NGUYỄN VĂN TUẤN

Bình luận

Truy tìm ung thư bằng mammography từ tuổi 50

Nguyễn Văn Tuấn

Truy tìm ung thư qua chụp hình vú bằng quang tuyến (gọi là mammography) là một phương án được áp dụng rộng rãi ở các nước phương Tây.  Nhưng lợi và hại của phương pháp này là đề tài tranh luận từ cả 20 năm qua.  Một trong những điểm tranh luận về xét nghiệm ung thư vú là nên bắt đầu từ tuổi nào để đem lại lợi ích tối đa cho phụ nữ mà giảm ngân sách cho Nhà nước.

Mới đây, tập san Annals of Internal Medicine công bố một phác đồ mới về truy tìm ung thư.  Theo nhóm USPSTF (United States Preventative Services Task Force), phụ nữ Mĩ tuổi từ 50 trở lên nên thường xuyên đi khám ung thư vú mammography.  “Thường xuyên” ở đây có nghĩa là cứ 2 năm thì xét nghiệm một lần. 

Phác đồ mới nhất ra đời sau một thời gian tranh luận gay gắt giữa các nhóm chuyên nghiên cứu về ung thư.  Bảy năm trước đây, cũng nhóm USPSTF khuyến cáo phụ nữ nên thường xuyên khám ung thư vú bằng mammogram từ tuổi 40.  Nhưng có nhiều bằng chứng khoa học gần đây cho thấy xét nghiệm từ tuổi 40 không có hiệu quả ngăn ngừa ung thư vú hay giảm tỉ lệ tử vong từ bệnh này.  Do đó, dựa vào những bằng chứng mới nhất, nhóm USPSTF phân tích lợi và hại, và đi đến kết luận rằng xét nghiệm ung thư vú thường xuyên từ tuổi 50 là “tối ưu”.

Theo các dữ liệu nghiên cứu được trích dẫn trong bài báo, xét nghiệm ung thư vú từ tuổi 50 có thể giảm nguy cơ tử vong từ ung thư vú khoảng 15%.  Họ còn tính toán rằng cứ 1339 phụ nữ trong độ tuổi 50 đến 74 tham gia xét nghiệm suốt 10 năm, thì có thể giảm 1 ca tử vong.  Còn đối với phụ nữ trong độ tuổi 60 – 69, cứ 377 người xét nghiệm thường xuyên (trong vòng 10 năm) thì sẽ giảm được 1 ca tử vong.  Tuy hiệu quả rất khiêm tốn, nhưng đứng trên phương diện kinh tế, hiệu quả này có thể chấp nhận được.

Đương nhiên, không có phương pháp xét nghiệm nào được xem là hoàn hảo.  Đối với mammography, tỉ lệ dương tính thật (sensitivity) dao động từ 77% đến 95%, và tỉ lệ âm tính thật (specificity hay độ đặc hiệu) dao động từ 94% đến 97%, tùy thuộc vào độ tuổi, mật độ mô trong vú, thiết bị, và kĩ năng diển giải của bác sĩ chuyên khoa quang tuyến (16).  Điều này có nghĩa là trong số 100 phụ nữ có kết quả mammography dương tính, thì có đến 23 người không bị ung thư vú, nhưng trong số 100 người có kết quả âm tính thì có 6 người thật sự mắc bệnh ung thư vú.  Do đó, kết quả dương tính giả và âm tính giả là một trong những khiếm khuyết của xét nghiệm ung thư vú bằng mammography.

Một vấn đề khác là mammography phát hiện nhiều ung thư vú ở dạng “nhẹ” (DCIS, ductal carcinoma in situ), không gây tác hại lâu dài.  Nhưng nhiều phụ nữ với DCIS thường được giới thiệu đi xét nghiệm tiếp, thậm chí bị điều trị một cách không cần thiết.  Tuy nhiên, với phát triển mới trong công nghệ X quang, các chuyên gia hi vọng rằng tỉ lệ DCIS sẽ giảm dần trong tương lai.

Phác đồ khuyến cáo xét nghiệm ung thư vú thường xuyên từ tuổi 50 được hiểu như là một cách thức tiết kiệm ngân sách cho Nhà nước.  Theo ước tính của một chuyên gia ở MD Anderson Center (trung tâm chuyên điều trị và nghiên cứu về ung thư ở Texas, Mĩ) thì chỉ với phác đồ này, ông Obama đã tiết kiệm nhiều tỉ đôla.

