NGUYỄN VĂN TUẤN

Vi khuẩn gây tiêu chảy và ý nghĩa tiêm chủng

Nguyễn Văn Tuấn

            Trong các ý kiến trước, tôi có đề nghị nên xem xét một kế hoạch tiêm chủng cho những người đang ở trong vùng lũ lụt, nhất là trẻ em.  Tuy nhiên có ý kiến ngần ngại thực hiện chính sách tiêm chủng.  Tổ chức Y tế thế giới đã từng có khuyến cáo sử dụng vắc-xin phòng bệnh tả tại những vùng xảy ra lũ lụt.  Miền Trung đang xảy ra lũ lụt và có nguy cơ cao bộc phát bệnh tả và tiêu chảy.  Vậy tại sao các giới chức y tế vẫn còn ngần ngại?  Bài viết này điểm qua y văn về các vi khuẩn gây bệnh tiêu chảy ở nước ta và lặp lại đề nghị tiêm chủng cho những đối tượng có nguy cơ cao ở miền Trung.

Những con số về bệnh tả lại có xu hướng … nhảy đầm!  Theo báo chí thì “tính từ ngày 23-10 đến nay đã có khoảng 1.500 người nhập viện, 159 người trong số này dương tính với vi khuẩn tả.”  Một đọan khác, bài báo trích lời phát biểu của Bộ trưởng Bộ Y tế: “chúng tôi cũng công bố 15% tổng số ca tiêu chảy cấp là do vi khuẩn tả”.  Rất tiếc là những con số này không nhất quán.  Có hai khả năng: một là con số 1500 sai, và hai là con số 15% sai.  (Thật ra, còn một khả năng khác nữa: cả hai đều sai, nhưng chúng ta sẽ không xét đến khả năng này).

Nếu con số 15% là đúng (159 ca bị nhiễm vi khuẩn tương đương với 15% tổng số ca bệnh tiêu chảy), thì tổng số ca bệnh tiêu chảy phải là 1060 (lấy 159 chia cho 0,15), chứ không phải 1500.  Vậy thì câu hỏi đặt ra là: có bao nhiêu trường hợp bệnh tiêu chảy cấp tính?

Nếu con số 1500 bệnh tiêu chảy cấp tính là đúng, thì con số 15% ắt phải sai.  Chúng ta thử làm một tính toán đơn giản: lấy 159 chia cho 1500 và nhân cho 100, kết quả là 10,6%.  Thế thì câu hỏi là: có bao nhiêu trường hợp tiêu chảy với dương tính vi khuẩn V. cholerae?

Đây là một câu hỏi quan trọng, chứ không phải là trò chơi con số thống kê nữa.  Biết được tần số vi khuẩn giúp chúng ta có một cái nhìn tổng quan và đi đến việc phát triển chính sách / biện pháp y tế công cộng để phòng bệnh.  Chúng ta biết rằng bệnh tiêu chảy có nhiều nguyên nhân, trong đó bệnh tả là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến tiêu chảy.  Bệnh tả do vi khuẩn V. cholerae gây ra.  Do đó, vi khuẩn V. cholerae cũng là một nguyên nhân của bệnh tiêu chảy.

Ngoài vi khuẩn V. cholera, các vi khuẩn khác cũng có thể gây ra chứng tiêu chảy như rotavirus nhóm A, E. coli, Shigella spp, v.v… Nhưng rất tiếc cho đến nay, chúng ta vẫn chưa biết ngoài vi khuẩn V. cholera chiếm khoảng 15% (hãy cứ cho đó là con số hiện hành), số 85% còn lại bị nhiễm các vi khuẩn nào. 

Tìm trong y văn cho thấy trong quá khứ đã có khá nhiều nghiên cứu về bệnh tiêu chảy ở nước ta.  Như thường lệ, phần lớn các nghiên cứu này đều do người nước ngoài thực hiện hay có sự cộng tác của các nhà nghiên cứu Việt Nam.  Một số dữ liệu thú vị có thể kể đến như sau:

Trong thời gian từ 1966 đến 1969, một trận dịch tiêu chảy xảy ra ở lính Mĩ tham chiến ở Việt Nam, chủ yếu ở miền Trung.  Qua phân tích 27.000 mẫu phân từ lính Mĩ bị tiêu chảy, các nhà nghiên cứu phát hiện tần số vi khuẩn như sau: 39% vi khuẩn V. cholerae, 37% có vi khuẩn Shigella spp, 15% E. coli, và 9% salmonella [1].

