NGUYỄN VĂN TUẤN

Về một sự hiểu lầm thuật ngữ "prospective"

Nguyễn Văn Tuấn

Mới đây có dịp về quê và được bạn bè tặng Tạp chí Tập chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh để đọc với câu viết kèm: "Mong được góp ý”. Đọc qua những bài báo y học thú vị trong tập san tôi thấy một sự hiểu lầm đáng lẽ không nên có về một số thuật ngữ dùng để mô tả loại hình thiết kế nghiên cứu y học. Đặc biệt là các tác giả không phân biệt được (và từ đó sử dụng sai) thuật ngữ "prospective" và dịch sang tiếng Việt là "tiền cứu". Bài viết ngắn này sẽ giải thích các loại hình nghiên cứu y học và đề nghị một cách sử dụng thuật ngữ chính xác hơn.

Phân biệt nghiên cứu: tổng quan

Nghiên cứu y học rất đa dạng về hình thức, đối tượng, phương pháp và phương án (cách thiết kế nghiên cứu). Người ta phải dùng nhiều thuật ngữ khoa học để phân biệt các nghiên cứu này, và qua đó mà người đọc có thể thẩm định giá trị khoa học của chúng. Có thể phân biệt các hình dạng nghiên cứu này dựa vào hai tiêu chí: thời gian đặc tính. Về thời gian, có thể phân biệt các nghiên cứu theo 3 phương án như sau:

  • cross-sectional study là những nghiên cứu thu thập dữ liệu tại một thời điểm. Tôi tạm dịch là "nghiên cứu tiêu biểu một thời điểm" (thay vì cách dịch "nghiên cứu cắt ngang" như đồng nghiệp trong nước hay sử dụng);

  • prospective study là những nghiên cứu có định hướng theo dõi tình trạng sức khỏe của đối tượng trong một thời gian. Nói cách khác, dữ liệu cho từng đối tượng được thu thập nhiều lần (hiện tại và tương lai). Vì thời gian tính, những nghiên cứu này có khi còn được gọi là longitudinal study, và vì thế tôi tạm dịch là "nghiên cứu theo thời gian" (thay vì cụm từ "tiền cứu" như đồng nghiệp trong nước hiện sử dụng);

  • case-control study (tạm dịch "nghiên cứu đối chứng”) là những nghiên cứu được tiến hành hiện tại, mà trong đó nhà nghiên cứu đã có thông tin về bệnh trạng của đối tượng, nhưng muốn tìm hiểu các yếu tố nguy cơ trong quá khứ (past) của đối tượng. Vì định hướng tìm về quá khứ nên những nghiên cứu này còn được gọi là retrospective study (mà có người dịch là "hồi cứu").

  • Nếu phân biệt theo đặc tính tự nhiên, có thể chia thành hai nhóm:

  • nghiên cứu can thiệp (interventional hay experimental study) là những nghiên cứu mà đối tượng được can thiệp. Cụm từ “can thiệp” ở đây phải được hiểu là sau khi đã tuyển được đối tượng vào nghiên cứu, họ sẽ được điều trị hay can thiệp trong tương lai. Can thiệp ở đây không có nghĩa là khi bệnh nhân đã được điều trị trong quá khứ và nhà nghiên cứu thu thập dữ liệu tại một thời điểm hiện tại. Các nghiên cứu lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên (randomized controlled clinical trial hay RCT) được xếp vào nhóm nghiên cứu can thiệp. Vì phải theo dõi đối tượng theo thời gian, nên các nghiên cứu RCT cũng chính là các nghiên cứu prospective (theo thời gian).

  • nghiên cứu quan sát (observational study). Ngược lại, tất cả các nghiên cứu không can thiệp đều được xếp chung trong nhóm nghiên cứu quan sát. Các nghiên cứu quan sát có thể là prospectiveretrospective (xem biểu đồ dưới đây).

  • Phân biệt loại hình nghiên cứu theo thời gian

    Phân biệt loại hình nghiên cứu theo đặc tính

    Phương án cho từng loại nghiên cứu

    Nghiên cứu tại một thời điểm hay cross-sectional study (được dịch theo nghĩa đen là "nghiên cứu cắt ngang"). Đây là một thiết kế mà các nhà nghiên cứu chọn một quần thể một cách ngẫu nhiên nhưng tiêu biểu cho một cộng đồng, tại một thời điểm nào đó. Nói cách khác, nhà nghiên cứu thu thập dữ liệu chỉ một lần duy nhất của các đối tượng ngay tại thời điểm đó (hiện tại). Mục đích chính của các nghiên cứu này là tìm hiểu tỉ lệ hiện hành (prevalence) của một bệnh nào đó, hay tìm hiểu mối tương quan giữa một yếu tố nguy cơ và một bệnh. Chẳng hạn như nếu chúng ta muốn tìm hiểu có bao nhiêu người trong độ tuổi 50 trở lên bị gãy xương ở dân số sống trong nông thôn và thành phố, chúng ta có thể tiến hành như sau:

