NGUYỄN VĂN TUẤN

Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao:

vấn đề giả định và bằng chứng khoa học

Nguyễn Văn Tuấn

Qui định về cấp giấy phép dựa vào chiều cao đang làm dư luận công chúng xôn xao.  Người ta thắc mắc tại sao người có chiều cao thấp hơn 145 cm, hoặc cân nặng dưới 40 kg, hoặc vòng ngực dưới 72 cm sẽ không được cấp giấy phép lái xe gắn máy trên 50 cc.  Bằng chứng khoa học nào đã được sử dụng để đi đến những tiêu chuẩn trên đây?

Theo một giới chức thuộc Bộ Y tế (BYT) thì Bộ đã dựa vào dữ liệu khoa học để đi đến qui định mới, nhưng rất tiếc giới chức này không nói cụ thể những dữ liệu khoa học đó là gì và xuất phát từ đâu.  Nhờ một bạn đọc, tôi đã tìm được tài liệu khoa học làm cơ sở cho qui định của BYT.  Có thể xem qua tài liệu “Một số nội dung về tiêu chuẩn sức khỏe người điều khiển phương tiện giao thông cơ giới đường bộ” ở đây.

Đọc kĩ tài liệu này, tôi không thấy một dữ liệu cụ thể nào để có thể nói rằng qui định của BYT có cơ sở khoa học.  Thật ra, chỉ có một đoạn văn có thể gọi là mang chút số liệu khoa học mà thôi, vì phần còn lại chỉ nói chung chung.  Đoạn văn đó cụ thể như sau:

Các tiêu chí này được xây dựng dựa trên các cơ sở khoa học là: Theo thông số kỹ thuật của một số xe mô tô 2 bánh có dung tích xi lanh từ trên 50 cm3 đến dưới 175cm3 , thì chiều cao yên xe trung bình từ 74 cm đến 76cm. Để đảm bảo an toàn giao thông, người điều khiển xe mô tô 2 bánh phải có chiều dài của chân tối thiểu là 75cm. Mà để có chiều dài của chân từ 75cm trở lên thì người đó phải có chiều cao đứng trên 1m45.”

Để hiểu đoạn văn trên, có lẽ cần phải có vài giải thích ngắn gọn về phương pháp đo lường chiều cao.  Trong nhân trắc học, có 3 kích thước về chiều cao: chiều cao đứng (standing height), chiều cao ngồi (sitting height), và chiều dài của chân (leg length).  Chiều cao đứng được tính từ mặt bằng đứng đến đỉnh của đầu.  Khi nói tôi cao 1.7 m thì đây chính là chiều cao đứng.  Chiều cao ngồi được đo từ mặt bằng ngồi đến đỉnh của đầu; đây là chiều cao thường sử dụng cho các nghiên cứu y khoa, đặc biệt là nghiên cứu liên quan đến hệ thống hô hấp.  Chiều dài của chân thì đơn giản tính từ chiều dài từ mặt bằng khi ngồi đến gót chân.  Thông thường chiều dài của chân được đo gián tiếp bằng cách lấy chiều cao đứng trừ cho chiều cao ngồi.

Lí giải của BYT là như sau: bởi vì chiều cao trung bình của yên xe là 75 cm, cho nên người lái xe cần phải có chiều dài của chân tối thiểu là 75 cm.  Từ đó, BYT suy luận rằng một người phải có chiều cao đứng 145 cm thì mới có chiều dài chân bằng 75 cm.  Do đó, BYT lấy chiều cao 145 cm làm chuẩn để cấp bằng lái xe.  

Xem qua tài liệu trên, chúng ta thấy thông số chính để làm tiêu chuẩn cấp bằng lái xe gắn máy là chiều dài của chân, chứ không phải chiều cao.  Nhưng có lẽ vì ý thức được việc đo chiều dài của chân tương đối khó khăn (có ít nhất là 5 phương pháp đo và phương pháp nào cũng chưa hoàn hảo), nên BYT quyết định sử dụng chiều cao làm một marker thay cho chiều dài của chân với một giả định.  Nhưng tôi e rằng lí giải này có vấn đề về giả định, và vấn đề khoa học. 