Trẻ em thường mắc bệnh tiêu chảy.  Câu hỏi đặt ra do đó là tần số các vi khuẩn này ờ trẻ em mắc bệnh tiêu chảy ra sao.  Để trả lời câu hỏi này, Isenbarger và đồng nghiệp theo dõi và phân tích 1655 trẻ em ở vùng Đồng bằng sông Hồng trong vòng 12 tháng.  Trong thời gian theo dõi, có 2160 ca bệnh tiêu chảy; do đó, tính trung bình mỗi em có khoảng 1,3 ca trong 12 tháng.  Trong số ca bệnh tiêu chảy, 65% bị nhiễm vi khuẩn Shigella (dạng s. flexneri) [2].

Năm 2002, một nghiên cứu xuôi thời gian (prospective study) được thực hiện ở tỉnh Khánh Hòa.  Trong thời gian 1/1995 đến 9/2001, các nhà nghiên cứu ghi nhận 548 bệnh nhân, trong số này có 471 người lớn và 57 trẻ em.  Phân tích vi sinh học cho thấy trong số 548 trường hợp tiêu chảy, có 53% dương tính với vi khuẩn V. parahemolyticus [3].

Tiêu chảy đã từng được nghiên cứu ở Hà Nội.  Trong một nghiên cứu ở Hà Nội mới công bố trên tập san nhiễm trùng học quốc tế, các nhà nghiên cứu phân tích số liệu từ 587 trẻ em mắc bệnh tiêu chảy và 249 em không mắc bệnh (nhóm chứng).  Trong nhóm tiêu chảy, 41% xảy ra ở trẻ em dưới 1 tuổi.  Phân tích vi sinh cho thấy vi khuẩn rotavirus nhóm A hiện diện trong 47% trường hợp, kế đến là E. coli (22,5%), Shigella spp (khoảng 5%) và Bacteroides fragilis (khoảng 7%).  Đáng chú ý là trong nghiên cứu này các nhà nghiên cứu không phát hiện một trường hợp nào với vi khuẩn V. cholerae và Salmonella [4].

            Các dữ liệu trên đây có ý nghĩa gì?  Theo tôi, thứ nhất, các dữ liệu trên trước hết cho chúng ta biết rằng bệnh do nhiễm trùng, kể cả bệnh tả, vẫn còn là một mối đe dọa đến cộng đồng, bởi vì một số lớn người bị phơi nhiễm các vi khuẩn gây bệnh.  Theo thống kê của Tổ chức y tế thế giới Hàng năm trên thế giới có khoảng 12 triệu trẻ em chết trước tuổi 5, và trong số này 70% chết vì những nguyên nhân liên quan đến bệnh tiêu chảy.  Như vậy, các số liệu trên cho thấy trẻ em dưới 5 tuổi cần phải được đặc biệt theo dõi để ngăn ngừa bệnh bộc phát ở qui mô cộng đồng. 

            Thứ hai, các nghiên cứu trên còn cho chúng ta thấy một xu hướng thú vị về sự phân phối của vi khuẩn.  Vi khuẩn quan trọng nhất vẫn là V. cholerae (gây bệnh tả), Shigella dạng S. flexneri, rotavirus nhóm A, E. coli, và Salmonella.  (Vi khuẩn V. parahemolyticus cũng có nhưng không đáng kể).  Trước đây V. cholerae rất hiếm thấy ở Hà Nội, nhưng lần này, chúng ta thấy có đến 15% tiêu chảy cấp có nhiễm khuẩn này.  Bởi vì vi khuẩn chủ yếu lan truyền qua nguồn nước, điều đó chứng tỏ rằng nguồn nước ở Hà Nội có thể bị nhiễm.  Điều này cũng hàm ý rằng biện pháp làm sạch nguồn nước bằng chlorine có thể là một biện pháp thực tế nhất, cũng với các biện pháp kiểm tra thực phẩm, để làm giảm nguy cơ mắc bệnh ở qui mô cộng đồng.  Đã có ước tính rằng nếu mỗi nhà có cầu xí đảm bảo vệ sinh, số trường hợp tiêu chảy và bệnh tả có thể giảm đến 20%.

