NGUYỄN VĂN TUẤN

Bằng chứng khoa học thay vì lên lớp

(trả lời bác sĩ Nguyễn Văn Dũng trên báo Sức khỏe và Đời sống)

Nguyễn Văn Tuấn

Một bạn đọc của ykhoanet cho tôi biết bài viết “Không được tùy tiện phát ngôn tiêu cực về chống dịch tiêu chảy cấp” của bác sĩ Nguyễn Văn Dũng trên báo Sức khỏe và Đời sống (số ra ngày hôm qua, 21/4/2008).  Bài viết là một phản hồi những ý kiến của tôi trên báo Người lao động (số ra ngày 15/4/2008).  Trước hết, tôi cám ơn tác giả đã bỏ công và thời giờ để đọc qua những ý kiến của tôi và có bài phản hồi.

Đọc hết bài viết, tôi thấy vừa thú vị nhưng cũng vừa thất vọng.  Thú vị là vì nội dung bài viết xoay quanh vấn đề bệnh “tiêu chảy cấp” nhưng lại được đặt cho một tựa đề mà đọc lên giống như là một mệnh lệnh và cảnh cáo của cấp trên ban hành cho cấp dưới.  Thất vọng là vì xuyên suốt bài viết đó, tôi không thấy tác giả biểu lộ một văn hóa khoa học nào cả, mà thay vào đó là những câu văn nặng nề đầy dẫy những tính từ chỉ có thể mô tả là hằn học: "hồ đồ", "tùy tiện", "chưa hiểu cặn kẽ", v.v… Với một thái độ như thế tôi e rằng sẽ làm ô nhiễm môi trường thảo luận khoa học.  Tuy nhiên, bỏ qua thái độ thiếu học thuật đó, tôi thấy bài viết toát lên một số vấn đề mà tôi muốn bàn lại cùng tác giả Nguyễn Văn Dũng trong bài phản hồi này: đó là vấn đề bằng chứng khoa học, tư cách khoa họcnhững cáo buộc vô cớ.

Bằng chứng khoa học

Xin nói ngay rằng, khi đề cập đến “bằng chứng khoa học”, tôi muốn nói đến những dữ liệu được đúc kết từ những nghiên cứu đã được công bố trên các tập san khoa học có hệ thống bình duyệt.  Bằng chứng khoa học không phải là những phát biểu của các quan chức, cũng không phải là những quan sát ban đầu chưa qua phân tích, chưa qua bình duyệt chuyên môn.

Dựa vào tiêu chuẩn trên, tôi thấy các phát biểu của tác giả Nguyễn Văn Dũng hoàn toàn chẳng có bằng chứng khoa học nào cả, ngoại trừ lặp lại những kiến thức cơ bản trong sách giáo khoa.  Thật ra, một số kiến thức mà ông lặp lại cũng không phù hợp với kiến thức y học hiện hành.  Ở đây, tôi chỉ nêu lên 4 vấn đề liên quan đến bằng chứng khoa học trong việc phòng chống bệnh tả và tiêu chảy cấp tính.

Vấn đề thứ nhất là vai trò của vi khuẩn.  Tác giả Nguyễn Văn Dũng viết rằng “Trong các vi khuẩn chỉ điểm nhiễm bẩn phân người và gia súc, các vi khuẩn Streptacoccus và Staphilltacoccus là chỉ điểm môi trường mới ô nhiễm, còn E.Coli chỉ điểm nhiễm bẩn phân đã xảy ra được ít lâu …” nhưng không trình bày bằng chứng của phát biểu này xuất phát từ đâu hay có dữ liệu khoa học nào làm cơ sở hay không.  Xem qua bất cứ sách giáo khoa về vi sinh học nào, chúng ta dễ dàng thấy phần lớn vi khuẩn Staphylococcus (chứ không phải “Staphilltacoccus”) vô hại, và thường thấy ở da và chất nhầy của người và động vật.  Vi khuẩn này cũng không được xem là nguyên nhân của bệnh truyền nhiễm.  Ngoài ra, vi khuẩn Streptococcus (chứ không phải thuật ngữ cũ “Streptacoccus”) cũng thường hay thấy ở đường hô hấp trong người.  Trung bình có 5 đến 15% người bình thường chứa vi khuẩn này. Các nghiên cứu ở các nước nhiệt đới cho thấy rõ rằng dựa vào sự hiện diện của Coliform, Streptococcus và Coliphages không phải là những chỉ số đáng tin cậy để đánh giá nước bị nhiễm khuẩn từ phân [1-2].  Cần nhắc lại rằng Coliform có thể sống sót trong nước ấm, nhất là ở những vùng nhiệt đới như nước ta; do đó, sự hiện diện của Coliform trong nước không hẳn có nghĩa là nước bị nhiễm phân.  Ngay cả các vi khuẩn như Bifidobacterium spp. Và Clostridium perfringens tuy phản ảnh độ nhiễm khuẩn khá hơn, nhưng lại khó đo lường vì thiếu độ đặc hiệu (specificity) [1]. 

Thứ hai là vấn đề mắm tôm và bệnh tả. Tác giả Nguyễn Văn Dũng hỏi “Mắm tôm đã được ‘minh oan’ hoàn toàn?” và tự trả lời rằng mặc dù 100% mẫu mắm tôm đều không hàm chứa vi khuẩn gây bệnh tả V. cholerae, nhưng hàm chứ các vi khuẩn colifromCl. Perfringens, rồi lí giải rằng “Tuy nuôi cấy có thể không phát hiện có phẩy khuẩn tả vì muối chỉ có tác dụng ức chế (hút nước tế bào nội mô của vi khuẩn, làm cho vi khuẩn bị ‘mất nước’ hoặc ‘hôn mê’ mà chưa hẳn đã chết). Có thể vì thế vẫn giữ nguyên tính kháng nguyên của độc tố ruột và vẫn gây tiêu chảy cấp?” Tôi e rằng các lí giải này thiếu bằng chứng khoa học và không thuyết phục.

Trước hết, để trả lời mắm tôm có được minh oan hay không, tôi xin mượn lời phát biểu của Thứ trưởng Trịnh Huân Quấn: “Thịt chó, mắm tôm không phải là nguyên nhân gây bệnh trong vụ dịch này nữa. Mà nguyên nhân là thực phẩm tươi sống, thực phẩm nguội và nguồn nước đang bị ô nhiễm nặng nề” (báo Pháp Luật TPHCM, ngày 21/11/2007).  