Vấn đề giả định

Giả định của BYT có thể hiểu qua phát biểu “người điều khiển xe mô tô 2 bánh phải có chiều dài của chân tối thiểu là 75cm. Mà để có chiều dài của chân từ 75cm trở lên thì người đó phải có chiều cao đứng trên 1m45”.Nói cách khác, giả định của BYT là tỉ số chiều dài của chân trên chiều cao là 0.517 (tức 75/145).

Nói một cách ngắn gọn: giả định này không có cơ sở khoa học và cũng không đúng với thực tế.  Trong một nghiên cứu dịch tễ học của chúng tôi ở 327 người Việt Nam tuổi từ 16 đến 65, tỉ số chiều dài của chân trên chiều cao là 0.460 với độ lệch chuẩn là 0.015.  Tỉ số ngày cũng phù hợp với tỉ số ghi nhận ở người Trung Quốc và Nhật Bản (1,2) mà tôi tóm lược trong Bảng 1 dưới đây. 

Giới

Trung bình

Độ lệch chuẩn

Nam

0.460

0.011

Nữ

0.459

0.014

Bảng 1. Tỉ số chiều dài của chân trên chiều cao đứng. Nguồn: xem tài liệu tham khảo số 1 và 2.

Như vậy, qua các dữ liệu khoa học này, chúng ta thấy tỉ số chiều dài của chân trên chiều cao là ~0.46, chứ không thể nào 0.517 như BYT đã sử dụng trong ước tính.  Nói cách khác, có thể kết luận rằng giả định của BYT rất sai so với thực tế.  

Quay lại vấn đề: Nếu BYT thật sự yêu cầu người lái xe gắn máy trên 50 cc phải có chiều dài của chân là 75 cm trở lên, thì chiều cao tối thiểu để đạt tiêu chuẩn đó phải là 163 cm (tức 75 / 0.46). 

Cần nói thêm rằng 163 cm là tương đương với chiều cao của nam giới người Việt trong độ tuổi 16 đến 65.  Chiều cao trung bình của phụ nữ Việt Nam trong độ tuổi 16-65 là 153.4 cm.  Nói cách khác, nếu theo tiêu chuẩn này (chiều cao 163 cm để có chiều dài của chân 75 cm), thì chỉ có khoảng 50% đàn ông và ~5% phụ nữ Việt Nam được phép lái xe gắn máy trên 50 cc! 

Vấn đề khoa học

Giả định về tỉ số chiều dài của chân trên chiều cao của BYT chẳng những không phù hợp với thực tế mà còn thiếu tính khoa học.  Ai cũng biết rằng do những tương tác giữa di truyền và môi trường, tỉ số chiều dài của chân trên chiều cao không phải bất biến mà dao động giữa các cá nhân trong một quần thể.  Tôi có thể có tỉ số này là 0.46, nhưng bạn đọc có thể là 0.50.  Thật vậy, số liệu trong Bảng 1 cho thấy độ lệch chuẩn của tỉ số này là 0.011 đến 0.014, tức khoảng 2% đến 3% trị số trung bình.  Điều này có nghĩa là 99% cá nhân trong một cộng đồng sẽ có tỉ số chiều dài của chân trên chiều cao dao động khoảng 0.42 đến 0.50. 

