NGUYỄN VĂN TUẤN

Vấn đề đào tạo tiến sĩ: kinh nghiệm từ Australia

Nguyễn Văn Tuấn

(bản rút gọn của bài này đã đăng trên Tuổi Trẻ cuối tuần ngày 17/9/06)

Tin tức được đưa lên báo chí từ Hội nghị hiệu trưởng các trường phía Nam toàn là những tin làm sốc người đọc. Những đề án nghiên cứu cấp tiến sĩ cười ra nước mắt và tầm thường đến nổi Bộ trưởng Nguyễn Thiện Nhân phải thốt lên “Bằng tiến sĩ không phải vật trang sức đến những thiên vị trong việc thẩm định luận án làm cho những ai quan tâm đến nền giáo dục đại học ở nước nhà phải ngao ngán lắc đầu. Thêm vào đó là những lem nhem về nghiên cứu khoa học, đạo văn, mướn người viết luận án, v.v… liên tục được nhắc đến trên báo chí cho thấy nền học thuật trong nước gần như trong tình trạng báo động.

Theo dõi tình hình và tìm hiểu cách tổ chức đào tạo tiến sĩ ở trong nước trong thời gian qua, tôi thấy cách làm của Việt Nam có phần quá khác với nước ngoài, hay nói thẳng như giáo sư Hoàng Tụy là làm khoa học chẳng theo chuẩn mực quốc tế. Trong hai bài viết trước đây, tôi đã bàn qua mục đích của việc theo học và đào tạo tiến sĩ và giới thiệu các tiêu chuẩn cho một học vị tiến sĩ (Tạp chí hoạt động khoa học, số tháng 8/2006). Ở đây, tôi muốn nhân cơ hội bàn thêm về điều kiện nhân lực và cơ sở vật chất để đào tạo tiến sĩ qua kinh nghiệm đào tạo ở Australia mà người viết đã từng tham gia đào tạo từ 10 năm qua.

Ở Australia, qui trình đào tạo một tiến sĩ bắt đầu bằng một đề án. Các nghiên cứu sinh hội đủ điều kiện theo học tiến sĩ (như phải có bằng cử nhân hạng danh dự, hay có bằng thạc sĩ và có trải qua nghiên cứu) phải viết một đề cương nghiên cứu trong vòng 2 trang, trong đó nói rõ mục tiêu nghiên cứu là gì, phương pháp ra sao, và kết quả kì vọng là gì. Đề cương sẽ được đệ trình cho một trung tâm đào tạo (cụm từ “trung tâm” tôi dùng ở đây là chỉ các viện nghiên cứu và trường đại học), và ở đây hội đồng khoa học sẽ gửi đề cương cho ba chuyên gia để thẩm định xem đề án nghiên cứu có thể hiện một đóng góp mới vào khoa học hay không, và tính khả thi của nghiên cứu ra sao. Dựa vào thẩm định và đề nghị của ba chuyên gia này, hội đồng khoa học sẽ quyết định nhận hay từ chối đề án nghiên cứu của thí sinh. Ở viện Garvan (và vài trung tâm đào tạo nổi tiếng khác) chúng tôi có chính sách tiếp nhận nghiên cứu sinh vào làm việc một thời gian từ 3 tháng đến 1 năm để xem triển vọng học hành, trước khi chấp nhận cho theo học tiến sĩ.

