NGUYỄN VĂN TUẤN

Hậu “mắm tôm được minh oan”: bằng chứng khoa học, nhà xí và nghiên cứu

Nguyễn Văn Tuấn

Thế là mắm tôm đã được Bộ Y tế “minh oan”.  Sau cùng thì mắm tôm “vô tội”.  Theo báo Pháp Luật TPHCM, ngày 21/11, Thứ trưởng Bộ Y tế Trịnh Quân Huấn cho biết: “Thịt chó, mắm tôm không phải là nguyên nhân gây bệnh trong vụ dịch này nữa. Mà nguyên nhân là thực phẩm tươi sống, thực phẩm nguội và nguồn nước đang bị ô nhiễm nặng nề”.  Tuy nhiên, phát biểu minh oan này vẫn còn quá chậm, và sự chậm trễ này có thể đã gây tổn hại cho nhiều cơ sở sản xuất mắm tôm và khách hàng của họ.  Trong bài này tôi sẽ nhân câu chuyện mắm tôm được minh oan để bàn đến hai vấn đề khác: đó là vai trò của nhà xí và nghiên cứu khoa học.

Vẫn cần phải dựa vào bằng chứng!

Câu chuyện mắm tôm được xem là “thủ phạm số 1” trong vụ bộc phát bệnh tả và tiêu chảy bắt đầu từ ngày 30/10 khi giám đốc Sở Y tế Hà Nội cho biết “Nguyên nhân chính dẫn đến căn bệnh này là do người bệnh ăn thực phẩm sống như: mắm tôm, mắm tép, tiết canh, gỏi hải sản… trong đó có tới 90% số người mắc bệnh là do ăn mắm tôm sống.”  Chỉ ba ngày sau, ngày 2/11 Bộ trưởng Bộ Y tế cho biết “Nghi phạm số một hiện nay gây ra dịch tiêu chảy cấp là mắm tôm” và sau đó ban hành “Quy trình xử lý dịch tả”. 

            Dù chúng tôi đã lên tiếng ngay từ đầu (ngày 4/11) rằng cơ sở lí luận để tập trung vào cấm mắm tôm không mang tính khoa học, và một chiến lược tập trung vào chỉ một thực phẩm như mắm tôm có thể dẫn đến sai lầm nghiêm trọng.  Nói ra thì có vẻ như “Đấy! Chúng tôi đã nói thế”, nhưng sự thật là chúng tôi đã viết một loạt bài bài trình bày bằng chứng khoa học và sử dụng cả thống kê học để chứng minh rằng mắm tôm không phải là “thủ phạm” gây bệnh tả, càng không phải là nguyên nhân.  Chúng tôi cũng chỉ ra rằng nghiên cứu trên thế giới, kể cả từ Việt Nam mới công bố vào năm 2007, cho thấy nguồn nước, thiếu vệ sinh, và thực phẩm nhiễm trùng mới chính là các yếu tố nguy cơ liên quan đến hay gây bộc phát dịch bệnh tả và tiêu chảy.

Thế nhưng phải đợi đến ngày 21/11, tức sau gần 3 tuần với bằng chứng y văn trên phương tiện truyền thông đại chúng, các quan chức y tế mới chịu “minh oan” cho mắm tôm.  Như thế là quá chậm.  Sự chậm trễ này có thể đã gây tổn hại đến nhiều người, nhất là giới sản xuất mắm tôm.

Có lẽ một số bạn đọc ngạc nhiên thấy Bộ Y tế thay đổi quan điểm về mắm tôm, từ khẳng định thực phẩm này là “thủ phạm số 1”, là “nguyên nhân” đến “không phải là nguyên nhân gây bệnh”, nhưng theo tôi sự thay đổi đó rất đáng hoan nghênh.  Khoa học và y học phát triển từ những kinh nghiệm và sai lầm.  Sai lầm là những viên gạch xây dựng nên y học hiện đại như ngày nay, kể cả y tế công cộng.  Do đó, trước bằng chứng khoa học (mà chúng tôi đã trình bày) cho thấy mắm tôm không thể là nguồn vi khuẩn tả, thì việc minh oan cho mắm tôm là một việc làm hoàn toàn logic và theo nguyên lí của y học thực chứng (tức thực hành y khoa dựa vào bằng chứng khoa học). 