Đáng chú ý trong danh sách trên là vi khuẩn Shigella.  Vi khuẩn này xuất hiện dưới hai biến thể (hay dạng) chính: S. flexneri  và S. sonnei.  Trong một nghiên cứu đặc biệt về các trường hợp tiêu chảy do vi khuẩn Shigella gây ra tại một số nước Á châu, các nhà nghiên cứu phát hiện rằng ở Việt Nam, trong số 11419 ca tiêu chảy, 72% có nhiễm vi khuẩn S. flexneri và 26% S. sonnei.  Ở Trung Quốc, Nam Dương, Pakistan và Bangladesh cũng có tỉ lệ tương tự như nước ta.  Ngược lại, ở Thái Lan, trong số 8612 ca tiêu chảy, 15% bị nhiễm S. flexneri và 85% bị nhiễm S. sonnei [5].  Việc xét nghiệm vi khuẩn này không khó và đã được phát triển [6] nhưng quan trọng hơn đã có vắc-xin phòng chống bệnh.

            Thứ ba là trong bối cảnh hiện nay (11/07) vấn đề sử dụng vắc-xin trong việc phòng chống bệnh tả và tiêu chảy có thể phải đặt ra.  Có hai nhóm đối tượng cần phải quan tâm ở đây: những người đang sống trong vùng chịu ảnh hưởng (chủ yếu ở phía Bắc) và những người đang sống với lũ lụt ở miền Trung.  Đối với những người đang ở trong vùng bị ảnh hưởng bệnh tả, tôi thấy cần phải có một chiến dịch làm sạch nguồn nước bằng chlorine, chỉ người dân cách tẩy trùng (nếu ăn mắm tôm hay rau cải thì dùng trái chanh – rất hữu hiệu diệt vi khuẩn V. cholerae), giáo dục y tế công cộng về vệ sinh cá nhân và an toàn thực phẩm cho người dân.  Bộ Y tế cần phải sản xuất những đoạn phim ngắn và những tờ rơi để chỉ dẫn cụ thể cho người dân phương thức phòng bệnh tả. 

Đối với người dân đang chịu nạn bão lụt ở miền Trung, vi khuẩn có thể lan truyền theo đường nước và do đó nhóm này cũng có nguy cơ nhiễm vi khuẩn cao.  Cũng cần nhắc lại rằng miền Trung là vùng có “tiền sử” bị dịch tả trong quá khứ nhiều lần.  Tôi nghĩ chúng ta có thể học bài học của Nam Dương để đi đến một chiến dịch tiêm chủng ngừa các đối tượng có nguy cơ cao như trẻ em dưới 5 năm tuổi, người cao tuổi, người với nhóm máu O, v.v… Đã có nhiều nghiên cứu cho thấy tiêm chủng những vùng như thế có thể đem lại hiệu quả lâm sàng và kinh tế cao [7-8].

            Chúng ta có thể hình dung một tình huống đơn giản, nhưng không phải là quá phi thực tế.  Giả dụ một cộng đồng gồm 1000 trẻ em dưới 5 tuổi đang ở vùng lũ lụt.  Phải làm gì để phòng chống bệnh tiêu chảy và bệnh tả?  Chúng ta có hai lựa chọn: một là tiến hành một vận động mang tính giáo dục y tế công cộng, và hai là tiêm chủng cộng với giáo dục y tế công cộng. 

Theo chiến lược thứ nhất, bởi vì trong tình hình trốn lũ, các gia đình không có nhà xí vệ sinh hay nguồn nước sạch, cho nên nếu dịch lan tràn, có thể 20% các trẻ em (hay 200 em) bị nhiễm và mắc bệnh (theo y văn).  Với chi phí điều trị và chăm sóc (gián tiếp và trực tiếp) mỗi ngày trung bình 50.000Đ, và vẫn theo y văn phải điều trị 5 ngày, thì chi phí toàn bộ là 200 x 50.000 x 5 =  50 triệu đồng.

            Theo chiến lược thứ hai, chúng ta vừa vận động y tế công cộng vừa tiêm chủng ngừa.  Theo y văn từ Việt Nam, chi phí tiêm chủng khoảng 16.000đồng/em.  Nhưng chúng ta phải tiêm cho 1000 em, do đó chi phí là 16 triệu đồng.  Vẫn theo y văn, tiêm chủng có thể ngăn ngừa được 70% ca bệnh; do đó, chúng ta vẫn có 60 ca bệnh.  Chi phí điều trị và chăm sóc cho 60 ca bệnh này là 60 x 50.000 x 5 = 15 triệu.  Như vậy tổng chi phí cho chiến lược 2 là 31 triệu đồng.  So với chiến lược thụ động tốn 50 triệu đồng, chiến lược 2 tiết kiệm cho xã hội đến 19 triệu đồng.