  • bước thứ nhất: chọn một thành phố và một vùng nông thôn (với các tiêu chuẩn phù hợp cho định nghĩa thế nào là thành phố và thế nào là nông thôn), tìm hiểu xem có bao nhiêu quận và huyện;

  • bước thứ hai: lập danh sách đối tượng nghiên cứu, gồm những đàn ông và phụ nữ trên 50 tuổi;

  • bước thứ ba: sử dụng máy tính soạn một chương trình chọn (chẳng hạn như) 5% tổng số đối tượng đó một cách ngẫu nhiên;

  • bước thứ tư: thu thập dữ kiện các đối tượng được chọn tại một thời điểm. Vì nhà nghiên cứu không thể có thì giờ để thu thập dữ liệu của tất cả đối tượng tại một thời điểm cố định, nên các đối tượng được thu thập vào các thời điểm khác nhau. Nhưng dữ liệu chỉ được thu thập một lần duy nhất.

  • bước thứ năm: xác định xem có bao nhiêu người bị gãy xương trong đời (bất kể gãy xương ở độ tuổi nào), và phân tích mối liên hệ giữa các yếu tố lâm sàng và nguy cơ gãy xương.

  • Nghiên cứu đối chứng hay case-control study. Trong các nghiên cứu này, mục đích chính là tìm hiểu mối liên hệ giữa một (hay nhiều) yếu tố nguy cơ (risk factors) và một bệnh rất cụ thể. Để tiến hành nghiên cứu này, nhà nghiên cúu bắt đầu bằng một nhóm bệnh nhân và một nhóm đối tượng không bệnh (đối chứng), và "đi ngược thời gian” tìm hiểu những yếu tố nguy cơ mà cả hai nhóm phơi nhiễm trong quá khứ. Có thể minh họa công trình nghiên cứu tìm hiểu mối liên hệ giữa việc sử dụng liệu pháp thay thế hormone (hormone replacement therapy hay HRT) và gãy xương (fracture) như sau:

  • bước thứ nhất: chọn một nhóm bệnh nhân đã bị gãy xương (còn gọi là cases) mà nhà nghiên cứu muốn tìm hiểu;

  • bước thứ hai: chọn nhóm đối chứng (gọi là controls) không bị gãy xương, nhưng mỗi người trong nhóm này phải có cùng độ tuổi, cùng giới tính, và các yếu tố lâm sàng khác với nhóm đối tượng;

  • bước thứ ba: xem xét trong mỗi nhóm bệnh nhân và nhóm đối chứng có bao nhiêu người sử dụng HRT và bao nhiêu người không sử dụng HRT;

  • bước thứ tư: phân tích mối liên hệ giữa yếu tố nguy cơ (trong trường hợp này là sử dụng HRT) và nguy cơ gãy xương.

  • Nghiên cứu theo thời gian (longitudinal study hay prospective study). Ngược lại với nghiên cứu đối chứng (trường hợp nhà nghiên cứu biết ai mắc bệnh và ai không mắc bệnh), với các nghiên cứu theo thời gian nhà nghiên cứu bắt đầu bằng một nhóm không mắc bệnh, và theo dõi một thời gian sau để quan sát ai mắc bệnh hay không mắc bệnh trong thời gian đó. Ngược lại với nghiên cứu đối chứng (trường hợp nhà nghiên cứu đi ngược về quá khứ để tìm hiểu ai bị phơi nhiễm yếu tố nguy cơ), với các nghiên cứu theo thời gian, nhà nghiên cứu biết ngay từ lúc ban đầu ai bị phơi nhiễm hay không phơi nhiễm yếu tố nguy cơ.

    Mục đích của các nghiên cứu theo thời gian thường là ước tính tỉ lệ phát sinh (incidence) bệnh trong một thời gian (điều này khác với mục đích của nghiên cứu tại một thời điểm là ước tính tỉ lệ hiện hành – tức prevalence – của bệnh). Ngoài ra, các nghiên cứu theo thời gian còn cho phép nhà nghiên cứu tìm hiểu mối liên hệ giữa một hay nhiều yếu tố nguy cơ và nguy cơ phát sinh bệnh tật. Khác với nghiên cứu cross-section chỉ ghi nhận sự kiện tại một thời điểm, các nghiên cứu longitudinal phải theo dõi đối tượng trong một thời gian có thể là nhiều năm tháng. Do đó, các nghiên cứu theo thời gian thường tốn kém hơn và công phu hơn các nghiên cứu tại một thời điểm.