Tình hình nước ta

Ở nước ta, theo tôi biết thì chưa có một phác đồ truy tìm ung thư vú ở phụ nữ.  Có lẽ chúng ta thiếu dữ liệu nghiên cứu, nên chưa thể có phác đồ gì rõ ràng.  Theo thống kê chưa đầy đủ ở nước ta, trong tất cả các loại ung thư mà phụ nữ mắc phải, ung thư vú thuộc vào bệnh phổ biến nhất (chiếm 22% trong tổng số ung thư ở phụ nữ).  Theo ước tính của tôi, nếu tỉ lệ ung thư vú là 26.7 trên 100.000 dân số (tuổi 40+) thì mỗi năm nước ta có khoảng 2600 phụ nữ bị ung thư vú. 

Câu hỏi đặt ra là nếu những dữ liệu của Mĩ áp dụng cho nước ta thì chúng ta có cần một chương trình xét nghiệm ung thư thường xuyên hay không?  Nếu chi phí một lần xét nghiệm mammography ở Việt Nam là 200.000 đồng (trong thực tế có lẽ thấp hơn), và nếu phụ nữ tuổi 50 tuổi phải xét nghiệm 10 lần (trong vòng 20 năm), thì chi phí xét nghiệm cho mỗi phụ nữ chỉ 2 triệu đồng.  Nhưng chúng ta cần xét nghiệm cho 1339 người để ngăn ngừa một ca tử vong, và điều này cũng có nghĩa là chi phí xét nghiệm 2.68 tỉ đồng (~148,000 USD) để giảm một ca tử vong.  Cố nhiên, chi phí này chưa kể đến chi phí điều trị.  Tuy nhiên, để giảm một ca tử vong với chi phí xét nghiệm ~148 ngàn USD,  tôi nghĩ cũng xứng đáng. 

Tuy nhiên, những tính toán trên dựa vào giả định khoa học lấy từ nghiên cứu trên các phụ nữ Mĩ.  Chúng ta vẫn không có những dữ liệu như thế ở Việt Nam, và các ước tính trên có thể chưa đúng.  Chúng ta cần nhiều nghiên cứu hơn nữa để tìm hiểu kĩ hơn về tỉ lệ mắc bệnh ung thư (kể cả ung thư vú), yếu tố nguy cơ, chi phí điều trị và hiệu quả của chương trình truy tìm ung thư. 

Tham khảo:

U.S. Preventive Services Task Force. Screening for Breast Cancer: U.S. Preventive Services Task Force Recommendation Statement.  Ann Int Med 2009; 151:10 716-726

http://www.annals.org/content/151/10/716.full

Truy tìm ung thư và thông điệp một chiều

 