Các tính toán đơn giản trên đây cho thấy tiêm chủng có hiệu quả kinh tế, nhưng quan trọng hơn là ngăn ngừa bệnh.  Ví dụ tính toán trên chỉ dựa vào 1000 trẻ em, nhưng trong thực tế thì con số này rất (hàng triệu), cho nên hiệu quả kinh tế và lâm sàng có thể rất cao.  Cố nhiên, mô hình cho hai chiến lược trên còn tùy thuộc vào giả định về tỉ lệc mắc bệnh và chi phí, mà cho đến nay chúng ta vẫn phải sử dụng số liệu từ nước ngoài.  Chúng ta cần số liệu ở Việt Nam!

            Thật vậy, không thể nào hành động mà không có thông tin hay không dựa vào thông tin.  Do đó, việc thu thập thông tin khoa học một cách có hệ thống qua các nghiên cứu dịch tễ học là một nhu cầu rất lớn hiện nay.  Có thể nói đây là cơ hội lí tưởng để thực hiện những nghiên cứu dịch tễ học để tìm hiểu các yếu tố nguy cơ và qui mô để phục vụ cho một chiến lược phòng chống bệnh về lâu về dài.

Tài liệu tham khảo:

[1] Sullivan TJ, Nhu-Tuan NT. Bacterial enterpathogens in the Republic of South Vietnam. Mil Med 1971; 136:1-6.

[2] Isenbarger DW, et al. Prospective study of the incidence of diarrhoea and prevalence of bacterial pathogens in a cohort of Vietnamese children along the Red River. Epidemiol Infect. 2001 Oct;127(2):229-36.

[3] Tuyet DT, et al. Clinical, epidemiological, and socioeconomic analysis of an outbreak of Vibrio parahaemolyticus in Khanh Hoa Province, Vietnam. J Infect Dis. 2002 Dec 1;186(11):1615-20.

[4] Vu Nguyen T, et al. Etiology and epidemiology of diarrhea in children in Hanoi, Vietnam. Int J Infect Dis. 2006 Jul;10(4):298-308.

[5] von Seidlein, et al. A multicentre study of Shigella diarrhoea in six Asian countries: disease burden, clinical manifestations, and microbiology. PLoS Med. 2006 Sep;3(9):e353.

[6]  Nato F, et al. Dipstick for rapid diagnosis of Shigella flexneri 2a in stool. PLoS ONE. 2007 Apr 18;2(4):e361.

[7] Sur D, et al. Occurrence, significance and molecular epidemiology of cholera outbreaks in West Bengal.  Indian J Med Res 2007;125:772-776.

[8]  Naficy A, et al. Treatment and vaccination strategies to control cholera in Sub-Saharan Refugee Settings.  JAMA 1998;279:521-525.

 

 