Ở Australia, đào tạo tiến sĩ chủ yếu là nghiên cứu dưới sự hướng dẫn của một giáo sư hay nhà khoa học hội đủ điều kiện hướng dẫn. Thời gian đào tạo tối thiểu là 3 năm, nhưng thường là 4 năm. Hình thức là nghiên cứu toàn thời (full-time), chứ không bán thời (part-time) hay “đào tạo từ xa”. Trong thời gian này, nghiên cứu sinh phải chứng tỏ mình có những kiến thức cơ bản về khoa học và những kiến thức chuyên sâu về lĩnh vực nghiên cứu mà thí sinh theo đuổi, phải am hiểu các tài liệu nghiên cứu cần thiết về lĩnh vực chuyên môn, phải có khả năng cập nhật hóa kiến thức cũng như tất cả những phát triển mới, phải chứng tỏ kĩ năng phát hiện vấn đề hay đặt câu hỏi có ý nghĩa cho nghiên cứu chuyên ngành của mình, phải làm chủ được kĩ năng nghiên cứu, phải chứng tỏ đã đạt được những kĩ năng về truyền đạt thông tin bằng miệng và viết, v.v... Nghiên cứu sinh cũng được tạo điều kiện để tham dự và trình bày nghiên cứu tại các hội nghị chuyên ngành cấp quốc gia, và hội nghị quốc tế ít nhất là 1 lần trong quá trình đào tạo.

Việc chọn người hướng dẫn luận án cũng rất quan trọng. Không phải ai có bằng tiến sĩ cũng có thể hướng dẫn nghiên cứu sinh tiến sĩ. Ở Australia, những người có quyền hướng dẫn nghiên cứu sinh tiến sĩ là những giáo sư hay nhà nghiên cứu có một chương trình nghiên cứu, có kinh nghiệm trong nghiên cứu khoa học, được đồng nghiệp trong và ngoài nước công nhận. Có sẵn hay đang điều hành một chương trình nghiên cứu là tiêu chuẩn chứng tỏ người hướng dẫn đã ở vị trí độc lập và có định hướng rõ ràng trong khoa học. Cụm từ “có kinh nghiệm nghiên cứu” ở đây có nghĩa là người hướng dẫn phải là người từng có hoạt động nghiên cứu khoa học ở bình diện quốc tế, và hoạt động này được “đo lường” bằng số bài báo khoa học đã công bố trong các tập san khoa học quốc tế (ít nhất là 10 bài). Ngoài ra, người hướng dẫn lí tưởng phải là người “có tên tuổi” trên trường quốc tế, tức là đã từng được mời giảng, hay từng có giải thưởng quốc tế, hay được mời làm chủ tọa trong các hội nghị quốc tế, hay điều hành, hay từng hướng dẫn các nhà nghiên cứu hậu tiến sĩ.

Có khi cần phải mời người hướng dẫn từ một trung tâm khác, kể cả ngoại quốc, để làm người hướng dẫn nếu vài khía cạnh của đề tài nghiên cứu nằm ngoài phạm vi chuyên môn của người hướng dẫn chính.

Không phải bất cứ trường đại học nào hay viện nghiên cứu nào cũng có quyền đào tạo tiến sĩ. Những trung tâm được phép đào tạo tiến sĩ phải có những chương trình nghiên cứu khoa học rõ ràng, có đầy đủ cơ sở vật chất, có hệ thống kiểm tra việc học hành nghiêm chỉnh, và có nhân sự có khả năng hướng dẫn nghiên cứu sinh tiến sĩ.

Ở Australia, cũng như ở các trường đại học Tây phương khác, luận án tiến sĩ chỉ là một trong nhiều tiêu chuẩn để tốt nghiệp. Khác với các đại học Âu châu, các đại học Australia không quá đặt nặng vào luận án, mà đặt nặng vào các bài báo khoa học mà nghiên cứu sinh đã công bố trên các tập san quốc tế. Ở Viện Garvan, chúng tôi khuyến khích nghiên cứu sinh công bố ít nhất là 3 bài báo trước khi viết luận án tiến sĩ. (Có nghiên cứu sinh phải tiêu ra 6 năm trời nghiên cứu trước khi viết luận án tiến sĩ.) Sở dĩ có điều lệ bất thành văn này là vì chúng tôi nghĩ rằng một luận án dù có giá trị khoa học cách mấy cũng chỉ lưu lại trên các kệ sách của trường đại học hay được lưu hành trong một số rất ít người liên quan, và cho dù luận án đã được duyệt thì vẫn chưa thể nói là luận án tốt được. Vì không lưu hành rộng rãi, cho nên ít ai biết luận án đó có giá trị ra sao hay chỉ là những sao chép ý tưởng của người khác (như tình trạng hiện nay ở nước ta). Vì thế, chúng tôi xem việc công bố nghiên cứu trên các tập san quốc tế, nơi được mọi người thẩm định và soi mói cẩn thận, là một cách “thử lửa” tốt nhất về chất lượng nghiên cứu của thí sinh.