Còn lí giải của tác giả Nguyễn Văn Dũng tôi phải nói là rất lạ lùng và phi khoa học. Bằng chứng nào để ông nói rằng vi khuẩn tả chỉ “hôn mê”, chưa chết và vẫn gây tiêu chảy? Thật kinh ngạc cho một nhà khoa học đưa ra một phát biểu quan trọng mà không có bằng chứng khoa học!  Về mặt sinh học, vi khuẩn tả (V. Cholerae O1) phát triển trong môi trường nhiệt độ tối ưu là 37oC (dao động từ 10 đến 43oC), trong cả môi trường có không khí (“hiếu khí”) và không có không khí (“yếm khí”) nhưng tối ưu trong môi trường hiếu khí. Vi khuẩn tả phát triển mạnh trong môi trường nước với nồng độ muối tối ưu là 0,5% (dao động từ 0,1 đến 4%), và mức độ tăng trưởng cũng như số lượng vi khuẩn giảm đi rõ rệt và thấp nhất khi nồng độ muối trong nước vượt qua ngưỡng 3% [3]  Một nghiên cứu khác cho thấy với nồng độ muối 0,25% (nồng độ tối ưu) thì vi khuẩn tả mới có thể sản sinh ra độc tố tả [4].

Vấn đề thứ ba là phát biểu mù mờ. Một phát biểu khác của tác giả có mang chút màu sắc khoa học là câu: “Nên nhớ pH < 4,6 là độ axít có tác dụng diệt khuẩn để bảo quản, còn muối mặn chỉ có tác dụng ức chế để bảo quản mà không có tác dụng diệt khuẩn!”  Một câu phát biểu không rõ ràng!  Khuẩn nào?  Một lần nữa, câu phát biểu không có bằng chứng và dữ liệu khoa học.   

Không thể nói rằng mắm tôm là thủ phạm hay nguyên nhân gây bệnh tả mà không chứng minh được vi khuẩn gây bệnh tả có trong mắm tôm.  Cũng không thể nào nói rằng mắm tôm là nguyên nhân gây bệnh tiêu chảy cấp tính khi không dẫn chứng được các vi khuẩn coliform và và Cl. Perfringens trực tiếp gây bệnh tả.  Không thể nào vạch định chính sách y tế cộng đồng dựa vào những nhận định cá nhân, thiếu dữ liệu khoa học.  Vấn đề mắm tôm đã được đưa ra bàn luận trong Hội nghị về thực phẩm vừa diễn ra ở Hà Nội ngày 11/4/2008, Phó Thủ tướng Thường trực Nguyễn Sinh Hùng đã cho rằng mắm tôm không phải là thủ phạm chính gây tiêu chảy cấp.  Lí luận về mối liên hệ giữa mắm tôm và bệnh tả của Cục An toàn Vệ sinh Thực phẩm thậm chí còn được giới báo chí nhận xét là “đuối lý”!  (Xem báo Tiền Phong ngày 12/4/2008).

Vấn đề thứ tư là quan điểm thiếu nhất quán.  Điều làm tôi thấy sợ và rất quan tâm là ông viết rằng “Trong khi dịch tiêu chảy cấp đã lan rộng, mầm bệnh gây dịch phát tán khắp nơi trong tất cả các môi trường, các bề mặt của mọi thứ có thể là trung gian truyền bệnh thì mọi biện pháp nhằm ‘bao vây, dập tắt dịch’ trong thời điểm này đều đúng, dù phải trả giá ở khía cạnh nào đó.” Với quan điểm đó, và trong tình trạng “Tiền giấy bị nhiễm khuẩn E.coli rất nặng” [5], tôi phải hỏi ông có cấm lưu hành tiền giấy hay không? 

Việc tìm thấy E. coli trong thực phẩm như rau cải hay thịt ở Việt Nam có đáng ngạc nhiên và làm cho ông phải đóng cửa chợ?  Năm 2004 các nhà nghiên cứu Việt – Úc đã tiến hành nghiên cứu để biết tần số hiện diện của E. coli trong thực phẩm, và kết quả này đã được công bố trên một tập san sinh học và môi trường vào năm ngoái [6].  Trong nghiên cứu này, các nhà nghiên cứu ra các chợ trong Thành phố Hồ Chí Minh và lấy 50 mẫu thịt bò, 30 mẫu thịt gà, 50 mẫu thịt heo, và 50 mẫu hải sản (tôm, sò, cua, ghẹ, v.v…).  Sau khi phân tích, họ phát hiện trên 90% các mẫu thịt và hải sản hàm chứa E. coli.  Tại sao ông không hành động vào năm 2004 mà để đến khi bệnh bộc phát thì mới hành động để “phải trả giá ở khía cạnh nào đó”.  Ai trả giá đó, nếu không là người dân?  

Tác giả Nguyễn Văn Dũng nặng lời trách tôi và bác sĩ Lê Đình Phương là hồ đồ.  Tuy nhiên, rất tiếc là ông không chứng minh được tôi hồ đồ chỗ nào.  Sẵn đây, xin mời ông đọc phát biểu của Tiến sĩ Trần Đáng, Cục trưởng Cục Vệ sinh an toàn thực phẩm rằng “Nếu như không kiểm soát được lượng tiền nhiễm khuẩn E. coli lưu thông thì nguy cơ mang mầm bệnh, chủ yếu là ảnh hưởng về đường tiêu hóa sẽ lây lan cao.” Ông thấy phát biểu trên như thế nào?  Ông có thấy tác hại của một tuyên bố như thế đến kinh tế, du lịch, và tâm lí xã hội không?  Và, quan trọng hơn, cơ sở khoa học ở đâu?  Nghiên cứu đó được thực hiện như thế nào, phương pháp ra sao, và kết quả công bố ở đâu?  Ông nên lắng nghe người dân, lắng nghe các đồng nghiệp y tế để biết họ nghĩ gì về “nghiên cứu” cho rằng “tiền giấy bị nhiễm khuẩn gây tiêu chảy”!

Xin nhắc tác giả Nguyễn Văn Dũng rằng trong một nghiên cứu ở Yên Sở (Hà Nội) các nhà nghiên cứu theo dõi 636 người (tuổi từ 15 đến 70) thuộc 400 gia đình từ tháng 11/2002 đến tháng 5/2004, và qua phân tích phân, các nhà nghiên cứu thấy có khoảng 14% bệnh nhân tiêu chảy bị nhiễm vi khuẩn E. coli, nhưng trong nhóm người không mắc bệnh tiêu chảy vẫn có khoảng 10% nhiễm vi khuẩn E. coli.  Nói cách khác, chưa có bằng chứng để nói rằng có mối liên hệ giữa E. coli và tiêu chảy cấp tính trong nghiên cứu này [7].