Do sự khác biệt giữa các cá nhân như thế, nếu chỉ đơn thuần dựa vào một giả định bất biến để suy luận cho chiều cao của một quần thể là rất sai lầm và gây ảnh hưởng đến nhiều thành viên trong cộng đồng.  Hai người có thể có cùng chiều cao, nhưng chiều dài của chân có thể khác nhau.  Thử tưởng tượng một phụ nữ có chiều cao là 150 cm và với tỉ số 0.46, chiều dài của chân là 69 cm (tức chị không được cấp giấy phép lái xe gắn máy trên 50 cc), nhưng nếu một phụ nữ khác cũng cao 150 cm và với tỉ số 0.50, chiều dài của chân là 75 cm, tức được phép lái xe gắn máy trên 55 cc.  Do đó, nếu dựa vào chiều cao và một giả định bất biến về tỉ số chiều dài của chân như BYT sẽ dẫn đến nhiều sai lầm trong việc cấp giấy phép lái xe.

Vòng ngực dưới 72 cm?

Qui định cấp giấy phép lái xe gắn máy của BYT còn dựa vào vòng ngực.  Tài liệu đề cập trên có đoạn viết người có vòng ngực trung bình dưới 72 cm cũng không được cấp phép lái xe gắn máy trên 50 cc. 

Tôi tự hỏi có bao nhiêu người Việt Nam chịu ảnh hưởng bởi qui định này.  Phân tích số liệu thu thập trên 327 phụ nữ người Việt Nam tuổi 16-65 cho thấy vòng ngực trung bình là 80 cm và độ lệch chuẩn 5 cm.  Có thể ước tính rằng khoảng 6% nữ (hay 1.5 triệu người) sẽ không đạt tiêu chuẩn vòng ngực để lái xe gắn máy trên 50 cc. 

Tiêu chuẩn phù hợp với hầu hết người Việt Nam?

            Theo quan điểm BYT, qui định người có chiều cao thấp hơn 145 cm hoặc trọng lượng dưới 40 kg không được phép lái xe gắn máy trên 50 cc là có ‘cơ sở khoa học và cũng phù hợp với hầu hết người dân Việt Nam.”  Nhưng qua vài phân tích đơn giản, tôi nghĩ quan điểm này cần phải được xem xét lại. 

            Dựa vào các số liệu thực tế về chiều cao và trọng lượng của người Việt Nam tuổi từ 16 đến 65, có thể dễ dàng ước tính một số người sẽ không được cấp giấy phép lái xe gắn máy trên 50 cc như sau: khoảng 1% nam, tương đương với ~270,000 người;  và gần 20% nữ, hay 5.05 triệu người.  Nếu tính thêm vòng ngực dưới 72 cm, thì con số phụ nữ không được cấp bằng lái xe gắn máy trên 50 cc lên đến khoảng 6 triệu người. 

Với một số lớn dân số chịu ảnh hưởng bởi qui định này, thật khó mà nói rằng qui định phù hợp với “hầu hết” người dân Việt Nam được. 

Vấn đề bằng chứng khoa học

            Mục tiêu tối hậu của bất cứ chính sách y tế công cộng nào cũng nhắm vào việc đem lại lợi ích cho người dân.  “Lợi ích” trong trường hợp chúng ta đang bàn bao gồm việc giảm tai nạn giao thông và giảm tử vong.  Do đó, qui định cấp bằng lái xe phải dựa vào hai mục tiêu này làm chuẩn.

            Yếu tố nào có liên quan đến tai nạn giao thông và nguy cơ tử vong vì tai nạn giao thông?  Những yếu tố hàng đầu gây ra tai nạn giao thông là các yếu tố cơ sinh (biomechanics), tốc độ lái xe, điều kiện đường xá, thời tiết, chất lượng an toàn của phương tiện giao thông, và một số yếu tố liên quan đến hành vi của người điều khiển phương tiện giao thông, kể cả say xỉn.  Theo thống kê ở Mĩ và Úc, rượu bia là “thủ phạm” của 40% các vụ tai nạn giao thông.  Các nguyên nhân quan trọng khác là tốc độ nhanh, lái xe bất cẩn, thiếu kinh nghiệm, ảnh hưởng của thuốc, xe cũ và thiếu an toàn.  Chưa có một bằng chứng khoa học nào cho thấy chiều cao thấp hay trọng lượng nhẹ là nguyên nhân gây ra tai nạn giao thông.  Xin nhắc lại để nhấn mạnh: Chưa có bằng chứng khoa học để nói rằng người có chiều cao thấp và cân nặng nhẹ là nguyên nhân gây tai nạn giao thông. 