Luận án được soạn thảo dựa vào những bài báo đã công bố. Ở các đại học Âu châu, người ta tổ chức các buổi “bảo vệ luận án”, nơi mà nghiên cứu sinh trình bày luận án và có người phản biện hay chất vấn. Ở Australia, hình thức bảo vệ luận án được xem là thiếu hiệu quả, vì không thể nào đánh giá một luận án tiến sĩ trong vòng một hay hai giờ đồng hồ. Do đó, các đại học Australia không tổ chức những buổi bảo vệ luận án, nhưng trước khi đệ trình luận án và trong quá trình theo học thí sinh phải qua ít nhất là ba lần “khảo thí” trong các buổi seminar chuyên ngành. Ngoài ra, thí sinh còn phải trình bày và bảo vệ nghiên cứu của mình trong các hội nghị quốc gia và quốc tế. Tuy nhiên, ở Australia có điều lệ thẩm định luận án (cho dù luận án dựa vào những bài báo đã công bố), và việc thẩm định này do ba chuyên gia ngoài trường đại học (và ít nhất một trong 3 người này phải từ một đại học ngoại quốc). Thời gian bình duyệt luận án kéo dài từ 3 tháng đến 6 tháng, và thí sinh phải trả lời tất cả các câu hỏi của các chuyên gia trước khi hội đồng khoa bảng quyết định trao học vị tiến sĩ hay không.

Điểm qua phương cách đào tạo trên và đối chiếu với tình trạng trong nước, phải nói rằng chương trình đào tạo tiến sĩ của các trường đại học Việt Nam chưa theo các chuẩn mực quốc tế, nếu không muốn nói là còn quá nhiều bất cập. Có nghiên cứu sinh tiến sĩ từ Việt Nam sang Australia tự hào tuyên bố rằng anh ta chỉ mướn các công ti tư vấn phân tích và viết luận án cho anh ta, vì anh ta bận bịu với công việc quá! Nếu ai còn nghi ngờ thì chỉ cần đọc qua các bài báo nghiên cứu y học ở trong nước sẽ thấy rất nhiều thiếu sót và sai sót. Rất nhiều nghiên cứu mà ý tưởng thì không mới, phương pháp nghiên cứu quá nhiều sai sót, báo cáo quá sơ sài, và giá trị khoa học chỉ có thể nói là dưới trung bình. Ấy thế mà cũng có nhiều người tốt nghiệp với học vị tiến sĩ từ những bài báo khoa học như thế! Điều đáng ngại hơn là những “tiến sĩ” này sẽ là những người thầy cô tương lai hướng dẫn các nghiên cứu sinh khác.

Có lẽ vì những bất cập mang tính dây chuyền trong thời gian qua mà ngày nay chúng ta có một nhóm [không ít] nhà nghiên cứu chưa có kiến thức chuyên sâu về lĩnh vực nghiên cứu mình theo đuổi, chưa am hiểu các tài liệu nghiên cứu cần thiết về lĩnh vực chuyên môn, thiếu kĩ năng phát hiện vấn đề hay đặt câu hỏi có ý nghĩa cho nghiên cứu. Chính vì thế mà biết bao nhiêu tiến sĩ ở nước ta không thảo nổi một đề án nghiên cứu (chứ chưa nói đến nghiên cứu).