200 năm Darwin
Agent Orange: collateral damage
Alexandre Yersin và Việt Nam
Bàn về hiệu quả vắcxin: lâm sàng và kinh tế
Bàn về vấn đề dịch thuật và đánh giá năng suất khoa học
Béo phì ở người Á châu
Béo phì ở trẻ em và virus
Bình luận từ Dr. Yến
Bưởi không gây ung thư vú
Bảo hiểm y tế cộng đồng
Bảo tồn môi sinh: Chiến tranh giữa hai thế giới
Bằng chứng khoa học thay vì lên lớp
Bệnh tả: không để Việt Nam thành Bangladesh thứ hai
Bệnh tật nhìn từ quan điểm của thuyết tiến hóa
Bệnh xơ hóa cơ delta qua y văn thế giới
Bổ sung kẽm và điều trị bệnh tả
Bộ gen trong cây lúa và triển vọng
Bộ Y tế phản ứng chậm với rét đậm
Chiều cao của người Việt
Chiều cao và tổng thống Mĩ
Cholesterol và bệnh Tim
Cholesterol: hung thần hay bạn?
Chuột và... các nhà khoa học
Chính sách y tế cần dựa vào bằng chứng khoa học
Chạy đua vũ khí và … dịch cúm
Chất béo, cholesterol, bệnh tim và statins: xét lại bằng chứng
Chất keo xã hội: hormones
Chất lượng nghiên cứu dịch tễ học và y tế cộng đồng của Việt Nam qua chỉ số H
Chất lượng nghiên cứu khoa học ở Việt Nam qua chỉ số trích dẫn
Chất vấn chuẩn chẩn đoán béo phì
Chế độ ăn uống với nhiều thịt động vật và nguy cơ tử vong
Chủng vi khuẩn tả hiện nay ở nước ta có phải mới xuất hiện?
Cuộc chiến hóa học phi pháp lớn nhất trong lịch sử chiến tranh
Câu chuyện y học: Leptin và béo phì
Có bao nhiêu bác sĩ viết chữ khó đọc
Có nên tập trung vào vi khuẩn E. coli ?
Có thể xảy ra đại dịch cúm gia cầm?
Công cụ đơn giản để chẩn đoán tiểu đường ở người Đông Nam Á
Cúm gia cầm và nhiễu thông tin
Cúm H1N1: biết và chưa biết
Cơ hội để khép lại một chương lịch sử đau lòng
Cần hiểu đúng về Ung thư và nguy cơ ung thư
Cần qui ước đạo đức cho kĩ nghệ thực phẩm
Cần tiêm chủng ngừa bệnh tả vùng có nguy cơ cao
Cần điều tra về chất lượng bệnh viện
Cổ phần hóa bệnh viện công và chất lượng
Cổ phần hóa: chưa phải cách duy nhất
DDT và vấn đề cân đối giữa lợi ích và nguy hiểm
Dinh dưỡng: một nguồn thuốc quí giá
DNA không nói dối, nhưng DNA có thể nói … sai
Dịch cúm gà: hoang mang và sự thật khoa học
Dịch cúm heo và tác hại kinh tế
Dịch tay-chân-miệng
Dịch tả: gọi đúng tên để phòng ngừa
Dựa vào khoa học, đừng dựa vào niềm tin!
E. coli – vài câu hỏi thông thường
Gen và bệnh tật
Ghen tuông dưới cái nhìn của tâm lí y khoa
Gian lận trong nghiên cứu khoa học: áp lực kinh tế và cơ chế bình duyệt
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC: KHƠI DẬY VÀ NUÔI DƯỠNG TÍNH HAM HỌC
Giải nobel y học hay sinh lí học 2007 và lợi ích cho người bệnh
Giải Nobel Y sinh học 2008 và những tranh chấp khoa học
Giải Nobel y sinh học 2010 vinh danh người đem niềm vui cho người vô sinh
Giải Nobel y sinh học năm 2005: Một cõi đi về với vi khuẩn
Giải Nobel y sinh học: Nhìn lại quãng đường 100 năm
Giải phẫu ghép mặt và vấn đề y đức
Gout ở xương sống
Gãy xương và tử vong: một vấn nạn y tế cộng đồng
Hiệu quả vắcxin có nghĩa gì?
Hoa vàng mấy độc
Hàm lượng đạm trong sữa “siêu thấp” hay “siêu cao”?
Hóa chất khai hoang trong cuộc chiến Viện Nam: Qui mô và tầm ảnh hưởng
Hướng đi nào để giải quyết vấn đề chất độc da cam ở Việt Nam
Hậu “mắm tôm được minh oan”: bằng chứng khoa học, nhà xí và nghiên cứu
Hệ Thống Học Vị Và Học Hàm Khoa Học Ở Vài Nước Tây Phương
Hợp tác khoa học kiểu nhảy dù - Nguyễn Văn Tuấn
Khi bác sĩ trẻ “khoe” quá nhiều
Khoa học và ngụy khoa học: một vài đặc điểm và khác biệt cần biết