200 năm Darwin
Agent Orange: collateral damage
Alexandre Yersin và Việt Nam
Bàn về hiệu quả vắcxin: lâm sàng và kinh tế
Bàn về vấn đề dịch thuật và đánh giá năng suất khoa học
Béo phì ở người Á châu
Béo phì ở trẻ em và virus
Bình luận từ Dr. Yến
Bưởi không gây ung thư vú
Bảo hiểm y tế cộng đồng
Bảo tồn môi sinh: Chiến tranh giữa hai thế giới
Bằng chứng khoa học thay vì lên lớp
Bệnh tả: không để Việt Nam thành Bangladesh thứ hai
Bệnh tật nhìn từ quan điểm của thuyết tiến hóa
Bệnh xơ hóa cơ delta qua y văn thế giới
Bổ sung kẽm và điều trị bệnh tả
Bộ gen trong cây lúa và triển vọng
Bộ Y tế phản ứng chậm với rét đậm
Chiều cao của người Việt
Chiều cao và tổng thống Mĩ
Cholesterol và bệnh Tim
Cholesterol: hung thần hay bạn?
Chuột và... các nhà khoa học
Chính sách y tế cần dựa vào bằng chứng khoa học
Chạy đua vũ khí và … dịch cúm
Chất béo, cholesterol, bệnh tim và statins: xét lại bằng chứng
Chất keo xã hội: hormones
Chất lượng nghiên cứu dịch tễ học và y tế cộng đồng của Việt Nam qua chỉ số H
Chất lượng nghiên cứu khoa học ở Việt Nam qua chỉ số trích dẫn
Chất vấn chuẩn chẩn đoán béo phì
Chế độ ăn uống với nhiều thịt động vật và nguy cơ tử vong
Chủng vi khuẩn tả hiện nay ở nước ta có phải mới xuất hiện?
Cuộc chiến hóa học phi pháp lớn nhất trong lịch sử chiến tranh
Câu chuyện y học: Leptin và béo phì
Có bao nhiêu bác sĩ viết chữ khó đọc
Có nên tập trung vào vi khuẩn E. coli ?
Có thể xảy ra đại dịch cúm gia cầm?
Công cụ đơn giản để chẩn đoán tiểu đường ở người Đông Nam Á
Cúm gia cầm và nhiễu thông tin
Cúm H1N1: biết và chưa biết
Cơ hội để khép lại một chương lịch sử đau lòng
Cần hiểu đúng về Ung thư và nguy cơ ung thư
Cần qui ước đạo đức cho kĩ nghệ thực phẩm
Cần tiêm chủng ngừa bệnh tả vùng có nguy cơ cao
Cần điều tra về chất lượng bệnh viện
Cổ phần hóa bệnh viện công và chất lượng
Cổ phần hóa: chưa phải cách duy nhất
DDT và vấn đề cân đối giữa lợi ích và nguy hiểm
Dinh dưỡng: một nguồn thuốc quí giá
DNA không nói dối, nhưng DNA có thể nói … sai
Dịch cúm gà: hoang mang và sự thật khoa học
Dịch cúm heo và tác hại kinh tế
Dịch tay-chân-miệng
Dịch tả: gọi đúng tên để phòng ngừa
Dựa vào khoa học, đừng dựa vào niềm tin!
E. coli – vài câu hỏi thông thường
Gen và bệnh tật
Ghen tuông dưới cái nhìn của tâm lí y khoa
Gian lận trong nghiên cứu khoa học: áp lực kinh tế và cơ chế bình duyệt
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC: KHƠI DẬY VÀ NUÔI DƯỠNG TÍNH HAM HỌC
Giải nobel y học hay sinh lí học 2007 và lợi ích cho người bệnh
Giải Nobel Y sinh học 2008 và những tranh chấp khoa học
Giải Nobel y sinh học 2010 vinh danh người đem niềm vui cho người vô sinh
Giải Nobel y sinh học năm 2005: Một cõi đi về với vi khuẩn
Giải Nobel y sinh học: Nhìn lại quãng đường 100 năm
Giải phẫu ghép mặt và vấn đề y đức
Gout ở xương sống
Gãy xương và tử vong: một vấn nạn y tế cộng đồng
Hiệu quả vắcxin có nghĩa gì?
Hoa vàng mấy độc
Hàm lượng đạm trong sữa “siêu thấp” hay “siêu cao”?
Hóa chất khai hoang trong cuộc chiến Viện Nam: Qui mô và tầm ảnh hưởng
Hướng đi nào để giải quyết vấn đề chất độc da cam ở Việt Nam
Hậu “mắm tôm được minh oan”: bằng chứng khoa học, nhà xí và nghiên cứu
Hệ Thống Học Vị Và Học Hàm Khoa Học Ở Vài Nước Tây Phương
Hợp tác khoa học kiểu nhảy dù - Nguyễn Văn Tuấn
Khi bác sĩ trẻ “khoe” quá nhiều
Khoa học và ngụy khoa học: một vài đặc điểm và khác biệt cần biết