Để khắc phục tình trạng này, tôi đề nghị các cơ quan chức năng (như Bộ Giáo dục, Bộ Khoa học, công nghệ và môi trường, Bộ Y tế, v.v…) nên tiến hành một số việc như sau:

Thứ nhất là rà soát lại xem trường đại học hay trung tâm nào hội đủ điều kiện đào tạo tiến sĩ. Hiện nay, rất nhiều trường đại học và viện ở trong nước đều có chương trình đào tạo tiến sĩ, nhưng có nhiều nơi cơ sở vật chất còn quá nghèo nàn, và thậm chí chưa có kinh nghiệm nghiên cứu khoa học tầm quốc tế. Cho nên, có lẽ chính phủ nên đề ra những tiêu chuẩn cụ thể và dựa vào những tiêu chuẩn đó để trao chức năng đào tạo tiến sĩ. Tôi đoán nếu làm theo các chuẩn mực quốc tế, thì con số trung tâm đào tạo tiến sĩ không quá 20. Tuy nhiên, chúng ta cần chất hơn là cần lượng. Cần phải mạnh dạn ngưng ngay các chương trình đào tạo tại các trung tâm nào không đủ tiêu chuẩn. Cũng có thể hợp tác với các trung tâm nước ngoài, đặc biệt là ở các nước Âu Mĩ, để đào tạo và nghiên cứu.

Thứ hai là nên phát triển hay xem xét các tiêu chuẩn mà các trung tâm đào tạo nước ngoài đã áp dụng để trao quyền cho các giáo sư hay nhà nghiên cứu nào có thể làm hướng dẫn nghiên cứu sinh tiến sĩ. Cần nhấn mạnh đến tiêu chuẩn quốc tế, bởi vì nói cho cùng, học vị tiến sĩ là một “giấy thông hành” làm nghiên cứu khoa học chuyên nghiệp. Nói đến nghiên cứu khoa học là nói đến tính quốc tế của nó, do giá trị của nghiên cứu khoa học không giới hạn trong một quốc gia nào. Nói đến “giấy thông hành” cũng là nói đến gia trị pháp lí quốc tế của học vị tiến sĩ. Người hướng dẫn phải được công nhận trên trường quốc tế, để cho nghiên cứu sinh của họ có thể tìm cơ hội thực tập hậu tiến sĩ ở bất cứ nước nào, chứ không chỉ tại Việt Nam.

Thứ ba là nên xem xét và đề ra những tiêu chuẩn chung cho một học vị tiến sĩ. Hiện nay, hình như chưa có đại học nào đề ra những tiêu chuẩn cho một học vị tiến sĩ, và do đó, chất lượng nghiên cứu sinh rất khác nhau giữa các trung tâm đào tạo. Thật ra, cũng rất khó mà đề ra những tiêu chuẩn cụ thể, vì tùy thuộc vào ngành nghề chuyên môn, nhưng có thể dựa vào một số tiêu chuẩn ở nước ngoài mà tôi đã trình bày trong một tạp chí khác mới đây để phát triển cho trường hợp ở Việt Nam.

Thứ tư là nên xem xét lại qui trình phản biện. Như phản ảnh của vài đại biểu về tình trạng thiên vị trong việc thẩm định luận án, vấn đề thiên vị ở đâu cũng có, nhưng khác nhau là ở chỗ minh bạch. Ở Australia và Mĩ, người hướng dẫn có trách nhiệm phải đề cử ít nhất là 4 chuyên gia thẩm định luận cho Hội đồng khoa bảng của trường đại học. Nhưng bốn người này phải được sự chấp nhận của nghiên cứu sinh, tức trước khi đề cử người hướng dẫn phải bàn thảo với nghiên cứu sinh. Tuy nhiên, Hội đồng khoa bảng chọn ai cụ thể thì cả người hướng dẫn và nghiên cứu sinh đều không có quyền biết. Việc làm này đảm bảo tính công bằng cho nghiên cứu sinh. Tôi đề nghị ngoài các giáo sư trong nước, cần mời một hay hai giáo sư hay nhà khoa học nước ngoài tham gia vào hội đồng thẩm định luận án. Sự có mặt của đồng nghiệp nước ngoài còn là một cách phát biểu về sự khách quan của quá trình chấm luận án.