Khoa học, xã hội, và rủi ro
Không thể thành Phù Đổng trong 20 năm!
Khẩu trang và phòng chống cúm A/H1N1
Kiểm định giả thuyết mắm tôm và vi khuẩn tả
Liều lượng melamine bao nhiêu là an toàn?
Lí lịch sinh học của heo và dấu vết văn minh nông nghiệp Đông Nam Á
Lượng giá mạng sống con người
Lợi ích của vitamin D
Miệng nhà quan
Mắm tôm có phải là “thủ phạm” gây bệnh tả? Xét lại bằng chứng khoa học
Mắm tôm và chuyện xin lỗi
Mắm tôm và dịch tả: phân biệt yếu tố nguy cơ và nguyên nhân
Mắm tôm vô tội!
Mắm tôm, nguyên nhân và hệ quả
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Một bệnh hiếm X-linked recessive hypoparathyroidism
Một lần đi phỏng vấn
Một năm nhìn lại
Một phán quyết thiếu cơ sở khoa học
Một vài hiểu lầm tai hại
Một vài ngộ nhận về nghiên cứu khoa học
Một vài vấn đề về qui định chức danh giáo sư ở Việt Nam
Một vụ Madoff trong y khoa: Lại một ngôi sao y khoa rơi rụng!
Mỡ trắng, mỡ nâu
Mỡ  trong máu, huyết áp, và  tiểu đường
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nguyên nhân bệnh tiêu chảy
Ngó trên tay điếu thuốc đã lụi dần
Người cao tuổi và sự hạn chế của y khoa
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Nhân chuyện dịch tả nhớ lại John Snow
Nhân câu chuyện điện não đồ xét nghiệm nghiện ma túy:
Nhân năm khỉ_nguồn gốc con người hiện đại
Nhân năm Tý bàn chuyện thí nghiệm trên chuột
Nhìn lại khoa học Việt Nam năm 2008 qua công bố quốc tế
Nhầm lẫn trong y khoa: Khá phổ biến, nhưng ít ai biết!
Những câu hỏi và trả lời về dịch gia cầm
Những sai sót khó tin nhưng có thật
Những sai sót nguy hiểm trong toa thuốc
Những điều khó tin về “Bảy điều khó tin nhất trong y học”
Năm lí do cho mắm tôm “vô tội”
Phán quyết sau cùng: Chất béo không ảnh hưởng đến ung thư và bệnh tim
Phát hiện gien kiểm soát ráy tai: vài bài học về mò kim đáy biển
Phòng chống bệnh phải dựa vào bằng chứng khoa học!
Phòng chống H1N1 bằng rửa tay và khẩu trang: Biện pháp nào hiệu quả hơn?
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao và cân nặng: thiếu cơ sở khoa học và kì thị giới tính
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao: vấn đề giả định và bằng chứng khoa học
Quyền phê phán và trí thức
Quyền được tiếp cận hồ sơ bệnh án
Quản lý chất lượng: Thuốc phòng "tai nạn y khoa"
Rửa tay bằng xà phòng và tiêu chảy
Serotonin có liên quan đến chứng đột tử
Suy dinh dưỡng ở trẻ em: vấn đề của kinh tế
Sàng lọc trẻ sơ sinh trên phạm vi toàn quốc
Tai nạn y khoa trong bệnh viện
Thế nào là một "bài báo khoa học"
Thế nào là “Cơ sở khoa học” ?
Thịt chó là nguyên nhân của bệnh tiêu chảy cấp tính?
Thịt chó và bệnh tả: nguyên nhân và yếu tố nguy cơ
Tiên lượng bệnh Alzheimer bằng protein expression ?
Tiêu chuẩn chất lượng giáo dục đại học
Tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì cho người Việt - Nguyễn Văn Tuấn
Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh đái tháo đường (diabetes mellitus)
Tiêu chuẩn đề bạt giáo sư: Có nên căn cứ vào số lượng bài báo ?
Tiêu chảy cấp tính và bệnh tả: Định danh cho đúng
Truy tìm ung thư bằng mammography từ tuổi 50
Truyền thông và khoa học: Qui ước Ingelfinger
Truyền thông và y tế
Truyền thông, khoa học và … doanh nghiệp
Trà xanh và sức khỏe
Trách nhiệm và nhân đạo trong vấn đề chất độc da cam
Trái chanh và phòng chống bệnh tả
Trả lời những câu hỏi liên quan đến loãng xương