Cho đến nay, chưa có một nghiên cứu nào cho thấy người có chiều cao thấp (hãy cho là dưới 145 cm) hay trọng lượng nhẹ (hãy cho là dưới 40 kg) có nguy cơ gây tai nạn giao thông cao. 

Thật ra, như tôi trình bày trong một bài viết trước, các nhà nghiên cứu thường sử dụng tỉ trọng cơ thể (body mass index) để nghiên cứu về mối tương quan giữa chỉ số nhân trắc và nguy cơ tai nạn giao thông.  Mối liên hệ giữa BMI và nguy cơ tai nạn giao thông cũng như nguy cơ tử vong vì tai nạn giao thông không phải là một hàm số đường thẳng đơn giản, mà là một hàm số parabol.  Cụ thể hơn, những người với BMI thấp hay cao có nguy cơ tai nạn giao thông cao gấp 2 lần những người có BMI trung bình.  Về tử vong, nghiên cứu ở Mĩ cho thấy những người nam có BMI thấp hơn 18 hay cao hơn 40 thì nguy cơ tử vong tai nạn giao thông tăng khoảng 2 lần, nhưng ở nữ, không có một mối liên hệ nào giữa BMI và tử vong do tai nạn giao thông

            Cho dù với những kết quả sơ khởi như thế, không một nước nào ở Âu châu, Mĩ châu hay Úc châu (theo tôi biết) dựa vào chiều cao hay BMI để cấp bằng lái xe ôtô và xe gắn máy.  Trong thực tế, có nhiều người thấp hơn 150 cm hay thấp hơn 145 cm vẫn lái xe, kể cả xe tải lớn.  Nếu dựa vào chiều dài của chân tương quan với chiều cao của xe thì tôi e rằng rất nhiều người Á châu ở các nước phương Tây sẽ bị tước quyền lái xe ôtô. 

            Phương tiện giao thông (kể cả xe gắn máy và ôtô) phải được thiết kế để phục vụ cho con người, chứ không phải con người bị bắt buộc tuân theo thiết kế của phương tiện giao thông.  Nếu con người có khiếm khuyết về cơ thể thì nhà sản xuất xe phải thiết kế sao cho thích hợp với điều kiện cơ thể của họ.  Tương tự, Bộ Y tế cần phải có những qui định đảm bảo bình đẳng cho người dân tham gia giao thông (vì đây là một quyền căn bản trong xã hội hiện đại), chứ không phải ra những qui định vô hình chung gây ra bất bình đẳng và bất tiện cho hàng triệu người.

Cần xem xét lại qui định

            Các dữ liệu vừa trình bày trên đây cho thấy qui định về chiều cao dưới 145 cm (để đảm bảo chiều dài của chân tối thiểu là 75 cm) của Bộ Y tế dựa vào một giả định rất sai lầm, không đúng với thực tế.  Giả định này càng sai hơn vì quá cứng nhắc, không xem xét đến những khác biệt về tỉ số chiều dài của chân trên chiều cao giữa các cá nhân trong cộng đồng.  Vì qui định không xem xét đến những khác biệt về các chỉ số nhân trắc giữa nam và nữ, nên sẽ gây ảnh hưởng đến hàng triệu người, đặc biệt là phụ nữ. 