Học vị tiến sĩ là một học vị cao nhất trong hệ thống giáo dục đại học. Ở các nước phương Tây, xã hội kính trọng những người có học vị tiến sĩ và gọi họ bằng danh xưng “Doctor”. Chương trình huấn luyện tiến sĩ là nhằm mục đích đào tạo một đội ngũ nhà khoa học có trình độ chuyên môn cao cần thiết cho việc phát triển khoa học và công nghệ của một nước. Những người này đóng vai trò then chốt trong nền khoa học, và là nguồn cung cấp nhân lực khoa bảng cho các trường đại học của nước nhà. Do đó, có một chương trình đào tạo và huấn luyện có chất lượng cao là một bước đầu cực kì quan trọng trong việc chấn chỉnh và phát triển giáo dục đại học ở trong nước. Hi vọng những chia sẻ kinh nghiệm và đề nghị trên đây sẽ góp một phần vào định hướng nâng cao chất lượng đào tạo tiến sĩ ở Việt Nam.

Nước ta đang trên đà hội nhập và gia tăng giao dịch, kể cả quan hệ hợp tác khoa học, với thế giới bên ngoài, nhất là thế giới Tây phương. Các nhà khoa học tương lai của ta cần phải được đào tạo và huấn luyện qua một chương trình có qui củ quốc tế, mà trong đó họ được trang bị bằng những tri thức và kĩ năng chuyên môn không những mới nhất, mà còn phải sâu nhất, để sao cho họ không cảm thấy mặc cảm, mà còn tự hào cầm trong tay một học vị tiến sĩ từ Việt Nam.