Tư cách khoa học

Bây giờ tôi bàn đến vấn đề tư cách khoa học.  Tác giả Nguyễn Văn Dũng cho rằng những người ngoài chuyên ngành vệ sinh dịch tễ như tôi và bác sĩ Lê Đình Phương không có tư cách khoa học để bàn về vấn đề phòng chống bệnh tả.  Tôi thấy đây là một quan điểm khá phổ biến ở trong nước: người ta thường bác bỏ ý kiến của những người ngoài ngành hay “ngoại đạo”.  Nhưng rất tiếc đó là một quan điểm cực kì sai lầm và không theo kịp với thời đại của y học hiện đại.  Trong bất cứ lĩnh vực y học hiện đại nào, để hiểu vấn đề đến nơi đến chốn cần phải có sự hợp tác và đóng góp của nhiều chuyên gia từ các ngành liên đới.  Trong ngành loãng xương của chúng tôi, kiến thức về chẩn đoán, điều trị và phòng bệnh được tích lũy từ các chuyên gia trong các ngành như nội tiết học, khớp, phẫu thuật, dịch tễ học, sinh lí học, miễn dịch học, công nghệ sinh học, di truyền học, thậm chí toán học.  Nếu một chuyên gia nào đó muốn “chôn đầu dưới cát” và bảo lưu quan điểm cục bộ của ngành mình thì chuyên ngành đó sẽ không thể nào phát triển được [8].

Liên quan đến vấn đề phòng chống bệnh tả và tiêu chảy cấp tính, có nhiều người ngoài Bộ Y tế phát biểu, trong đó có tôi, bác sĩ Lê Đình Phương, giáo sư Nguyễn Lân Dũng, và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.  Trong buổi làm việc với Bộ Y tế ngày 12/4/2008, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đề nghị phải ngăn chặn dịch từ gốc bằng cách cải thiện hệ thống nhà vệ sinh, cung cấp nước sạch, thay đổi tập quán ăn uống, và xử lí môi trường.  Giáo sư Nguyễn Lân Dũng cũng lên tiếng đồng ý với những nhận xét của tôi về E. coli và tiêu chảy cấp tính.  Ông Nguyễn Văn Dũng có chất vấn tư cách khoa học của giáo sư không?  Bác sĩ Lê Đình Phương cũng chất vấn câu chuyện tiền giấy nhiễm vi khuẩn gây bệnh tiêu chảy cấp tính.  Khi đòi hỏi người phản biện phải có tư cách khoa học, tôi không rõ tác giả Nguyễn Văn Dũng có đòi hỏi Thủ tướng Chính phủ hay giáo sư Nguyễn Lân Dũng phải có chuyên môn về vệ sinh dịch tễ không?

Tác giả Nguyễn Văn Dũng chất vấn tư cách khoa học của tôi (với hàm ý kiểu “một chuyên gia loãng xương thì biết gì về vệ sinh dịch tễ mà nói”), nhưng tôi không thấy ông chỉ ra bất cứ một phát biểu nào của tôi là sai lầm.  Tuy nhiên, nếu phải có tư cách khoa học để nói chuyện, thì tôi cũng thưa với ông rằng tôi hoàn toàn có tư cách, bởi vì tôi được đào tạo về dịch tễ học, từng làm nghiên cứu về lĩnh vực này trên 20 năm qua, và từng thường xuyên tổ chức các khóa học về phương pháp dịch tễ học ở trong nước. Nhưng vấn đề không phải tôi là ai, mà là ý kiến của tôi đúng hay sai.  Người ta thường nói: "người kém học nói 100 điều, có ít nhất là một điều đúng; và người thông thái nói 100 điều, có ít nhất là 1 điều sai". 

Thật vậy, vấn đề không phải là cá nhân người phát biểu (như người đó là ai, có học vị gì, hay mang học hàm nào, hay công tác ở đâu) mà là ý kiến của người phát biểu.  Trong bất cứ thảo luận nào, chỉ có luận điểm -- chứ không phải cá nhân người phát biểu -- mới là tâm điểm, là đối tượng để bàn luận.  Điều quan trọng hơn, những luận điểm đó phải có cơ sở và bằng chứng khoa học.  Đối với ý kiến không có bằng chứng khoa học, nhưng người phát biểu lại sử dụng chuyên môn của mình ra làm bảo kê thì đó là một hình thức ngụy biện [9].  Chỉ có người mang phức cảm tự ti (inferiority complex) mới lấy học hàm, học vị hay chuyên môn ra đe dọa hay bác bỏ ý kiến của người khác.  Trong hoạt động khoa học, chỉ có dữ liệu khoa học và diễn giải dữ liệu đó cho logic mới quan trọng, còn những chức danh (như “phó giáo sư tiến sĩ y khoa” hay “chuyên khoa Vệ sinh dịch tễ”) hoàn toàn vô nghĩa.  Ông Nguyễn Văn Dũng có chú ý trong y văn thế giới có nhiều tác giả là nhà nghiên cứu mà không có bằng tiến sĩ hay không?

Tuy tác giả Nguyễn Văn Dũng chất vấn tư cách khoa học của người khác, còn tác giả thì sao? Ông kí tên là “Chuyên khoa Vệ sinh dịch tễ” hàm ý nói rằng ông là chuyên gia thứ thiệt.  Nhưng tìm trong thư viện y khoa quốc tế, tôi không thấy ông có bất cứ một nghiên cứu nào về dịch tễ học!  Vậy thì vấn đề đặt ra là cái “chuyên khoa” đó ở đâu, đại học nào cấp bằng, và công trình khoa học nào để có bằng cấp?  Tôi phải đặt những câu hỏi này, bởi vì tôi thấy hơi khó tin khi một bác sĩ “chuyên khoa Vệ sinh dịch tễ” mà viết sai tên vi khuẩn.  Thật vậy, ông Nguyễn Văn Dũng không chỉ viết sai tên vi khuẩn một lần mà sai đến hai lần như tôi vừa đề cập trên.