            Xin nhắc lại rằng những người có chiều cao thấp hay trọng lượng thấp thường là do bệnh tật, di truyền, hay thiếu dinh dưỡng trong thời kinh tế khó khăn trước đây.  Đáng lẽ họ là những người cần được giúp đỡ để đi lại, nhưng qui định của Bộ Y tế lại vô hình chung gây thêm khó khăn cho họ!  Đáng lẽ nữ là nhóm cần được biểu dương (vì họ ít gây tai nạn giao thông) nhưng họ lại là nhóm chịu nhiều thiệt thòi! 

Có lẽ cách tốt nhất là rút lại qui định trên và tiến hành những nghiên cứu khoa học để thu thập thêm dữ liệu để đi đến một qui định thuyết phục hơn và đem lại lợi ích cho người dân, cũng như đảm bảo bình đẳng giới tính trong quyền được đi lại.

Tài liệu tham khảo:

(1) Deurenberg P, et al. Prediction of percentage body fat from anthropometry and bioelectrical impedance in Singaporean and Beijing Chinese.  Asia Pacific Journal of Clinical Nutrition 2000; 9:93-8.

(2) Nakanishi Y, Nethery V. Anthropometric comparison between Japanese and Caucasian American male university students.  Applied Human Science 1999; 18:9-11.

 

 