Khoa học, xã hội, và rủi ro
Không thể thành Phù Đổng trong 20 năm!
Khẩu trang và phòng chống cúm A/H1N1
Kiểm định giả thuyết mắm tôm và vi khuẩn tả
Liều lượng melamine bao nhiêu là an toàn?
Lí lịch sinh học của heo và dấu vết văn minh nông nghiệp Đông Nam Á
Lượng giá mạng sống con người
Lợi ích của vitamin D
Miệng nhà quan
Mắm tôm có phải là “thủ phạm” gây bệnh tả? Xét lại bằng chứng khoa học
Mắm tôm và chuyện xin lỗi
Mắm tôm và dịch tả: phân biệt yếu tố nguy cơ và nguyên nhân
Mắm tôm vô tội!
Mắm tôm, nguyên nhân và hệ quả
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Một bệnh hiếm X-linked recessive hypoparathyroidism
Một lần đi phỏng vấn
Một năm nhìn lại
Một phán quyết thiếu cơ sở khoa học
Một vài hiểu lầm tai hại
Một vài ngộ nhận về nghiên cứu khoa học
Một vài vấn đề về qui định chức danh giáo sư ở Việt Nam
Một vụ Madoff trong y khoa: Lại một ngôi sao y khoa rơi rụng!
Mỡ trắng, mỡ nâu
Mỡ  trong máu, huyết áp, và  tiểu đường
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nguyên nhân bệnh tiêu chảy
Ngó trên tay điếu thuốc đã lụi dần
Người cao tuổi và sự hạn chế của y khoa
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Nhân chuyện dịch tả nhớ lại John Snow
Nhân câu chuyện điện não đồ xét nghiệm nghiện ma túy:
Nhân năm khỉ_nguồn gốc con người hiện đại
Nhân năm Tý bàn chuyện thí nghiệm trên chuột
Nhìn lại khoa học Việt Nam năm 2008 qua công bố quốc tế
Nhầm lẫn trong y khoa: Khá phổ biến, nhưng ít ai biết!
Những câu hỏi và trả lời về dịch gia cầm
Những sai sót khó tin nhưng có thật
Những sai sót nguy hiểm trong toa thuốc
Những điều khó tin về “Bảy điều khó tin nhất trong y học”
Năm lí do cho mắm tôm “vô tội”
Phán quyết sau cùng: Chất béo không ảnh hưởng đến ung thư và bệnh tim
Phát hiện gien kiểm soát ráy tai: vài bài học về mò kim đáy biển
Phòng chống bệnh phải dựa vào bằng chứng khoa học!
Phòng chống H1N1 bằng rửa tay và khẩu trang: Biện pháp nào hiệu quả hơn?
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao và cân nặng: thiếu cơ sở khoa học và kì thị giới tính
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao: vấn đề giả định và bằng chứng khoa học
Quyền phê phán và trí thức
Quyền được tiếp cận hồ sơ bệnh án
Quản lý chất lượng: Thuốc phòng "tai nạn y khoa"
Rửa tay bằng xà phòng và tiêu chảy
Serotonin có liên quan đến chứng đột tử
Suy dinh dưỡng ở trẻ em: vấn đề của kinh tế
Sàng lọc trẻ sơ sinh trên phạm vi toàn quốc
Tai nạn y khoa trong bệnh viện
Thế nào là một "bài báo khoa học"
Thế nào là “Cơ sở khoa học” ?
Thịt chó là nguyên nhân của bệnh tiêu chảy cấp tính?
Thịt chó và bệnh tả: nguyên nhân và yếu tố nguy cơ
Tiên lượng bệnh Alzheimer bằng protein expression ?
Tiêu chuẩn chất lượng giáo dục đại học
Tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì cho người Việt - Nguyễn Văn Tuấn
Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh đái tháo đường (diabetes mellitus)
Tiêu chuẩn đề bạt giáo sư: Có nên căn cứ vào số lượng bài báo ?
Tiêu chảy cấp tính và bệnh tả: Định danh cho đúng
Truy tìm ung thư bằng mammography từ tuổi 50
Truyền thông và khoa học: Qui ước Ingelfinger
Truyền thông và y tế
Truyền thông, khoa học và … doanh nghiệp
Trà xanh và sức khỏe
Trách nhiệm và nhân đạo trong vấn đề chất độc da cam
Trái chanh và phòng chống bệnh tả
Trả lời những câu hỏi liên quan đến loãng xương