200 năm Darwin
Agent Orange: collateral damage
Alexandre Yersin và Việt Nam
Bàn về hiệu quả vắcxin: lâm sàng và kinh tế
Bàn về vấn đề dịch thuật và đánh giá năng suất khoa học
Béo phì ở người Á châu
Béo phì ở trẻ em và virus
Bình luận từ Dr. Yến
Bưởi không gây ung thư vú
Bảo hiểm y tế cộng đồng
Bảo tồn môi sinh: Chiến tranh giữa hai thế giới
Bằng chứng khoa học thay vì lên lớp
Bệnh tả: không để Việt Nam thành Bangladesh thứ hai
Bệnh tật nhìn từ quan điểm của thuyết tiến hóa
Bệnh xơ hóa cơ delta qua y văn thế giới
Bổ sung kẽm và điều trị bệnh tả
Bộ gen trong cây lúa và triển vọng
Bộ Y tế phản ứng chậm với rét đậm
Chiều cao của người Việt
Chiều cao và tổng thống Mĩ
Cholesterol và bệnh Tim
Cholesterol: hung thần hay bạn?
Chuột và... các nhà khoa học
Chính sách y tế cần dựa vào bằng chứng khoa học
Chạy đua vũ khí và … dịch cúm
Chất béo, cholesterol, bệnh tim và statins: xét lại bằng chứng
Chất keo xã hội: hormones
Chất lượng nghiên cứu dịch tễ học và y tế cộng đồng của Việt Nam qua chỉ số H
Chất lượng nghiên cứu khoa học ở Việt Nam qua chỉ số trích dẫn
Chất vấn chuẩn chẩn đoán béo phì
Chế độ ăn uống với nhiều thịt động vật và nguy cơ tử vong
Chủng vi khuẩn tả hiện nay ở nước ta có phải mới xuất hiện?
Cuộc chiến hóa học phi pháp lớn nhất trong lịch sử chiến tranh
Câu chuyện y học: Leptin và béo phì
Có bao nhiêu bác sĩ viết chữ khó đọc
Có nên tập trung vào vi khuẩn E. coli ?
Có thể xảy ra đại dịch cúm gia cầm?
Công cụ đơn giản để chẩn đoán tiểu đường ở người Đông Nam Á
Cúm gia cầm và nhiễu thông tin
Cúm H1N1: biết và chưa biết
Cơ hội để khép lại một chương lịch sử đau lòng
Cần hiểu đúng về Ung thư và nguy cơ ung thư
Cần qui ước đạo đức cho kĩ nghệ thực phẩm
Cần tiêm chủng ngừa bệnh tả vùng có nguy cơ cao
Cần điều tra về chất lượng bệnh viện
Cổ phần hóa bệnh viện công và chất lượng
Cổ phần hóa: chưa phải cách duy nhất
DDT và vấn đề cân đối giữa lợi ích và nguy hiểm
Dinh dưỡng: một nguồn thuốc quí giá
DNA không nói dối, nhưng DNA có thể nói … sai
Dịch cúm gà: hoang mang và sự thật khoa học
Dịch cúm heo và tác hại kinh tế
Dịch tay-chân-miệng
Dịch tả: gọi đúng tên để phòng ngừa
Dựa vào khoa học, đừng dựa vào niềm tin!
E. coli – vài câu hỏi thông thường
Gen và bệnh tật
Ghen tuông dưới cái nhìn của tâm lí y khoa
Gian lận trong nghiên cứu khoa học: áp lực kinh tế và cơ chế bình duyệt
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC: KHƠI DẬY VÀ NUÔI DƯỠNG TÍNH HAM HỌC
Giải nobel y học hay sinh lí học 2007 và lợi ích cho người bệnh
Giải Nobel Y sinh học 2008 và những tranh chấp khoa học
Giải Nobel y sinh học 2010 vinh danh người đem niềm vui cho người vô sinh
Giải Nobel y sinh học năm 2005: Một cõi đi về với vi khuẩn
Giải Nobel y sinh học: Nhìn lại quãng đường 100 năm
Giải phẫu ghép mặt và vấn đề y đức
Gout ở xương sống
Gãy xương và tử vong: một vấn nạn y tế cộng đồng
Hiệu quả vắcxin có nghĩa gì?
Hoa vàng mấy độc
Hàm lượng đạm trong sữa “siêu thấp” hay “siêu cao”?
Hóa chất khai hoang trong cuộc chiến Viện Nam: Qui mô và tầm ảnh hưởng
Hướng đi nào để giải quyết vấn đề chất độc da cam ở Việt Nam
Hậu “mắm tôm được minh oan”: bằng chứng khoa học, nhà xí và nghiên cứu
Hệ Thống Học Vị Và Học Hàm Khoa Học Ở Vài Nước Tây Phương
Hợp tác khoa học kiểu nhảy dù - Nguyễn Văn Tuấn
Khi bác sĩ trẻ “khoe” quá nhiều
Khoa học và ngụy khoa học: một vài đặc điểm và khác biệt cần biết