200 năm Darwin
Agent Orange: collateral damage
Alexandre Yersin và Việt Nam
Bàn về hiệu quả vắcxin: lâm sàng và kinh tế
Bàn về vấn đề dịch thuật và đánh giá năng suất khoa học
Béo phì ở người Á châu
Béo phì ở trẻ em và virus
Bình luận từ Dr. Yến
Bưởi không gây ung thư vú
Bảo hiểm y tế cộng đồng
Bảo tồn môi sinh: Chiến tranh giữa hai thế giới
Bằng chứng khoa học thay vì lên lớp
Bệnh tả: không để Việt Nam thành Bangladesh thứ hai
Bệnh tật nhìn từ quan điểm của thuyết tiến hóa
Bệnh xơ hóa cơ delta qua y văn thế giới
Bổ sung kẽm và điều trị bệnh tả
Bộ gen trong cây lúa và triển vọng
Bộ Y tế phản ứng chậm với rét đậm
Chiều cao của người Việt
Chiều cao và tổng thống Mĩ
Cholesterol và bệnh Tim
Cholesterol: hung thần hay bạn?
Chuột và... các nhà khoa học
Chính sách y tế cần dựa vào bằng chứng khoa học
Chạy đua vũ khí và … dịch cúm
Chất béo, cholesterol, bệnh tim và statins: xét lại bằng chứng
Chất keo xã hội: hormones
Chất lượng nghiên cứu dịch tễ học và y tế cộng đồng của Việt Nam qua chỉ số H
Chất lượng nghiên cứu khoa học ở Việt Nam qua chỉ số trích dẫn
Chất vấn chuẩn chẩn đoán béo phì
Chế độ ăn uống với nhiều thịt động vật và nguy cơ tử vong
Chủng vi khuẩn tả hiện nay ở nước ta có phải mới xuất hiện?
Cuộc chiến hóa học phi pháp lớn nhất trong lịch sử chiến tranh
Câu chuyện y học: Leptin và béo phì
Có bao nhiêu bác sĩ viết chữ khó đọc
Có nên tập trung vào vi khuẩn E. coli ?
Có thể xảy ra đại dịch cúm gia cầm?
Công cụ đơn giản để chẩn đoán tiểu đường ở người Đông Nam Á
Cúm gia cầm và nhiễu thông tin
Cúm H1N1: biết và chưa biết
Cơ hội để khép lại một chương lịch sử đau lòng
Cần hiểu đúng về Ung thư và nguy cơ ung thư
Cần qui ước đạo đức cho kĩ nghệ thực phẩm
Cần tiêm chủng ngừa bệnh tả vùng có nguy cơ cao
Cần điều tra về chất lượng bệnh viện
Cổ phần hóa bệnh viện công và chất lượng
Cổ phần hóa: chưa phải cách duy nhất
DDT và vấn đề cân đối giữa lợi ích và nguy hiểm
Dinh dưỡng: một nguồn thuốc quí giá
DNA không nói dối, nhưng DNA có thể nói … sai
Dịch cúm gà: hoang mang và sự thật khoa học
Dịch cúm heo và tác hại kinh tế
Dịch tay-chân-miệng
Dịch tả: gọi đúng tên để phòng ngừa
Dựa vào khoa học, đừng dựa vào niềm tin!
E. coli – vài câu hỏi thông thường
Gen và bệnh tật
Ghen tuông dưới cái nhìn của tâm lí y khoa
Gian lận trong nghiên cứu khoa học: áp lực kinh tế và cơ chế bình duyệt
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC: KHƠI DẬY VÀ NUÔI DƯỠNG TÍNH HAM HỌC
Giải nobel y học hay sinh lí học 2007 và lợi ích cho người bệnh
Giải Nobel Y sinh học 2008 và những tranh chấp khoa học
Giải Nobel y sinh học 2010 vinh danh người đem niềm vui cho người vô sinh
Giải Nobel y sinh học năm 2005: Một cõi đi về với vi khuẩn
Giải Nobel y sinh học: Nhìn lại quãng đường 100 năm
Giải phẫu ghép mặt và vấn đề y đức
Gout ở xương sống
Gãy xương và tử vong: một vấn nạn y tế cộng đồng
Hiệu quả vắcxin có nghĩa gì?
Hoa vàng mấy độc
Hàm lượng đạm trong sữa “siêu thấp” hay “siêu cao”?
Hóa chất khai hoang trong cuộc chiến Viện Nam: Qui mô và tầm ảnh hưởng
Hướng đi nào để giải quyết vấn đề chất độc da cam ở Việt Nam
Hậu “mắm tôm được minh oan”: bằng chứng khoa học, nhà xí và nghiên cứu
Hệ Thống Học Vị Và Học Hàm Khoa Học Ở Vài Nước Tây Phương
Hợp tác khoa học kiểu nhảy dù - Nguyễn Văn Tuấn
Khi bác sĩ trẻ “khoe” quá nhiều
Khoa học và ngụy khoa học: một vài đặc điểm và khác biệt cần biết