    Chẳng hạn như nhà nghiên cứu muốn tìm hiểu mối liên hệ giữa tỉ trọng cơ thể (body mass index – BMI) và nguy cơ tử viong, nhà nghiên cứu có thể tiến hành nghiên cứu theo qui trình sau đây:

  • bước thứ nhất: chọn một quần thể tiêu biểu gồm n người một cách ngẫu nhiên tại một địa phương (hay nhiều địa phương);

  • bước thứ hai: thu thập dữ liệu về chiều cao và cân nặng (để tính BMI) và các yếu tố nguy cơ khác ngay từ thời điểm t0 khi các đối tượng tham gia vào công trình nghiên cứu;

  • bước thứ ba: theo dõi quần thể trong một thời gian T và trong thời gian này, nhà nghiên cứu ghi nhận bao nhiêu người tử vong hay sống sót trong nhóm n đối tượng;

  • bước thứ tư: phân tích mối liên hệ giữa BMI tại thời điểm t0 và tỉ lệ tử vong trong thời gian T.

  • Nghiên cứu lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên (randomized controlled clinical trial - RCT). Các nghiên cứu vừa nêu trên (nghiên cứu tại một thời điểm, nghiên cứu theo thời gian, và nghiên cứu đối chứng) là những nghiên cứu quan sát (observational study), vì nhà nghiên cứu không can thiệp vào đối tượng. Ngược lại với các nghiên cứu quan sát, thử nghiệm RCT là những nghiên cứu nhằm thử nghiệm mức độ ảnh hưởng, mức độ hiệu nghiệm của một sự can thiệp (intervention). Có khá nhiều cách thiết kế nghiên cứu RCT, nhưng tôi chỉ nói đến một dạng nghiên cứu thông thường nhất: đó là nghiên cứu gồm hai nhóm bệnh nhân (còn gọi là parallel design). Để minh họa cho khái niệm RCT, tôi sẽ lấy ví dụ của công trình nghiên cứu Women’s Health Initiatives làm ví dụ. Trong công trình nghiên cứu này, các nhà nghiên cứu muốn thử nghiệm xem mức độ hiệu nghiệm của calcium và vitamin D trong việc phòng chống gãy xương ở các phụ nữ sau thời mãn kinh như thế nào. Họ tiến hành những bước sau đây:

  • bước thứ nhất: chọn một quần thể gồm 36.282 phụ nữ sau thời mãn kinh (tuổi từ 50 đến 79), thu thập tất cả các dữ liệu lâm sàng liên quan;

  • bước thứ hai: dùng máy tính để phân chia quần thể đó thành hai nhóm một cách ngẫu nhiên: nhóm 1 gồm có 18.176 phụ nữ được điều trị bằng calcium và vitamin D hàng ngày (nhóm can thiệp); nhóm 2 gồm 18.106 phụ nữ cùng độ tuổi nhưng không được bổ sung calcium hay vitamin D (còn gọi là nhóm đối chứng hay placebo);

  • bước thứ ba: theo dõi hai nhóm can thiệp và đối chưng trong thời gian 10 năm (tính trung bình là 7 năm, vì một số qua đời, một số mất liên lạc, và một số không muốn tiếp tục tham gia công trình nghiên cứu). Trong thời gian này, các nhà nghiên cứu tiếp tục thu thập dữ liệu lâm sàng và đo lương sinh hóa để theo dõi tình trạng của bệnh nhân, cũng như ghi nhận số phụ nữ bị gãy xương;

  • bước thứ tư: sau khi hết thời hạn theo dõi, các nhà nghiên cứu lên kế hoạch phân tích dữ liệu xem xét hiệu quả của vitamin D và calcium đến việc giảm nguy cơ gãy xương.

  • Như trình bày trên, nghiên cứu lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên chính là một nghiên cứu theo thời gian, tức là cũng theo dõi đối tượng trong một thời gian để ghi nhận biến cố mà nhà nghiên cứu quan tâm (như gãy xương hay tử vong chẳng hạn).