Khoa học, xã hội, và rủi ro
Không thể thành Phù Đổng trong 20 năm!
Khẩu trang và phòng chống cúm A/H1N1
Kiểm định giả thuyết mắm tôm và vi khuẩn tả
Liều lượng melamine bao nhiêu là an toàn?
Lí lịch sinh học của heo và dấu vết văn minh nông nghiệp Đông Nam Á
Lượng giá mạng sống con người
Lợi ích của vitamin D
Miệng nhà quan
Mắm tôm có phải là “thủ phạm” gây bệnh tả? Xét lại bằng chứng khoa học
Mắm tôm và chuyện xin lỗi
Mắm tôm và dịch tả: phân biệt yếu tố nguy cơ và nguyên nhân
Mắm tôm vô tội!
Mắm tôm, nguyên nhân và hệ quả
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Một bệnh hiếm X-linked recessive hypoparathyroidism
Một lần đi phỏng vấn
Một năm nhìn lại
Một phán quyết thiếu cơ sở khoa học
Một vài hiểu lầm tai hại
Một vài ngộ nhận về nghiên cứu khoa học
Một vài vấn đề về qui định chức danh giáo sư ở Việt Nam
Một vụ Madoff trong y khoa: Lại một ngôi sao y khoa rơi rụng!
Mỡ trắng, mỡ nâu
Mỡ  trong máu, huyết áp, và  tiểu đường
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nguyên nhân bệnh tiêu chảy
Ngó trên tay điếu thuốc đã lụi dần
Người cao tuổi và sự hạn chế của y khoa
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Nhân chuyện dịch tả nhớ lại John Snow
Nhân câu chuyện điện não đồ xét nghiệm nghiện ma túy:
Nhân năm khỉ_nguồn gốc con người hiện đại
Nhân năm Tý bàn chuyện thí nghiệm trên chuột
Nhìn lại khoa học Việt Nam năm 2008 qua công bố quốc tế
Nhầm lẫn trong y khoa: Khá phổ biến, nhưng ít ai biết!
Những câu hỏi và trả lời về dịch gia cầm
Những sai sót khó tin nhưng có thật
Những sai sót nguy hiểm trong toa thuốc
Những điều khó tin về “Bảy điều khó tin nhất trong y học”
Năm lí do cho mắm tôm “vô tội”
Phán quyết sau cùng: Chất béo không ảnh hưởng đến ung thư và bệnh tim
Phát hiện gien kiểm soát ráy tai: vài bài học về mò kim đáy biển
Phòng chống bệnh phải dựa vào bằng chứng khoa học!
Phòng chống H1N1 bằng rửa tay và khẩu trang: Biện pháp nào hiệu quả hơn?
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao và cân nặng: thiếu cơ sở khoa học và kì thị giới tính
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao: vấn đề giả định và bằng chứng khoa học
Quyền phê phán và trí thức
Quyền được tiếp cận hồ sơ bệnh án
Quản lý chất lượng: Thuốc phòng "tai nạn y khoa"
Rửa tay bằng xà phòng và tiêu chảy
Serotonin có liên quan đến chứng đột tử
Suy dinh dưỡng ở trẻ em: vấn đề của kinh tế
Sàng lọc trẻ sơ sinh trên phạm vi toàn quốc
Tai nạn y khoa trong bệnh viện
Thế nào là một "bài báo khoa học"
Thế nào là “Cơ sở khoa học” ?
Thịt chó là nguyên nhân của bệnh tiêu chảy cấp tính?
Thịt chó và bệnh tả: nguyên nhân và yếu tố nguy cơ
Tiên lượng bệnh Alzheimer bằng protein expression ?
Tiêu chuẩn chất lượng giáo dục đại học
Tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì cho người Việt - Nguyễn Văn Tuấn
Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh đái tháo đường (diabetes mellitus)
Tiêu chuẩn đề bạt giáo sư: Có nên căn cứ vào số lượng bài báo ?
Tiêu chảy cấp tính và bệnh tả: Định danh cho đúng
Truy tìm ung thư bằng mammography từ tuổi 50
Truyền thông và khoa học: Qui ước Ingelfinger
Truyền thông và y tế
Truyền thông, khoa học và … doanh nghiệp
Trà xanh và sức khỏe
Trách nhiệm và nhân đạo trong vấn đề chất độc da cam
Trái chanh và phòng chống bệnh tả
Trả lời những câu hỏi liên quan đến loãng xương