Chẳng những viết sai tên vi khuẩn mà ông còn hiểu sai cả khái niệm dịch tễ học.  Ông viết rằng trong đợt bộc phát bệnh tả và tiêu chảy cấp tính vừa qua “đều cho tỷ lệ tấn công quá cao đối với mắm tôm”.  Làm sao ước tính được tỉ lệ tấn công (attack rate) khi mà chưa ai biết được có bao nhiêu người ăn mắm tôm và trong số đó có bao nhiêu người mắc bệnh?  Những gì tác giả quan sát không phải là “tỉ lệ tấn công” mà là tỉ “lệ lưu hành” (prevalence rate), và tỉ lệ lưu hành không cho phép ông phát biểu nguyên nhân và hệ quả được.  Trớ trêu thay, đó là bài học, là khái niệm nhập môn 101 về dịch tễ học mà ông cũng không hiểu, nhưng lại chất vấn tư cách khoa học của người khác!  Do đó, tôi có nhiều lí do để đặt dấu hỏi rất lớn về tư cách chuyên môn khoa học của tác giả Nguyễn Văn Dũng.

            Tôi hi vọng rằng tác giả Nguyễn Văn Dũng chỉ kí tên với danh xưng “chuyên khoa Vệ sinh dịch tễ” ở trong nước, và không nên trưng bày danh hiệu như thế với các chuyên gia nước ngoài.  Với trình độ của một chuyên gia, những sai lầm cơ bản như thế rất khó chấp nhận được và nếu tự xưng là chuyên gia thì họ sẽ mỉm cười và xem thường đồng nghiệp Việt Nam (nhất là trong bối cảnh “tiến sĩ giấy”, học vị dỏm, và hư danh quá phổ biến như hiện nay ở trong nước), làm tổn hại đến uy tín của khoa học và y khoa Việt Nam.

Văn hóa tranh luận

            Bây giờ tôi muốn nói qua một ý về văn hóa tranh luận.  Tranh luận trên các diễn đàn công cộng là một hình thức trao đổi ý kiến không thể thiếu được trong một xã hội dân chủ và văn minh. Ở nhiều nước Tây phương, lưu lượng của những tranh luận cởi mở và nghiêm túc được xem là một dấu hiệu của một xã hội lành mạnh.  Nhưng thế nào là một văn hóa tranh luận?  Nói một cách ngắn gọn, một cuộc tranh luận nghiêm túc là một cuộc tranh luận có qui tắc hẳn hoi, mà trong đó người tham gia không được, hay cần phải tránh, phạm luật chơi.  Những qui tắc chung và căn bản là người tham gia chỉ phát biểu bằng cách vận dụng những lí lẽ logic, có bằng chứng khoa học, có thái độ thành thật và cởi mở, chứ không phát biểu theo cảm tính, lười biếng, hay biểu hiện một sự thiển cận, đầu óc hẹp hòi.  

Tôi thấy tác giả Nguyễn Văn Dũng thiếu hay chưa quán triệt văn hóa tranh luận trong khoa học.  Xuyên suốt bài viết là những câu văn mang tính lên lớp rất trịch thượng và những cáo buộc nghiêm trọng.  Thật ra, tôi kinh ngạc là báo Sức khỏe và Đời sống lại đăng một bài viết như thế!  Dưới đây, tôi sẽ trả lời từng cáo buộc:

            Phát biểu tiêu cực? Tựa đề của bài viết là “Không được tùy tiện phát ngôn tiêu cực về chống dịch tiêu chảy cấp”.  Tôi phải hỏi thế nào là tùy tiện và ý kiến nào gọi là tiêu cực? Tôi viết tất cả 6 bài liên quan đến vấn đề bệnh tả và tiêu chảy trên các báo đại chúng.  Bất cứ phát biểu quan trọng nào tôi cũng trình bày bằng chứng khoa học làm cơ sở, thậm chí còn cung cấp cả tài liệu tham khảo cho báo chí (nhưng có khi họ cắt bỏ vì giới hạn trang giấy).  Chẳng hạn như khi đặt vấn đề có nên tập trung phòng chống bệnh tả vào vi khuẩn E. coli, tôi trình bày các nghiên cứu từ Việt Nam cho thấy mối liên hệ giữa E. coli và bệnh tiêu chảy và bệnh tả không hiện hữu hay hiện hữu nhưng rất yếu ớt.  Từ đó, tôi nghĩ rằng tập trung vào chống E. coli mà xem nhẹ các biện pháp quan trọng khác như nước là thiếu cơ sở khoa học.  Thay vào đó tôi đề nghị 4 biện pháp phòng chống bệnh tả: làm sạch nguồn nước, vệ sinh an toàn thực phẩm, vệ sinh cá nhân, và vắcxin.  Một số ý kiến này cũng trùng hợp với phát biểu của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.  Tôi còn trình bày bằng chứng y văn cho thấy bổ sung kẽm có thể tăng hiệu quả điều trị bệnh tiêu chảy.  Tôi còn cảnh báo rằng đừng để nước ta thành một Bangladesh thứ hai với tình trạng bệnh cứ “đến hẹn lại lên”.  Như thế thì sao nói là tôi tiêu cực được?  Trình bày ý kiến dựa vào bằng chứng khoa học là tùy tiện và hồ đồ sao?  Do đó, tôi phải cực lực phản đối tác giả Nguyễn Văn Dũng về những cáo buộc vô cớ của ông. Tôi cho rằng ông nợ tôi một lời xin lỗi.

            Khoe khoang kiến thức trên báo? Tác giả Nguyễn Văn Dũng hàm ý cho rằng tôi và bác sĩ Lê Đình Phương khoe khoang kiến thức trên báo đại chúng.  Tất cả những bài viết của tôi đều nhắm vào người lao động, những người không quen với các thuật ngữ và khái niệm y khoa.  Chính vì thế mà bất cứ bài viết nào tôi cũng đều giải thích cặn kẽ ý nghĩa của dữ liệu khoa học, diễn giải bằng từ ngữ bình dân để tất cả bạn đọc đều có thể hiểu được.  Những diễn giải như thế không thể xem là khoe khoang kiến thức được.  Tôi viết cho người dân thường chứ không hẳn cho cán bộ y tế, cho nên tôi phải chọn những tờ báo đại chúng như Người lao động, Tuổi trẻ, Vietnamnet, Thời báo Kinh tế Sài Gòn. Đó cũng là những tờ báo mà tôi cộng tác thường xuyên. Tôi rất hân hạnh mời ông Nguyễn Văn Dũng tranh luận công khai với tôi và người dân trên một tờ báo đại chúng thay vì trên một tạp chí của Bộ Y tế mà đại đa số độc giả là các cán bộ y tế.