    Những hiểu lầm

    Sau khi điểm qua các thể loại nghiên cứu trên, chúng ta thử đọc qua bốn trường hợp trong Tập san Y học TPHCM như sau (chỉ là những trường hợp được chọn ngẫu nhiên trong một số báo):

    Trường hợp 1. Tác giả điều trị bằng phẫu thuật nội soi cho 172 bệnh nhân với sỏi đường mật trong thời gian từ tháng 1/2001 đến tháng 5/2005. Số liệu từ các bệnh nhân được thu thập tại một thời điểm. Nghiên cứu không có nhóm đối chứng (control). Trong phần tóm lược, tác giả mô tả như sau: “Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiền cứu những bệnh nhân mở ống mật chủ điều trị sỏi đường mật chính qua phẫu thuật …" và phần tiếng Anh: "Patients and Methods: A prospective study included 172 patients undergone laparoscopic CBD exploration for CBD stones treatment was conducted …"

    Nhận xét: Đây không phải là một nghiên cứu theo thời gian (prospective study) như tác giả phát biểu, bởi vì dữ liệu của bệnh nhân chỉ được thu thập một lần. Mặc dù nghiên cứu được tiến hành trong thời gian tháng 1/2001 đến tháng 5/2005, nhưng đây không phải là thời gian theo dõi, mà là thời gian tuyển mộ bệnh nhân cho công trình nghiên cứu. Vì thế, thuật ngữ chính xác nhất để mô tả nghiên cứu này là "cross-sectional stuy" hay nghiên cứu tại một thời điểm.

    Trường hợp 2. Trong một nghiên cứu về tỉ lệ lưu hành hội chứng chuyển hóa ở bệnh nhân động mạch vành, các tác giả thu thập dữ liệu ở 115 bệnh nhân động mạch vành, và dựa vào các tiêu chuẩn quốc tế để ước tính tỉ lệ bệnh nhân mắc chứng chuyển hóa (metabolic syndrome). Nghiên cứu này không có một nhóm đối chứng và các tác giả chỉ thu thập dữ liệu tại một thời điểm (nhưng không rõ vào năm nào). Trong phần Tóm tắt các tác giả mô tả nghiên cứu của họ như sau: "Phương pháp nghiên cứu: Mô tả, tiền cứu", và thêm phần tiếng Anh: "Methods: A prospective, descriptive study was conducted in 205 patients coronary artery stenosis …"

    Nhận xét: Người viết bài này không hiểu (và cũng không đồng ý với cụm từ “tiền cứu”, vì đã nói "tiền" tức là nói đến quá khứ - như “tiền sử” chẳng hạn, trong khi đây không phải là nghiên cứu về quá khứ). Điều chắc chắn là đây không phải là một nghiên cứu "prospective" như tác giả viết, bởi vì tác giả không theo dõi bệnh nhân trong một thời gian. Thuật ngữ thích hợp nhất nhất để mô tả nghiên cứu này là "cross-sectional stuy" hay nghiên cứu tại một thời điểm.

    Trường hợp 3. Một nghiên cứu khác đăng trong cùng số tạp chí đo mật độ chất khoáng trong xương (bone mineral density) ở 72 bệnh nhân dùng thuốc corticosteroid trên 3 tháng, để tìm hiểu tỉ lệ loãng xương là bao nhiêu. Nghiên cứu được mô tả bằng tiếng Việt là "Phương pháp: Thiết kế nghiên cứu cắt ngang mô tả", nhưng trong phần tiếng Anh thì phát biểu là "Method: A prospective, cross-sectional study was conducted 72 patients or longer corticosteroid …"

    Nhận xét: Ở đây, tác giả tỏ ra mâu thuẫn khi viết là một nghiên cứu dạng "prospective, cross-sectional study", vì như trình bày trong phần trên, một nghiên cứu tại một thời điểm (cross-sectional study) thì không thể nào là một nghiên cứu theo thời gian (prospective study). (Tuy nhiên, trong một nghiên cứu prospective và nếu tác giả phân tích số liệu tại thời điểm lúc ban đầu – baseline – thì phân tích đó gọi là "cross-sectional analysis"). Một lần nữa, thuật ngữ thích hợp nhất nhất để mô tả nghiên cứu này là "cross-sectional stuy" hay nghiên cứu tại một thời điểm.

    Trường hợp 4. Các tác giả điều trị bằng giải phẫu trên 46 bệnh nhân ung thư tâm vị trong thời gian từ tháng 1/1999 đến tháng 12/2005, và xem xét các chỉ tiêu an toàn sau khi giải phẫu. Nghiên cứu không có nhóm so sánh hay đối chứng, và số liệu chỉ được thu thập tại một thời điểm. Trong phần mô tả bằng tiếng Việt các tác giả cho biết “Phương pháp nghiên cứu: tiền cứu can thiệp, thống kê mô tả", nhưng trong phần tiếng Anh thì viết là "Patients and Methods: A prospective, cross-sectional study conducted from January 1999 to December 2005 in 46 patients …"

    Nhận xét: Cũng giống như trường hợp 1, các tác giả tuyển bệnh nhân trong thời gian từ tháng 1/1999 đến tháng 12/2005, và chỉ xem xét các chỉ tiêu an toàn sau khi giải phẫu tại một thời điểm. Vì thế, đây cũng không phải là một "prospective study" như tác giả viết, mà chỉ đơn giản là một nghiên cứu "cross-sectional" hay nghiên cứu tại một thời điểm.