Khoa học, xã hội, và rủi ro
Không thể thành Phù Đổng trong 20 năm!
Khẩu trang và phòng chống cúm A/H1N1
Kiểm định giả thuyết mắm tôm và vi khuẩn tả
Liều lượng melamine bao nhiêu là an toàn?
Lí lịch sinh học của heo và dấu vết văn minh nông nghiệp Đông Nam Á
Lượng giá mạng sống con người
Lợi ích của vitamin D
Miệng nhà quan
Mắm tôm có phải là “thủ phạm” gây bệnh tả? Xét lại bằng chứng khoa học
Mắm tôm và chuyện xin lỗi
Mắm tôm và dịch tả: phân biệt yếu tố nguy cơ và nguyên nhân
Mắm tôm vô tội!
Mắm tôm, nguyên nhân và hệ quả
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Một bệnh hiếm X-linked recessive hypoparathyroidism
Một lần đi phỏng vấn
Một năm nhìn lại
Một phán quyết thiếu cơ sở khoa học
Một vài hiểu lầm tai hại
Một vài ngộ nhận về nghiên cứu khoa học
Một vài vấn đề về qui định chức danh giáo sư ở Việt Nam
Một vụ Madoff trong y khoa: Lại một ngôi sao y khoa rơi rụng!
Mỡ trắng, mỡ nâu
Mỡ  trong máu, huyết áp, và  tiểu đường
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nguyên nhân bệnh tiêu chảy
Ngó trên tay điếu thuốc đã lụi dần
Người cao tuổi và sự hạn chế của y khoa
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Nhân chuyện dịch tả nhớ lại John Snow
Nhân câu chuyện điện não đồ xét nghiệm nghiện ma túy:
Nhân năm khỉ_nguồn gốc con người hiện đại
Nhân năm Tý bàn chuyện thí nghiệm trên chuột
Nhìn lại khoa học Việt Nam năm 2008 qua công bố quốc tế
Nhầm lẫn trong y khoa: Khá phổ biến, nhưng ít ai biết!
Những câu hỏi và trả lời về dịch gia cầm
Những sai sót khó tin nhưng có thật
Những sai sót nguy hiểm trong toa thuốc
Những điều khó tin về “Bảy điều khó tin nhất trong y học”
Năm lí do cho mắm tôm “vô tội”
Phán quyết sau cùng: Chất béo không ảnh hưởng đến ung thư và bệnh tim
Phát hiện gien kiểm soát ráy tai: vài bài học về mò kim đáy biển
Phòng chống bệnh phải dựa vào bằng chứng khoa học!
Phòng chống H1N1 bằng rửa tay và khẩu trang: Biện pháp nào hiệu quả hơn?
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao và cân nặng: thiếu cơ sở khoa học và kì thị giới tính
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao: vấn đề giả định và bằng chứng khoa học
Quyền phê phán và trí thức
Quyền được tiếp cận hồ sơ bệnh án
Quản lý chất lượng: Thuốc phòng "tai nạn y khoa"
Rửa tay bằng xà phòng và tiêu chảy
Serotonin có liên quan đến chứng đột tử
Suy dinh dưỡng ở trẻ em: vấn đề của kinh tế
Sàng lọc trẻ sơ sinh trên phạm vi toàn quốc
Tai nạn y khoa trong bệnh viện
Thế nào là một "bài báo khoa học"
Thế nào là “Cơ sở khoa học” ?
Thịt chó là nguyên nhân của bệnh tiêu chảy cấp tính?
Thịt chó và bệnh tả: nguyên nhân và yếu tố nguy cơ
Tiên lượng bệnh Alzheimer bằng protein expression ?
Tiêu chuẩn chất lượng giáo dục đại học
Tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì cho người Việt - Nguyễn Văn Tuấn
Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh đái tháo đường (diabetes mellitus)
Tiêu chuẩn đề bạt giáo sư: Có nên căn cứ vào số lượng bài báo ?
Tiêu chảy cấp tính và bệnh tả: Định danh cho đúng
Truy tìm ung thư bằng mammography từ tuổi 50
Truyền thông và khoa học: Qui ước Ingelfinger
Truyền thông và y tế
Truyền thông, khoa học và … doanh nghiệp
Trà xanh và sức khỏe
Trách nhiệm và nhân đạo trong vấn đề chất độc da cam
Trái chanh và phòng chống bệnh tả
Trả lời những câu hỏi liên quan đến loãng xương