            Phát biểu hàn lâm? Ông còn cho rằng những diễn giải của tôi trên báo chí đại chúng là “hàn lâm”.  Nhưng tôi không đồng ý với nhận xét này.  Nếu là hàn lâm thì chắc tôi viết cho một tạp chí chuyên ngành, chứ không phải báo chí đại chúng.  Do đó, nếu ông Nguyễn Văn Dũng cho rằng những câu chữ trong bài viết của tôi là “hàn lâm” thì tôi bắt buộc phải chất vấn trình độ chuyên môn và khoa học của ông vậy.

Ông còn giảng dạy chúng tôi rằng tuyên truyền thì ngôn ngữ phải bình dân, nôm na, để mọi người đều có thể hiểu được.  Vâng, tôi cũng nhất trí như thế.  Nhưng rất tiếc là ông không làm theo những gì ông giảng.  Trong một bài viết có hai trang mà ông sử dụng toàn những thuật ngữ như “tỷ lệ tấn công”, “chỉ điểm nhiễm bẩn”, v.v… Mà, như tôi giải thích trên, chính ông cũng không hiểu những thuật ngữ đó!  Giảng người khác mà không làm theo điều mình giảng -- nói như ông bà mình vẫn nói -- là đạo đức giả (hypocrisy).

            Vấn đề trích dẫn.  Ông còn lên lớp và trách móc rằng tôi không trích dẫn nguyên câu văn của phó giáo sư tiến sĩ y khoa Trần Đáng trong ngoặc kép là một “sai lầm cơ bản khi muốn chỉ trích người khác trên báo chí”.  Xin nói thẳng rằng tôi không chỉ trích ai cả.  Trong bài viết trên Người lao động tôi đặt tựa đề là “Có nên tập trung vào vi khuẩn E. coli ?” và có trích dẫn nguyên câu phát biểu của  Tiến sĩ Trần Đáng (“Nếu như không kiểm soát được lượng tiền nhiễm khuẩn E. coli lưu thông thì nguy cơ mang mầm bệnh, chủ yếu là ảnh hưởng về đường tiêu hóa sẽ lây lan cao”), nhưng Tòa soạn báo biên tập lại một số câu văn, cắt bỏ trích dẫn, và đặt tựa đề thành “Chống bệnh tả: Tập trung vào E. coli là sai lầm”.  Trách người khác mà không biết câu chuyện đằng sau có nên gọi là “hồ đồ” không?

Sẵn đây xin thưa với tác giả Nguyễn Văn Dũng rằng tôi cũng biết một hay hai điều về cách viết một bài báo khoa học, và do đó cũng hiểu được những khác biệt giữa trích dẫn câu văn và trích dẫn một ý tưởng.  Trích dẫn câu văn hay ý tưởng mà không đề nguồn là một sự ăn cắp.  Trích dẫn một câu văn trong ngoặc kép mà sửa dấu là thiếu lương thiện tri thức.  Tựa đề bài báo của tôi trên Người lao động là “Chống bệnh tả: Tập trung vào E. coli là sai lầm”, nhưng tác giả Nguyễn Văn Dũng sửa lại thành “Chống bệnh tả tập trung vào E. coli là sai lầm” (thiếu dấu “:” và chữ “Tập” thành “tập”).  Hay như khi trích tựa đề của bài viết của bác sĩ Lê Đình Phương “Tiền là thủ phạm lây lan tiêu chảy cấp?” ông bỏ dấu hỏi để biến thành một ý hoàn toàn khác.  Hành động như thế thể hiện sự cẩu thả hay thiếu lương thiện tri thức. 

Vấn đề tự cao, tự đại.  Mở đầu bài viết tác giả Nguyễn Văn Dũng phát biểu rằng “Việt Nam được công nhận là nước có bề dày kinh nghiệm trong phòng chống các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm và tối nguy hiểm, chẳng hạn với dịch SARS.”  Tôi không biết ai công nhận, nhưng sự thật là tôi cũng muốn tin như thế.  Tuy nhiên, rất tiếc là trong thực tế thì không phải như thế.  Chỉ trong vòng 6 tháng qua mà nước ta có đến 3 lần bộc phát dịch tả và tiêu chảy.  Nếu Việt Nam chúng ta giỏi và có bề dày kinh nghiệm chống bệnh truyền nhiễm thì tại sao các bệnh truyền nhiễm cho đến nay vẫn là những nguyên nhân tử vong hàng đầu của dân số Việt Nam; tại sao cho đến nay, năm nào chúng ta cũng chứng kiến hàng ngàn ca bệnh tiêu chảy và bệnh tả, cùng với hàng vạn ca bệnh truyền nhiễm khác?  Tôi nghĩ chúng ta nên khiêm tốn hơn trong phát biểu.  Không nên vì một vài lời khen ngoại giao của người nước ngoài (có khi đó là những lời khen đểu) mà cho rằng ta tài giỏi.

Kết luận

Nói tóm lại, tôi tán thành sự phản hồi của tác giả Nguyễn Văn Dũng về những ý kiến của tôi liên quan đến vấn đề phòng chống bệnh tả.  Nhưng rất tiếc là bài phản hồi của tác giả thiếu văn hóa khoa học, thiếu dữ liệu khoa học, và cộng với một văn phong hằn học biến một vấn đề mang bản chất khoa học thành vấn đề mạ lị cá nhân.  Tôi vẫn bảo lưu ý kiến rằng tác giả Nguyễn Văn Dũng còn nợ tôi một lời xin lỗi.

Tôi đã dẫn chứng cho thấy tất cả những cáo buộc mà tác giả viết về những ý kiến của tôi và cá nhân tôi hoàn toàn vô cớ.  Tôi đã chỉ ra những sai lầm cơ bản về kiến thức dịch tễ học (một lĩnh vực mà ông tự xưng là chuyên gia).  Tôi cũng phân tích cho thấy tác giả phạm rất nhiều sai sót trong lí luận và logic. Ấy thế mà ông lại lên lớp chúng tôi!  Thật ra, tôi không phiền hà gì khi được người khác lên lớp, nhưng tôi thật sự thấy ái ngại cho tham vọng của tác giả, bởi vì lên lớp giảng dạy về dịch tễ học đòi hỏi một trình độ và kinh nghiệm vượt xa khả năng và kiến thức của ông. 