    Vài hàng nhận xét chung

    Có lẽ có người sẽ nói những sai lầm về cách sử dụng thuật ngữ vừa trình bày chẳng có ảnh hưởng lớn đến nội dung của nghiên cứu. Điều này chỉ đúng một phần và chỉ áp dụng cho những trường hợp làm nghiên cứu tài tử hay thiếu nghiêm túc, nhưng không thể áp dụng cho các nghiên cứu mang tính hàn lâm và có ảnh hưởng đến định hướng điều trị bệnh nhân.

    Sử dụng thuật ngữ chính xác rất quan trọng trong khoa học. Khổng Tử từng nói "Nếu ngôn từ không được sử dụng đúng chỗ, thì những gì được phát biểu sẽ không còn ý nghĩa mà tác giả muốn nói; nếu những gì mình phát biểu vượt ra ngoài ý tưởng của mình thì những gì cần phải thực hiện sẽ không thực hiện được; và nếu những gì mình không thực hiện được, thì đạo đức và nghệ thuật sẽ suy thoái". Các nghiên cứu tại một thời điểm có giá trị khoa học thấp hơn các nghiên cứu theo thời gian. Cho nên phát biểu sai (bằng tiếng Anh) về hai thể loại nghiên cứu này rất dễ làm cho người đọc nước ngoài ngộ nhận về giá trị khoa học của các công trình nghiên cứu. Đó là chưa nói đến những suy nghĩ không mấy tích cực về các nhà nghiên cứu Việt Nam nếu họ biết được thực chất của vấn đề.

    Hiểu lầm về thuật ngữ "prospective" cũng có thể xuất phát từ vấn đề sử dụng tiếng Anh của tác giả hay của tập san. Tôi nói “vấn đề” là bởi vì những bài báo trong tập san có nhiều sai sót về cách viết tiếng Anh. Sai về văn phạm, ngữ pháp, ngữ vựng, đến thuật ngữ. Không thể liệt kê hết ở đây những sai sót về tiếng Anh, vì tần số sai sót quá nhiều và hiện diện trong mọi bài báo. Những sai sót như thế thật đáng ngại, vì nếu đồng nghiệp người nước ngoài đọc được các bài báo như thế họ sẽ có những cái nhìn không hay về đồng nghiệp trong nước.

    Thật ra, những sai lầm về sử dụng thuật ngữ (và tiếng Anh) không chỉ ngẫu nhiên hay mới xuất hiện trong số tạp chí mới nhất, mà còn có mặt trên giấy trắng mực đen của Tạp chí Y học TPHCM xuyên suốt từ hơn 10 năm nay. Đó là một hiện tượng học thuật không bình thường cho nền của y học nước nhà. Có lẽ đã đến lúc phải chấn chỉnh lại các tiêu chuẩn về một bài báo y học, kể cả vấn để thuật ngữ, sao cho phù hợp với các tiêu chuẩn mà quốc tế công nhận, và cũng là một đóng góp nâng cao sự hiện diện của nghiên cứu y học Việt Nam trên trường quốc tế.