Trọng lượng cơ thể và tử vong ở người Trung Quốc: Ý nghĩa về việc xác định tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì
Tuổi thọ của người dân giảm 10 năm ?
Tác dụng Placebo trong y học: Tâm lí và ý nghĩa
Tình yêu, sắc đẹp nhìn dưới quan điểm di truyền học
Tín hiệu môi trường từ những “làng ung thư”
Tính khoa học và minh bạch đằng sau xét nghiệm doping
Tại sao không phát biểu về nguyên nhân và hệ quả ?
Tại sao uống rượu gây đỏ mặt và nguy cơ ung thư thực quản
Tạo sinh vô tính và cái chết của Thượng đế
Tạo sinh vô tính và vấn đề sinh đạo đức
Tản mạn về SARS
Tỉ lệ tử vong do cúm heo là bao nhiêu ?
Tự trị, chất lượng và y đức thay vì cổ phần hóa bệnh viện công
Ung thư vú và vấn đề thông tin y khoa
Uống bia hấp dẫn muỗi
Vaccine phòng chống AIDS hiệu quả đến đâu ?
Vaccine phòng chống cúm A/H1N1
Vi khuẩn gây tiêu chảy và ý nghĩa tiêm chủng
Vi khuẩn tả trong chó ?
Viết văn có thể chữa nhiều loại bệnh
Viết văn và trị liệu
Việc ta, ta cứ làm!
Vài nhận xét về 12 điều lệ y đức của Việt Nam
Vài thông tin cần biết về các chương trình truy tìm ung thư vú
Vài đóng góp quan trọng của người Việt khoa học thống kê
Văn hóa khoa học
Văn hóa tranh luận và vấn đề ngụy biện
Vấn đề sinh tố: kẽm và đồng
Vấn đề truy tìm ung thư phổi và hiệu quả 
Vấn đề y đức trong nghiên cứu tế bào mầm (stem cells)
Vấn đề đo lường melamine
Vấn đề đào tạo tiến sĩ: kinh nghiệm từ Australia
Vắc-xin phòng chống ung thư cổ tử cung
Vắcxin ngừa viêm gan B: cẩn thận với “nhiễu thông tin”
Vắcxin ngừa viêm gan B: kinh nghiệm từ nước ngoài
Vắcxin phòng bệnh sởi - quai bị - Rubella: lợi và hại
Vắcxin phòng chống ung thư cổ tử cung: hiệu quả lâm sàng và kinh tế
Vắcxin phòng ngừa bệnh tả: rất cần thiết
Về chấn chỉnh đào tạo tiến sĩ: Công bố bài báo khoa học là một thách thức lớn ?
Về học vị tiến sĩ
Về một sự hiểu lầm thuật ngữ "prospective"
Về phản ứng phụ của bisphosphonates liên quan đến hoại tử xương hàm và rung nhĩ
Vệ sinh như là một loại hàng hóa
Vị thế của nền khoa học Việt Nam
Xung quang xì căng đan về nghiên cứu tế bào mầm
Xã hội hóa và an toàn thực phẩm
Xếp hạng đại học: cần minh bạch hóa phương pháp
Y học hiện đại và những hứa hẹn
Y học thực chứng: vài nét khái quát
Y Khoa và những nhầm lẫn chết người
Y tế dự phòng: nền tảng của y khoa hiện đại
Y đức và nghiên cứu y học
Ói mửa, cao huyết áp và hôn mê
Ăn chay như là một trị liệu
Ăn chay và loãng xương
Điều trị bệnh dựa vào màu da ?
Điều trị đau dây thần kinh tọa bằng phẫu thuật: không có hiệu quả
Đo lường hiệu suất khoa học
Đánh giá đúng tầm quan trọng của ung thư vú 
Đại dịch H1N1
Đại dịch và đại dịch ảo
Đại dịch đã đến ?
Đạo văn trong hoạt động khoa học
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đằng sau những con số hàm lượng đạm trong sữa
Đế quốc Trà
Đề bạt các chức danh khoa bảng: vài kinh nghiệm từ Úc
Đọc lại 12 điều y đức của Việt Nam
Đồi điều về sữa nhiễm melamine
Đừng quên melamine trong các thực phẩm khác!
Ước vọng 200 ?
“Kỹ năng mềm” cho nhà khoa học
“Sẽ” và “có thể”


Trang nhiều tác giả
Trang riêng của Lê Ngọc Dũng
Trang riêng của Lương Lễ Hoàng
Trang riêng của Nguyễn Bảo Trung
Trang riêng của Nguyễn Hoài Nam
Trang riêng của Nguyễn Hữu Đức
Trang riêng của Nguyễn Văn Tuấn
Trang riêng của Nguyễn Ý Đức
Trang riêng của Nguyễn Đình Nguyên
Trang riêng của Phan Xuân Trung
Trang riêng của Đỗ Hồng Ngọc
Trang riêng của Đỗ Minh Tuấn