Một lần nữa tôi phải quay lại vấn đề tư cách khoa học.  Cựu thủ tướng Pháp Georges Clemenceau có nói một câu với hàm ý rằng chiến tranh rất ư là quan trọng để có thể giao tất cho các tướng lãnh điều hành. Quan điểm này cũng có thể áp dụng cho y tế công cộng: sức khỏe cộng đồng quá quan trọng và không thể giao cho các chuyên gia y tế công cộng toàn quyền quyết định.  Chúng ta đã thấy trong đợt dịch tả bộc phát trong năm ngoái, khi các quan chức y tế một mực khẳng định mắm tôm là “thủ phạm” gây bệnh tả, và cấm sản xuất và phân phối mắm tôm, làm cho nhiều doanh nghiệp bị ảnh hưởng.  Nhưng bây giờ thì chúng ta biết rằng mắm tôm không phải là thủ phạm gây bệnh tả.  Do đó, bằng chứng thực tế cho thấy các chuyên gia vệ sinh dịch tễ có thể sai lầm, và sai lầm của họ có thể dẫn đến tổn hại cho cộng đồng.

Tôi thật sự thất vọng trước thái độ của tác giả Nguyễn Văn Dũng đối với các ý kiến phản biện của người khác, kể cả ý kiến của tôi.  Tôi thật sự kinh ngạc một bài phản hồi đầy tính mạ lị như thế lại xuất hiện trên một tạp chí của Bộ Y tế!  Điều này càng làm cho tôi quan tâm đến vấn đề y tế cộng đồng ở nước ta và phải đặt câu hỏi “Nhà nước có nên giao công tác vệ sinh dịch tễ và y tế công cộng cho những người như bác sĩ Nguyễn Văn Dũng hay không?”  Tôi nghĩ người dân trả thuế để nuôi các cán bộ y tế cũng có quyền đặt một câu hỏi như thế.

Chú thích

[1] Hazen TC. Fecal coliforms as indicators in tropical waters: A review. Toxicity Assessment 2006; 3: 461 - 477

[2] Okpokwasili GC, Akujobi TC. Bacteriological indicators of tropical water quality. Environmental Toxicology and Water Quality 1998; 11: 77-81.

[3] Vital M, Fuchslin HP, Hammes F, Egli F. Growth of Vibrio cholerae O1 Ogawa Eltor in freshwater.  Microbiology 2007;153:1993-2001.

[4] Tamplin ML, Colwell RR. Effects of microcosm salinity and organic substrate concentration on production of Vibrio cholerae enterotoxin. Appl Environ Microbiol 1986;52:297-301 (Aug, 1986)

[5] Bài báo Tiền giấy bị nhiễm khuẩn E.coli rất nặng đã được rút xuống khỏi trang web của báo Tiền Phong, nhưng có thể xem ở đây “Tiền giấy nhiễm khuẩn gây tiêu chảy”, trong đó có đoạn viết: “TS Trần Đáng - Cục trưởng Cục Vệ sinh an toàn thực phẩm - Bộ Y tế xác nhận, gần 100 mẫu tiền mà Cục tiến hành lấy ngẫu nhiên đều nhiễm khuẩn Escherichia coli (E. coli) rất cao. […]

Theo ông Đáng, kết quả xét nghiệm các mẫu tiền mệnh giá 500 đồng, 1.000 đồng và 2.000 đồng lấy từ các quán ăn đường phố thì 100% bị nhiễm khuẩn e.coli.

Trong khi đó, các loại tiền mệnh giá lớn hơn như 5.000 đồng, nhiễm 94%, 10.000 đồng nhiễm 86%, 2 loại tiền mệnh giá 20.000 đồng và 50.000 đồng nhiễm khuẩn E.coli đều ở mức lần lượt là 65%- 70%.”

[6] Thi Thu Hao Van, George Moutafis, Linh Thuoc Tran, Peter J Coloe. Antibiotic resistance in food-borne bacterial contaminants in Vietnam. Applied Environmental Microbiology 2007; 73:7906-11.

[7] Do Thuy Trang, Bui Thi Thu Hien, Kare Molbak, Phung Dac Cam, Anders Dalsgaard. Epidemiology and etiology of diarrhoeal disease in adults engaged in wastewater-fed agriculture and aquaculture in Hanoi, Vietnam. Tropical Medicine and International Health 2007; 12 (Suppl): 2 23-33.

[8] Người Tây phương có thành ngữ “Bury  head in the sand” (tạm dịch là “chôn đầu dưới cát”) để chỉ những người có quan điểm hẹp hòi, cục bộ, và không chịu tiếp thu y kiến của người khác. 

[9]  Trong logic học, người ta gọi ngụy biện này là  ad verecundiam – lợi dụng uy tín. Chẳng hạn như nói rằng “Isaac Newton là một thiên tài, và ông tin vào Thượng đế.” Đây không hẳn là một lí lẽ hư, nó có thể có liên hệ đến một nhân vật có uy tín trong một lĩnh vực nào đó, nếu người ta thảo luận về lĩnh vực đó. Chẳng hạn như phải phân biệt giữa hai phát biểu “Ông Hawking (Stephen Hawking, nhà vật lí đương đại nổi tiếng người Anh) cho rằng những lỗ đen (black holes) có thể phát ra phóng xạ”, và “Ông Penrose cho rằng xây dựng một cái máy điện toán thông minh là một điều có thể làm được.” Nếu ông Hawking là một nhà vật lí thì chúng ta có thể tin vào ý kiến của ông về những lỗ đen. Nhưng nếu ông Penrose là một nhà toán học, thì chúng ta có quyền chất vấn ông ta có đủ thẩm quyền để bàn về đề tài thông minh nhân tạo hay không?

 

 