    200 năm Darwin
    Agent Orange: collateral damage
    Alexandre Yersin và Việt Nam
    Bàn về hiệu quả vắcxin: lâm sàng và kinh tế
    Bàn về vấn đề dịch thuật và đánh giá năng suất khoa học
    Béo phì ở người Á châu
    Béo phì ở trẻ em và virus
    Bình luận từ Dr. Yến
    Bưởi không gây ung thư vú
    Bảo hiểm y tế cộng đồng
    Bảo tồn môi sinh: Chiến tranh giữa hai thế giới
    Bằng chứng khoa học thay vì lên lớp
    Bệnh tả: không để Việt Nam thành Bangladesh thứ hai
    Bệnh tật nhìn từ quan điểm của thuyết tiến hóa
    Bệnh xơ hóa cơ delta qua y văn thế giới
    Bổ sung kẽm và điều trị bệnh tả
    Bộ gen trong cây lúa và triển vọng
    Bộ Y tế phản ứng chậm với rét đậm
    Chiều cao của người Việt
    Chiều cao và tổng thống Mĩ
    Cholesterol và bệnh Tim
    Cholesterol: hung thần hay bạn?
    Chuột và... các nhà khoa học
    Chính sách y tế cần dựa vào bằng chứng khoa học
    Chạy đua vũ khí và … dịch cúm
    Chất béo, cholesterol, bệnh tim và statins: xét lại bằng chứng
    Chất keo xã hội: hormones
    Chất lượng nghiên cứu dịch tễ học và y tế cộng đồng của Việt Nam qua chỉ số H
    Chất lượng nghiên cứu khoa học ở Việt Nam qua chỉ số trích dẫn
    Chất vấn chuẩn chẩn đoán béo phì
    Chế độ ăn uống với nhiều thịt động vật và nguy cơ tử vong
    Chủng vi khuẩn tả hiện nay ở nước ta có phải mới xuất hiện?
    Cuộc chiến hóa học phi pháp lớn nhất trong lịch sử chiến tranh
    Câu chuyện y học: Leptin và béo phì
    Có bao nhiêu bác sĩ viết chữ khó đọc
    Có nên tập trung vào vi khuẩn E. coli ?
    Có thể xảy ra đại dịch cúm gia cầm?
    Công cụ đơn giản để chẩn đoán tiểu đường ở người Đông Nam Á
    Cúm gia cầm và nhiễu thông tin
    Cúm H1N1: biết và chưa biết
    Cơ hội để khép lại một chương lịch sử đau lòng
    Cần hiểu đúng về Ung thư và nguy cơ ung thư
    Cần qui ước đạo đức cho kĩ nghệ thực phẩm
    Cần tiêm chủng ngừa bệnh tả vùng có nguy cơ cao
    Cần điều tra về chất lượng bệnh viện
    Cổ phần hóa bệnh viện công và chất lượng
    Cổ phần hóa: chưa phải cách duy nhất
    DDT và vấn đề cân đối giữa lợi ích và nguy hiểm
    Dinh dưỡng: một nguồn thuốc quí giá
    DNA không nói dối, nhưng DNA có thể nói … sai
    Dịch cúm gà: hoang mang và sự thật khoa học
    Dịch cúm heo và tác hại kinh tế
    Dịch tay-chân-miệng
    Dịch tả: gọi đúng tên để phòng ngừa
    Dựa vào khoa học, đừng dựa vào niềm tin!
    E. coli – vài câu hỏi thông thường
    Gen và bệnh tật
    Ghen tuông dưới cái nhìn của tâm lí y khoa
    Gian lận trong nghiên cứu khoa học: áp lực kinh tế và cơ chế bình duyệt
    GIÁO DỤC ĐẠI HỌC: KHƠI DẬY VÀ NUÔI DƯỠNG TÍNH HAM HỌC
    Giải nobel y học hay sinh lí học 2007 và lợi ích cho người bệnh
    Giải Nobel Y sinh học 2008 và những tranh chấp khoa học
    Giải Nobel y sinh học 2010 vinh danh người đem niềm vui cho người vô sinh
    Giải Nobel y sinh học năm 2005: Một cõi đi về với vi khuẩn
    Giải Nobel y sinh học: Nhìn lại quãng đường 100 năm
    Giải phẫu ghép mặt và vấn đề y đức
    Gout ở xương sống
    Gãy xương và tử vong: một vấn nạn y tế cộng đồng
    Hiệu quả vắcxin có nghĩa gì?
    Hoa vàng mấy độc
    Hàm lượng đạm trong sữa “siêu thấp” hay “siêu cao”?
    Hóa chất khai hoang trong cuộc chiến Viện Nam: Qui mô và tầm ảnh hưởng
    Hướng đi nào để giải quyết vấn đề chất độc da cam ở Việt Nam
    Hậu “mắm tôm được minh oan”: bằng chứng khoa học, nhà xí và nghiên cứu
    Hệ Thống Học Vị Và Học Hàm Khoa Học Ở Vài Nước Tây Phương
    Hợp tác khoa học kiểu nhảy dù - Nguyễn Văn Tuấn
    Khi bác sĩ trẻ “khoe” quá nhiều
    Khoa học và ngụy khoa học: một vài đặc điểm và khác biệt cần biết
    Khoa học, xã hội, và rủi ro
    Không thể thành Phù Đổng trong 20 năm!
    Khẩu trang và phòng chống cúm A/H1N1