Trọng lượng cơ thể và tử vong ở người Trung Quốc: Ý nghĩa về việc xác định tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì
Tuổi thọ của người dân giảm 10 năm ?
Tác dụng Placebo trong y học: Tâm lí và ý nghĩa
Tình yêu, sắc đẹp nhìn dưới quan điểm di truyền học
Tín hiệu môi trường từ những “làng ung thư”
Tính khoa học và minh bạch đằng sau xét nghiệm doping
Tại sao không phát biểu về nguyên nhân và hệ quả ?
Tại sao uống rượu gây đỏ mặt và nguy cơ ung thư thực quản
Tạo sinh vô tính và cái chết của Thượng đế
Tạo sinh vô tính và vấn đề sinh đạo đức
Tản mạn về SARS
Tỉ lệ tử vong do cúm heo là bao nhiêu ?
Tự trị, chất lượng và y đức thay vì cổ phần hóa bệnh viện công
Ung thư vú và vấn đề thông tin y khoa
Uống bia hấp dẫn muỗi
Vaccine phòng chống AIDS hiệu quả đến đâu ?
Vaccine phòng chống cúm A/H1N1
Vi khuẩn gây tiêu chảy và ý nghĩa tiêm chủng
Vi khuẩn tả trong chó ?
Viết văn có thể chữa nhiều loại bệnh
Viết văn và trị liệu
Việc ta, ta cứ làm!
Vài nhận xét về 12 điều lệ y đức của Việt Nam
Vài thông tin cần biết về các chương trình truy tìm ung thư vú
Vài đóng góp quan trọng của người Việt khoa học thống kê
Văn hóa khoa học
Văn hóa tranh luận và vấn đề ngụy biện
Vấn đề sinh tố: kẽm và đồng
Vấn đề truy tìm ung thư phổi và hiệu quả 
Vấn đề y đức trong nghiên cứu tế bào mầm (stem cells)
Vấn đề đo lường melamine
Vấn đề đào tạo tiến sĩ: kinh nghiệm từ Australia
Vắc-xin phòng chống ung thư cổ tử cung
Vắcxin ngừa viêm gan B: cẩn thận với “nhiễu thông tin”
Vắcxin ngừa viêm gan B: kinh nghiệm từ nước ngoài
Vắcxin phòng bệnh sởi - quai bị - Rubella: lợi và hại
Vắcxin phòng chống ung thư cổ tử cung: hiệu quả lâm sàng và kinh tế
Vắcxin phòng ngừa bệnh tả: rất cần thiết
Về chấn chỉnh đào tạo tiến sĩ: Công bố bài báo khoa học là một thách thức lớn ?
Về học vị tiến sĩ
Về một sự hiểu lầm thuật ngữ "prospective"
Về phản ứng phụ của bisphosphonates liên quan đến hoại tử xương hàm và rung nhĩ
Vệ sinh như là một loại hàng hóa
Vị thế của nền khoa học Việt Nam
Xung quang xì căng đan về nghiên cứu tế bào mầm
Xã hội hóa và an toàn thực phẩm
Xếp hạng đại học: cần minh bạch hóa phương pháp
Y học hiện đại và những hứa hẹn
Y học thực chứng: vài nét khái quát
Y Khoa và những nhầm lẫn chết người
Y tế dự phòng: nền tảng của y khoa hiện đại
Y đức và nghiên cứu y học
Ói mửa, cao huyết áp và hôn mê
Ăn chay như là một trị liệu
Ăn chay và loãng xương
Điều trị bệnh dựa vào màu da ?
Điều trị đau dây thần kinh tọa bằng phẫu thuật: không có hiệu quả
Đo lường hiệu suất khoa học
Đánh giá đúng tầm quan trọng của ung thư vú 
Đại dịch H1N1
Đại dịch và đại dịch ảo
Đại dịch đã đến ?
Đạo văn trong hoạt động khoa học
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đằng sau những con số hàm lượng đạm trong sữa
Đế quốc Trà
Đề bạt các chức danh khoa bảng: vài kinh nghiệm từ Úc
Đọc lại 12 điều y đức của Việt Nam
Đồi điều về sữa nhiễm melamine
Đừng quên melamine trong các thực phẩm khác!
Ước vọng 200 ?
“Kỹ năng mềm” cho nhà khoa học
“Sẽ” và “có thể”


Trang nhiều tác giả
Trang riêng của Lê Ngọc Dũng
Trang riêng của Lương Lễ Hoàng
Trang riêng của Nguyễn Bảo Trung
Trang riêng của Nguyễn Hoài Nam
Trang riêng của Nguyễn Hữu Đức
Trang riêng của Nguyễn Văn Tuấn
Trang riêng của Nguyễn Ý Đức
Trang riêng của Nguyễn Đình Nguyên
Trang riêng của Phan Xuân Trung
Trang riêng của Đỗ Hồng Ngọc
Trang riêng của Đỗ Minh Tuấn