Trọng lượng cơ thể và tử vong ở người Trung Quốc: Ý nghĩa về việc xác định tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì
Tuổi thọ của người dân giảm 10 năm ?
Tác dụng Placebo trong y học: Tâm lí và ý nghĩa
Tình yêu, sắc đẹp nhìn dưới quan điểm di truyền học
Tín hiệu môi trường từ những “làng ung thư”
Tính khoa học và minh bạch đằng sau xét nghiệm doping
Tại sao không phát biểu về nguyên nhân và hệ quả ?
Tại sao uống rượu gây đỏ mặt và nguy cơ ung thư thực quản
Tạo sinh vô tính và cái chết của Thượng đế
Tạo sinh vô tính và vấn đề sinh đạo đức
Tản mạn về SARS
Tỉ lệ tử vong do cúm heo là bao nhiêu ?
Tự trị, chất lượng và y đức thay vì cổ phần hóa bệnh viện công
Ung thư vú và vấn đề thông tin y khoa
Uống bia hấp dẫn muỗi
Vaccine phòng chống AIDS hiệu quả đến đâu ?
Vaccine phòng chống cúm A/H1N1
Vi khuẩn gây tiêu chảy và ý nghĩa tiêm chủng
Vi khuẩn tả trong chó ?
Viết văn có thể chữa nhiều loại bệnh
Viết văn và trị liệu
Việc ta, ta cứ làm!
Vài nhận xét về 12 điều lệ y đức của Việt Nam
Vài thông tin cần biết về các chương trình truy tìm ung thư vú
Vài đóng góp quan trọng của người Việt khoa học thống kê
Văn hóa khoa học
Văn hóa tranh luận và vấn đề ngụy biện
Vấn đề sinh tố: kẽm và đồng
Vấn đề truy tìm ung thư phổi và hiệu quả 
Vấn đề y đức trong nghiên cứu tế bào mầm (stem cells)
Vấn đề đo lường melamine
Vấn đề đào tạo tiến sĩ: kinh nghiệm từ Australia
Vắc-xin phòng chống ung thư cổ tử cung
Vắcxin ngừa viêm gan B: cẩn thận với “nhiễu thông tin”
Vắcxin ngừa viêm gan B: kinh nghiệm từ nước ngoài
Vắcxin phòng bệnh sởi - quai bị - Rubella: lợi và hại
Vắcxin phòng chống ung thư cổ tử cung: hiệu quả lâm sàng và kinh tế
Vắcxin phòng ngừa bệnh tả: rất cần thiết
Về chấn chỉnh đào tạo tiến sĩ: Công bố bài báo khoa học là một thách thức lớn ?
Về học vị tiến sĩ
Về một sự hiểu lầm thuật ngữ "prospective"
Về phản ứng phụ của bisphosphonates liên quan đến hoại tử xương hàm và rung nhĩ
Vệ sinh như là một loại hàng hóa
Vị thế của nền khoa học Việt Nam
Xung quang xì căng đan về nghiên cứu tế bào mầm
Xã hội hóa và an toàn thực phẩm
Xếp hạng đại học: cần minh bạch hóa phương pháp
Y học hiện đại và những hứa hẹn
Y học thực chứng: vài nét khái quát
Y Khoa và những nhầm lẫn chết người
Y tế dự phòng: nền tảng của y khoa hiện đại
Y đức và nghiên cứu y học
Ói mửa, cao huyết áp và hôn mê
Ăn chay như là một trị liệu
Ăn chay và loãng xương
Điều trị bệnh dựa vào màu da ?
Điều trị đau dây thần kinh tọa bằng phẫu thuật: không có hiệu quả
Đo lường hiệu suất khoa học
Đánh giá đúng tầm quan trọng của ung thư vú 
Đại dịch H1N1
Đại dịch và đại dịch ảo
Đại dịch đã đến ?
Đạo văn trong hoạt động khoa học
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đằng sau những con số hàm lượng đạm trong sữa
Đế quốc Trà
Đề bạt các chức danh khoa bảng: vài kinh nghiệm từ Úc
Đọc lại 12 điều y đức của Việt Nam
Đồi điều về sữa nhiễm melamine
Đừng quên melamine trong các thực phẩm khác!
Ước vọng 200 ?
“Kỹ năng mềm” cho nhà khoa học
“Sẽ” và “có thể”


Trang nhiều tác giả
Trang riêng của Lê Ngọc Dũng
Trang riêng của Lương Lễ Hoàng
Trang riêng của Nguyễn Bảo Trung
Trang riêng của Nguyễn Hoài Nam
Trang riêng của Nguyễn Hữu Đức
Trang riêng của Nguyễn Văn Tuấn
Trang riêng của Nguyễn Ý Đức
Trang riêng của Nguyễn Đình Nguyên
Trang riêng của Phan Xuân Trung
Trang riêng của Đỗ Hồng Ngọc
Trang riêng của Đỗ Minh Tuấn