200 năm Darwin
Agent Orange: collateral damage
Alexandre Yersin và Việt Nam
Bàn về hiệu quả vắcxin: lâm sàng và kinh tế
Bàn về vấn đề dịch thuật và đánh giá năng suất khoa học
Béo phì ở người Á châu
Béo phì ở trẻ em và virus
Bình luận từ Dr. Yến
Bưởi không gây ung thư vú
Bảo hiểm y tế cộng đồng
Bảo tồn môi sinh: Chiến tranh giữa hai thế giới
Bằng chứng khoa học thay vì lên lớp
Bệnh tả: không để Việt Nam thành Bangladesh thứ hai
Bệnh tật nhìn từ quan điểm của thuyết tiến hóa
Bệnh xơ hóa cơ delta qua y văn thế giới
Bổ sung kẽm và điều trị bệnh tả
Bộ gen trong cây lúa và triển vọng
Bộ Y tế phản ứng chậm với rét đậm
Chiều cao của người Việt
Chiều cao và tổng thống Mĩ
Cholesterol và bệnh Tim
Cholesterol: hung thần hay bạn?
Chuột và... các nhà khoa học
Chính sách y tế cần dựa vào bằng chứng khoa học
Chạy đua vũ khí và … dịch cúm
Chất béo, cholesterol, bệnh tim và statins: xét lại bằng chứng
Chất keo xã hội: hormones
Chất lượng nghiên cứu dịch tễ học và y tế cộng đồng của Việt Nam qua chỉ số H
Chất lượng nghiên cứu khoa học ở Việt Nam qua chỉ số trích dẫn
Chất vấn chuẩn chẩn đoán béo phì
Chế độ ăn uống với nhiều thịt động vật và nguy cơ tử vong
Chủng vi khuẩn tả hiện nay ở nước ta có phải mới xuất hiện?
Cuộc chiến hóa học phi pháp lớn nhất trong lịch sử chiến tranh
Câu chuyện y học: Leptin và béo phì
Có bao nhiêu bác sĩ viết chữ khó đọc
Có nên tập trung vào vi khuẩn E. coli ?
Có thể xảy ra đại dịch cúm gia cầm?
Công cụ đơn giản để chẩn đoán tiểu đường ở người Đông Nam Á
Cúm gia cầm và nhiễu thông tin
Cúm H1N1: biết và chưa biết
Cơ hội để khép lại một chương lịch sử đau lòng
Cần hiểu đúng về Ung thư và nguy cơ ung thư
Cần qui ước đạo đức cho kĩ nghệ thực phẩm
Cần tiêm chủng ngừa bệnh tả vùng có nguy cơ cao
Cần điều tra về chất lượng bệnh viện
Cổ phần hóa bệnh viện công và chất lượng
Cổ phần hóa: chưa phải cách duy nhất
DDT và vấn đề cân đối giữa lợi ích và nguy hiểm
Dinh dưỡng: một nguồn thuốc quí giá
DNA không nói dối, nhưng DNA có thể nói … sai
Dịch cúm gà: hoang mang và sự thật khoa học
Dịch cúm heo và tác hại kinh tế
Dịch tay-chân-miệng
Dịch tả: gọi đúng tên để phòng ngừa
Dựa vào khoa học, đừng dựa vào niềm tin!
E. coli – vài câu hỏi thông thường
Gen và bệnh tật
Ghen tuông dưới cái nhìn của tâm lí y khoa
Gian lận trong nghiên cứu khoa học: áp lực kinh tế và cơ chế bình duyệt
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC: KHƠI DẬY VÀ NUÔI DƯỠNG TÍNH HAM HỌC
Giải nobel y học hay sinh lí học 2007 và lợi ích cho người bệnh
Giải Nobel Y sinh học 2008 và những tranh chấp khoa học
Giải Nobel y sinh học 2010 vinh danh người đem niềm vui cho người vô sinh
Giải Nobel y sinh học năm 2005: Một cõi đi về với vi khuẩn
Giải Nobel y sinh học: Nhìn lại quãng đường 100 năm
Giải phẫu ghép mặt và vấn đề y đức
Gout ở xương sống
Gãy xương và tử vong: một vấn nạn y tế cộng đồng
Hiệu quả vắcxin có nghĩa gì?
Hoa vàng mấy độc
Hàm lượng đạm trong sữa “siêu thấp” hay “siêu cao”?
Hóa chất khai hoang trong cuộc chiến Viện Nam: Qui mô và tầm ảnh hưởng
Hướng đi nào để giải quyết vấn đề chất độc da cam ở Việt Nam
Hậu “mắm tôm được minh oan”: bằng chứng khoa học, nhà xí và nghiên cứu
Hệ Thống Học Vị Và Học Hàm Khoa Học Ở Vài Nước Tây Phương
Hợp tác khoa học kiểu nhảy dù - Nguyễn Văn Tuấn
Khi bác sĩ trẻ “khoe” quá nhiều
Khoa học và ngụy khoa học: một vài đặc điểm và khác biệt cần biết
Khoa học, xã hội, và rủi ro
Không thể thành Phù Đổng trong 20 năm!
Khẩu trang và phòng chống cúm A/H1N1
Kiểm định giả thuyết mắm tôm và vi khuẩn tả
Liều lượng melamine bao nhiêu là an toàn?
Lí lịch sinh học của heo và dấu vết văn minh nông nghiệp Đông Nam Á
Lượng giá mạng sống con người
Lợi ích của vitamin D
Miệng nhà quan
Mắm tôm có phải là “thủ phạm” gây bệnh tả? Xét lại bằng chứng khoa học
Mắm tôm và chuyện xin lỗi
Mắm tôm và dịch tả: phân biệt yếu tố nguy cơ và nguyên nhân
Mắm tôm vô tội!
Mắm tôm, nguyên nhân và hệ quả
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Một bệnh hiếm X-linked recessive hypoparathyroidism
Một lần đi phỏng vấn
Một năm nhìn lại
Một phán quyết thiếu cơ sở khoa học
Một vài hiểu lầm tai hại
Một vài ngộ nhận về nghiên cứu khoa học
Một vài vấn đề về qui định chức danh giáo sư ở Việt Nam
Một vụ Madoff trong y khoa: Lại một ngôi sao y khoa rơi rụng!
Mỡ trắng, mỡ nâu
Mỡ  trong máu, huyết áp, và  tiểu đường
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nguyên nhân bệnh tiêu chảy
Ngó trên tay điếu thuốc đã lụi dần
Người cao tuổi và sự hạn chế của y khoa
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Nhân chuyện dịch tả nhớ lại John Snow
Nhân câu chuyện điện não đồ xét nghiệm nghiện ma túy:
Nhân năm khỉ_nguồn gốc con người hiện đại
Nhân năm Tý bàn chuyện thí nghiệm trên chuột
Nhìn lại khoa học Việt Nam năm 2008 qua công bố quốc tế
Nhầm lẫn trong y khoa: Khá phổ biến, nhưng ít ai biết!
Những câu hỏi và trả lời về dịch gia cầm
Những sai sót khó tin nhưng có thật
Những sai sót nguy hiểm trong toa thuốc
Những điều khó tin về “Bảy điều khó tin nhất trong y học”
Năm lí do cho mắm tôm “vô tội”