    Kiểm định giả thuyết mắm tôm và vi khuẩn tả
    Liều lượng melamine bao nhiêu là an toàn?
    Lí lịch sinh học của heo và dấu vết văn minh nông nghiệp Đông Nam Á
    Lượng giá mạng sống con người
    Lợi ích của vitamin D
    Miệng nhà quan
    Mắm tôm có phải là “thủ phạm” gây bệnh tả? Xét lại bằng chứng khoa học
    Mắm tôm và chuyện xin lỗi
    Mắm tôm và dịch tả: phân biệt yếu tố nguy cơ và nguyên nhân
    Mắm tôm vô tội!
    Mắm tôm, nguyên nhân và hệ quả
    Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
    Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
    Một bệnh hiếm X-linked recessive hypoparathyroidism
    Một lần đi phỏng vấn
    Một năm nhìn lại
    Một phán quyết thiếu cơ sở khoa học
    Một vài hiểu lầm tai hại
    Một vài ngộ nhận về nghiên cứu khoa học
    Một vài vấn đề về qui định chức danh giáo sư ở Việt Nam
    Một vụ Madoff trong y khoa: Lại một ngôi sao y khoa rơi rụng!
    Mỡ trắng, mỡ nâu
    Mỡ  trong máu, huyết áp, và  tiểu đường
    Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
    Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
    Nguyên nhân bệnh tiêu chảy
    Ngó trên tay điếu thuốc đã lụi dần
    Người cao tuổi và sự hạn chế của y khoa
    Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
    Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
    Nhân chuyện dịch tả nhớ lại John Snow
    Nhân câu chuyện điện não đồ xét nghiệm nghiện ma túy:
    Nhân năm khỉ_nguồn gốc con người hiện đại
    Nhân năm Tý bàn chuyện thí nghiệm trên chuột
    Nhìn lại khoa học Việt Nam năm 2008 qua công bố quốc tế
    Nhầm lẫn trong y khoa: Khá phổ biến, nhưng ít ai biết!
    Những câu hỏi và trả lời về dịch gia cầm
    Những sai sót khó tin nhưng có thật
    Những sai sót nguy hiểm trong toa thuốc
    Những điều khó tin về “Bảy điều khó tin nhất trong y học”
    Năm lí do cho mắm tôm “vô tội”
    Phán quyết sau cùng: Chất béo không ảnh hưởng đến ung thư và bệnh tim
    Phát hiện gien kiểm soát ráy tai: vài bài học về mò kim đáy biển
    Phòng chống bệnh phải dựa vào bằng chứng khoa học!
    Phòng chống H1N1 bằng rửa tay và khẩu trang: Biện pháp nào hiệu quả hơn?
    Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao và cân nặng: thiếu cơ sở khoa học và kì thị giới tính
    Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao: vấn đề giả định và bằng chứng khoa học
    Quyền phê phán và trí thức
    Quyền được tiếp cận hồ sơ bệnh án
    Quản lý chất lượng: Thuốc phòng "tai nạn y khoa"
    Rửa tay bằng xà phòng và tiêu chảy
    Serotonin có liên quan đến chứng đột tử
    Suy dinh dưỡng ở trẻ em: vấn đề của kinh tế
    Sàng lọc trẻ sơ sinh trên phạm vi toàn quốc
    Tai nạn y khoa trong bệnh viện
    Thế nào là một "bài báo khoa học"
    Thế nào là “Cơ sở khoa học” ?
    Thịt chó là nguyên nhân của bệnh tiêu chảy cấp tính?
    Thịt chó và bệnh tả: nguyên nhân và yếu tố nguy cơ
    Tiên lượng bệnh Alzheimer bằng protein expression ?
    Tiêu chuẩn chất lượng giáo dục đại học
    Tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì cho người Việt - Nguyễn Văn Tuấn
    Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh đái tháo đường (diabetes mellitus)
    Tiêu chuẩn đề bạt giáo sư: Có nên căn cứ vào số lượng bài báo ?
    Tiêu chảy cấp tính và bệnh tả: Định danh cho đúng
    Truy tìm ung thư bằng mammography từ tuổi 50
    Truyền thông và khoa học: Qui ước Ingelfinger
    Truyền thông và y tế
    Truyền thông, khoa học và … doanh nghiệp
    Trà xanh và sức khỏe
    Trách nhiệm và nhân đạo trong vấn đề chất độc da cam
    Trái chanh và phòng chống bệnh tả
    Trả lời những câu hỏi liên quan đến loãng xương
