọc lại 12 điều y đức của Việt Nam
Đồi điều về sữa nhiễm melamine
Đừng quên melamine trong các thực phẩm khác!
Ước vọng 200 ?
“Kỹ năng mềm” cho nhà khoa học
“Sẽ” và “có thể”


Trang nhiều tác giả
Trang riêng của Lê Ngọc Dũng
Trang riêng của Lương Lễ Hoàng
Trang riêng của Nguyễn Bảo Trung
Trang riêng của Nguyễn Hoài Nam
Trang riêng của Nguyễn Hữu Đức
Trang riêng của Nguyễn Văn Tuấn
Trang riêng của Nguyễn Ý Đức
Trang riêng của Nguyễn Đình Nguyên
Trang riêng của Phan Xuân Trung
Trang riêng của Đỗ Hồng Ngọc
Trang riêng của Đỗ Minh Tuấn