Phán quyết sau cùng: Chất béo không ảnh hưởng đến ung thư và bệnh tim
Phát hiện gien kiểm soát ráy tai: vài bài học về mò kim đáy biển
Phòng chống bệnh phải dựa vào bằng chứng khoa học!
Phòng chống H1N1 bằng rửa tay và khẩu trang: Biện pháp nào hiệu quả hơn?
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao và cân nặng: thiếu cơ sở khoa học và kì thị giới tính
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao: vấn đề giả định và bằng chứng khoa học
Quyền phê phán và trí thức
Quyền được tiếp cận hồ sơ bệnh án
Quản lý chất lượng: Thuốc phòng "tai nạn y khoa"
Rửa tay bằng xà phòng và tiêu chảy
Serotonin có liên quan đến chứng đột tử
Suy dinh dưỡng ở trẻ em: vấn đề của kinh tế
Sàng lọc trẻ sơ sinh trên phạm vi toàn quốc
Tai nạn y khoa trong bệnh viện
Thế nào là một "bài báo khoa học"
Thế nào là “Cơ sở khoa học” ?
Thịt chó là nguyên nhân của bệnh tiêu chảy cấp tính?
Thịt chó và bệnh tả: nguyên nhân và yếu tố nguy cơ
Tiên lượng bệnh Alzheimer bằng protein expression ?
Tiêu chuẩn chất lượng giáo dục đại học
Tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì cho người Việt - Nguyễn Văn Tuấn
Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh đái tháo đường (diabetes mellitus)
Tiêu chuẩn đề bạt giáo sư: Có nên căn cứ vào số lượng bài báo ?
Tiêu chảy cấp tính và bệnh tả: Định danh cho đúng
Truy tìm ung thư bằng mammography từ tuổi 50
Truyền thông và khoa học: Qui ước Ingelfinger
Truyền thông và y tế
Truyền thông, khoa học và … doanh nghiệp
Trà xanh và sức khỏe
Trách nhiệm và nhân đạo trong vấn đề chất độc da cam
Trái chanh và phòng chống bệnh tả
Trả lời những câu hỏi liên quan đến loãng xương
Trọng lượng cơ thể và tử vong ở người Trung Quốc: Ý nghĩa về việc xác định tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì
Tuổi thọ của người dân giảm 10 năm ?
Tác dụng Placebo trong y học: Tâm lí và ý nghĩa
Tình yêu, sắc đẹp nhìn dưới quan điểm di truyền học
Tín hiệu môi trường từ những “làng ung thư”
Tính khoa học và minh bạch đằng sau xét nghiệm doping
Tại sao không phát biểu về nguyên nhân và hệ quả ?
Tại sao uống rượu gây đỏ mặt và nguy cơ ung thư thực quản
Tạo sinh vô tính và cái chết của Thượng đế
Tạo sinh vô tính và vấn đề sinh đạo đức
Tản mạn về SARS
Tỉ lệ tử vong do cúm heo là bao nhiêu ?
Tự trị, chất lượng và y đức thay vì cổ phần hóa bệnh viện công
Ung thư vú và vấn đề thông tin y khoa
Uống bia hấp dẫn muỗi
Vaccine phòng chống AIDS hiệu quả đến đâu ?
Vaccine phòng chống cúm A/H1N1
Vi khuẩn gây tiêu chảy và ý nghĩa tiêm chủng
Vi khuẩn tả trong chó ?
Viết văn có thể chữa nhiều loại bệnh
Viết văn và trị liệu
Việc ta, ta cứ làm!
Vài nhận xét về 12 điều lệ y đức của Việt Nam
Vài thông tin cần biết về các chương trình truy tìm ung thư vú
Vài đóng góp quan trọng của người Việt khoa học thống kê
Văn hóa khoa học
Văn hóa tranh luận và vấn đề ngụy biện
Vấn đề sinh tố: kẽm và đồng
Vấn đề truy tìm ung thư phổi và hiệu quả 
Vấn đề y đức trong nghiên cứu tế bào mầm (stem cells)
Vấn đề đo lường melamine
Vấn đề đào tạo tiến sĩ: kinh nghiệm từ Australia
Vắc-xin phòng chống ung thư cổ tử cung
Vắcxin ngừa viêm gan B: cẩn thận với “nhiễu thông tin”
Vắcxin ngừa viêm gan B: kinh nghiệm từ nước ngoài
Vắcxin phòng bệnh sởi - quai bị - Rubella: lợi và hại
Vắcxin phòng chống ung thư cổ tử cung: hiệu quả lâm sàng và kinh tế
Vắcxin phòng ngừa bệnh tả: rất cần thiết
Về chấn chỉnh đào tạo tiến sĩ: Công bố bài báo khoa học là một thách thức lớn ?
Về học vị tiến sĩ
Về một sự hiểu lầm thuật ngữ "prospective"
Về phản ứng phụ của bisphosphonates liên quan đến hoại tử xương hàm và rung nhĩ
Vệ sinh như là một loại hàng hóa
Vị thế của nền khoa học Việt Nam
Xung quang xì căng đan về nghiên cứu tế bào mầm
Xã hội hóa và an toàn thực phẩm
Xếp hạng đại học: cần minh bạch hóa phương pháp
Y học hiện đại và những hứa hẹn
Y học thực chứng: vài nét khái quát
Y Khoa và những nhầm lẫn chết người
Y tế dự phòng: nền tảng của y khoa hiện đại
Y đức và nghiên cứu y học
Ói mửa, cao huyết áp và hôn mê
Ăn chay như là một trị liệu
Ăn chay và loãng xương
Điều trị bệnh dựa vào màu da ?
Điều trị đau dây thần kinh tọa bằng phẫu thuật: không có hiệu quả
Đo lường hiệu suất khoa học
Đánh giá đúng tầm quan trọng của ung thư vú 
Đại dịch H1N1
Đại dịch và đại dịch ảo
Đại dịch đã đến ?
Đạo văn trong hoạt động khoa học
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đằng sau những con số hàm lượng đạm trong sữa
Đế quốc Trà
Đề bạt các chức danh khoa bảng: vài kinh nghiệm từ Úc
Đọc lại 12 điều y đức của Việt Nam
Đồi điều về sữa nhiễm melamine
Đừng quên melamine trong các thực phẩm khác!
Ước vọng 200 ?
“Kỹ năng mềm” cho nhà khoa học
“Sẽ” và “có thể”


Trang nhiều tác giả
Trang riêng của Lê Ngọc Dũng
Trang riêng của Lương Lễ Hoàng
Trang riêng của Nguyễn Bảo Trung
Trang riêng của Nguyễn Hoài Nam
Trang riêng của Nguyễn Hữu Đức
Trang riêng của Nguyễn Văn Tuấn
Trang riêng của Nguyễn Ý Đức
Trang riêng của Nguyễn Đình Nguyên
Trang riêng của Phan Xuân Trung
Trang riêng của Đỗ Hồng Ngọc
Trang riêng của Đỗ Minh Tuấn