    Trọng lượng cơ thể và tử vong ở người Trung Quốc: Ý nghĩa về việc xác định tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì
    Tuổi thọ của người dân giảm 10 năm ?
    Tác dụng Placebo trong y học: Tâm lí và ý nghĩa
    Tình yêu, sắc đẹp nhìn dưới quan điểm di truyền học
    Tín hiệu môi trường từ những “làng ung thư”
    Tính khoa học và minh bạch đằng sau xét nghiệm doping
    Tại sao không phát biểu về nguyên nhân và hệ quả ?
    Tại sao uống rượu gây đỏ mặt và nguy cơ ung thư thực quản
    Tạo sinh vô tính và cái chết của Thượng đế
    Tạo sinh vô tính và vấn đề sinh đạo đức
    Tản mạn về SARS
    Tỉ lệ tử vong do cúm heo là bao nhiêu ?
    Tự trị, chất lượng và y đức thay vì cổ phần hóa bệnh viện công
    Ung thư vú và vấn đề thông tin y khoa
    Uống bia hấp dẫn muỗi
    Vaccine phòng chống AIDS hiệu quả đến đâu ?
    Vaccine phòng chống cúm A/H1N1
    Vi khuẩn gây tiêu chảy và ý nghĩa tiêm chủng
    Vi khuẩn tả trong chó ?
    Viết văn có thể chữa nhiều loại bệnh
    Viết văn và trị liệu
    Việc ta, ta cứ làm!
    Vài nhận xét về 12 điều lệ y đức của Việt Nam
    Vài thông tin cần biết về các chương trình truy tìm ung thư vú
    Vài đóng góp quan trọng của người Việt khoa học thống kê
    Văn hóa khoa học
    Văn hóa tranh luận và vấn đề ngụy biện
    Vấn đề sinh tố: kẽm và đồng
    Vấn đề truy tìm ung thư phổi và hiệu quả 
    Vấn đề y đức trong nghiên cứu tế bào mầm (stem cells)
    Vấn đề đo lường melamine
    Vấn đề đào tạo tiến sĩ: kinh nghiệm từ Australia
    Vắc-xin phòng chống ung thư cổ tử cung
    Vắcxin ngừa viêm gan B: cẩn thận với “nhiễu thông tin”
    Vắcxin ngừa viêm gan B: kinh nghiệm từ nước ngoài
    Vắcxin phòng bệnh sởi - quai bị - Rubella: lợi và hại
    Vắcxin phòng chống ung thư cổ tử cung: hiệu quả lâm sàng và kinh tế
    Vắcxin phòng ngừa bệnh tả: rất cần thiết
    Về chấn chỉnh đào tạo tiến sĩ: Công bố bài báo khoa học là một thách thức lớn ?
    Về học vị tiến sĩ
    Về một sự hiểu lầm thuật ngữ "prospective"
    Về phản ứng phụ của bisphosphonates liên quan đến hoại tử xương hàm và rung nhĩ
    Vệ sinh như là một loại hàng hóa
    Vị thế của nền khoa học Việt Nam
    Xung quang xì căng đan về nghiên cứu tế bào mầm
    Xã hội hóa và an toàn thực phẩm
    Xếp hạng đại học: cần minh bạch hóa phương pháp
    Y học hiện đại và những hứa hẹn
    Y học thực chứng: vài nét khái quát
    Y Khoa và những nhầm lẫn chết người
    Y tế dự phòng: nền tảng của y khoa hiện đại
    Y đức và nghiên cứu y học
    Ói mửa, cao huyết áp và hôn mê
    Ăn chay như là một trị liệu
    Ăn chay và loãng xương
    Điều trị bệnh dựa vào màu da ?
    Điều trị đau dây thần kinh tọa bằng phẫu thuật: không có hiệu quả
    Đo lường hiệu suất khoa học
    Đánh giá đúng tầm quan trọng của ung thư vú 
    Đại dịch H1N1
    Đại dịch và đại dịch ảo
    Đại dịch đã đến ?
    Đạo văn trong hoạt động khoa học
    Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
    Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
    Đằng sau những con số hàm lượng đạm trong sữa
    Đế quốc Trà
    Đề bạt các chức danh khoa bảng: vài kinh nghiệm từ Úc
    Đọc lại 12 điều y đức của Việt Nam
    Đồi điều về sữa nhiễm melamine
    Đừng quên melamine trong các thực phẩm khác!
    Ước vọng 200 ?
    “Kỹ năng mềm” cho nhà khoa học
    “Sẽ” và “có thể”


    Trang nhiều tác giả
    Trang riêng của Lê Ngọc Dũng
    Trang riêng của Lương Lễ Hoàng
    Trang riêng của Nguyễn Bảo Trung
    Trang riêng của Nguyễn Hoài Nam
    Trang riêng của Nguyễn Hữu Đức
    Trang riêng của Nguyễn Văn Tuấn
    Trang riêng của Nguyễn Ý Đức
    Trang riêng của Nguyễn Đình Nguyên
    Trang riêng của Phan Xuân Trung
    Trang riêng của Đỗ Hồng Ngọc
    Trang riêng của Đỗ Minh Tuấn