Trọng lượng cơ thể và tử vong ở người Trung Quốc: Ý nghĩa về việc xác định tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì
Tuổi thọ của người dân giảm 10 năm ?
Tác dụng Placebo trong y học: Tâm lí và ý nghĩa
Tình yêu, sắc đẹp nhìn dưới quan điểm di truyền học
Tín hiệu môi trường từ những “làng ung thư”
Tính khoa học và minh bạch đằng sau xét nghiệm doping
Tại sao không phát biểu về nguyên nhân và hệ quả ?
Tại sao uống rượu gây đỏ mặt và nguy cơ ung thư thực quản
Tạo sinh vô tính và cái chết của Thượng đế
Tạo sinh vô tính và vấn đề sinh đạo đức
Tản mạn về SARS
Tỉ lệ tử vong do cúm heo là bao nhiêu ?
Tự trị, chất lượng và y đức thay vì cổ phần hóa bệnh viện công
Ung thư vú và vấn đề thông tin y khoa
Uống bia hấp dẫn muỗi
Vaccine phòng chống AIDS hiệu quả đến đâu ?
Vaccine phòng chống cúm A/H1N1
Vi khuẩn gây tiêu chảy và ý nghĩa tiêm chủng
Vi khuẩn tả trong chó ?
Viết văn có thể chữa nhiều loại bệnh
Viết văn và trị liệu
Việc ta, ta cứ làm!
Vài nhận xét về 12 điều lệ y đức của Việt Nam
Vài thông tin cần biết về các chương trình truy tìm ung thư vú
Vài đóng góp quan trọng của người Việt khoa học thống kê
Văn hóa khoa học
Văn hóa tranh luận và vấn đề ngụy biện
Vấn đề sinh tố: kẽm và đồng
Vấn đề truy tìm ung thư phổi và hiệu quả 
Vấn đề y đức trong nghiên cứu tế bào mầm (stem cells)
Vấn đề đo lường melamine
Vấn đề đào tạo tiến sĩ: kinh nghiệm từ Australia
Vắc-xin phòng chống ung thư cổ tử cung
Vắcxin ngừa viêm gan B: cẩn thận với “nhiễu thông tin”
Vắcxin ngừa viêm gan B: kinh nghiệm từ nước ngoài
Vắcxin phòng bệnh sởi - quai bị - Rubella: lợi và hại
Vắcxin phòng chống ung thư cổ tử cung: hiệu quả lâm sàng và kinh tế
Vắcxin phòng ngừa bệnh tả: rất cần thiết
Về chấn chỉnh đào tạo tiến sĩ: Công bố bài báo khoa học là một thách thức lớn ?
Về học vị tiến sĩ
Về một sự hiểu lầm thuật ngữ "prospective"
Về phản ứng phụ của bisphosphonates liên quan đến hoại tử xương hàm và rung nhĩ
Vệ sinh như là một loại hàng hóa
Vị thế của nền khoa học Việt Nam
Xung quang xì căng đan về nghiên cứu tế bào mầm
Xã hội hóa và an toàn thực phẩm
Xếp hạng đại học: cần minh bạch hóa phương pháp
Y học hiện đại và những hứa hẹn
Y học thực chứng: vài nét khái quát
Y Khoa và những nhầm lẫn chết người
Y tế dự phòng: nền tảng của y khoa hiện đại
Y đức và nghiên cứu y học
Ói mửa, cao huyết áp và hôn mê
Ăn chay như là một trị liệu
Ăn chay và loãng xương
Điều trị bệnh dựa vào màu da ?
Điều trị đau dây thần kinh tọa bằng phẫu thuật: không có hiệu quả
Đo lường hiệu suất khoa học
Đánh giá đúng tầm quan trọng của ung thư vú 
Đại dịch H1N1
Đại dịch và đại dịch ảo
Đại dịch đã đến ?
Đạo văn trong hoạt động khoa học
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đằng sau những con số hàm lượng đạm trong sữa
Đế quốc Trà
Đề bạt các chức danh khoa bảng: vài kinh nghiệm từ Úc
Đọc lại 12 điều y đức của Việt Nam
Đồi điều về sữa nhiễm melamine
Đừng quên melamine trong các thực phẩm khác!
Ước vọng 200 ?
“Kỹ năng mềm” cho nhà khoa học
“Sẽ” và “có thể”


Trang nhiều tác giả
Trang riêng của Lê Ngọc Dũng
Trang riêng của Lương Lễ Hoàng
Trang riêng của Nguyễn Bảo Trung
Trang riêng của Nguyễn Hoài Nam
Trang riêng của Nguyễn Hữu Đức
Trang riêng của Nguyễn Văn Tuấn
Trang riêng của Nguyễn Ý Đức
Trang riêng của Nguyễn Đình Nguyên
Trang riêng của Phan Xuân Trung
Trang riêng của Đỗ Hồng Ngọc
Trang riêng của Đỗ Minh Tuấn