Thật ra, ngôn ngữ minh oan vẫn mang tính gượng gạo.  Hãy đọc lại phát biểu của Thứ trưởng Trịnh Quân Huấn: “Thịt chó, mắm tôm không phải là nguyên nhân gây bệnh trong vụ dịch này nữa.”  Tại sao có trạng từ “nữa” ở đây?  Hiện nay, chúng ta đang có một vụ dịch, và mắm tôm không phải là “nguyên nhân” (tôi sẽ quay lại danh từ này sau).  Trạng từ “nữa” hàm ý nói rằng trước đây (hay lần sau) mắm tôm đã hay có thể sẽ là nguyên nhân?  Thế thì câu hỏi đặt ra là: bằng chứng đâu?  Bằng chứng khoa học nào cho thấy mắm tôm từng gây ra nạn dịch bệnh trước đây? 

Đề cập đến bằng chứng khoa học, tôi thấy phân vân trước phát biểu trên của ông thứ trưởng “Mà nguyên nhân là thực phẩm tươi sống, thực phẩm nguội và nguồn nước đang bị ô nhiễm nặng nề”, vì tôi chưa thấy bằng chứng nào.  Trước đây, cũng cách phát biểu này mà mắm tôm bị “buộc tội”, hi vọng lần này chúng ta sẽ được cung cấp thêm bằng chứng cho thấy thực phẩm tươi sống và thực phẩm nguội là nguyên nhân. Thật ra, các thực phẩm này không phải là nguyên nhân (cause) mà là yếu tố nguy cơ (risk factors).  Tôi tin rằng không phải bất cứ ai ăn rau sống và thực phẩm nguội đều mắc bệnh tả; chỉ có nguy cơ mắc bệnh của những người này cao hơn những người ăn rau và thực phẩm nấu chín mà thôi. 

Cần phải phân biệt nguyên nhân và yếu tố nguy cơ.  Nguyên nhân liên quan đến lâm sàng, đến cá nhân người mắc bệnh; còn yếu tố nguy cơ liên quan đến y tế cộng đồng, đến một quần thể và giúp cho chúng ta hoạch định chiến lược phòng bệnh.  Giới phóng viên có thể nhầm lẫn giữa nguyên nhân và yếu tố nguy cơ thì có thể hiểu được vì họ không phải chuyên gia y tế hay làm khoa học. Nhiệm vụ của các quan chức y tế và chuyên gia y tế là phải giúp họ hiểu hai khái niệm này.  Giới chức y tế mà còn (hơn một lần) nhầm lẫn nguyên nhân và yếu tố nguy cơ thì quả là một điều đáng tiếc.  

Nghiên cứu khoa học: cẩn thận!

Nhưng bằng chứng phải được đúc kết từ nghiên cứu khoa học.  Cũng ngay từ những ngày đầu lúc bệnh bộc phát, người viết đề nghị nên tiến hành nghiên cứu dịch tễ học để tìm hiểu về các yếu tố sinh học gây bệnh.  Tôi thấy rất phấn khích khi biết được một dự án nghiên cứu cấp nhà nước đã được phê chuẩn.  Tuy chưa đọc qua đề cương nghiên cứu (và chắc cũng chẳng bao giờ có cơ hội đọc) nhưng đọc qua tên của dự án (“Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ học, lâm sàng và các giải pháp phòng chống dịch tả”) tôi thấy hơi phân vân và có cảm giác déjà vu.  Tôi đã thấy quá nhiều nghiên cứu, quá nhiều luận án tiến sĩ với những cụm từ như thế này từ Việt Nam, nhiều đến nỗi tôi phải tự hỏi “hay là dân ta hết ý tưởng”?  Tôi phân vân là vì đề tài nghiên cứu cấp nhà nước mà có vẻ đơn giản quá, mang tính mô tả hơn là phân tích chuyên sâu, và nhất là thiếu cái mới.

Trên thế giới đã có quá nhiều nghiên cứu như thế này.  Khi tôi vào thư viện y khoa quốc tế (PubMed) và gõ cụm từ “risk factors of cholera” (yếu tố nguy cơ bệnh tả), cơ sở dữ kiện cho tôi biết đã có 202 bài báo khoa học liên quan đến đề tài này.  Với y văn như thế, tôi phải đặt câu hỏi: một đề án như thế có thể cung cấp thông tin gì mới cho y văn quốc tế và Việt Nam hay không?  Dịch tễ học thế kỉ 21 không nên loay hoay với các vấn đề kinh điển như thế.

Còn nghiên cứu giải pháp phòng chống dịch tả thì cũng đã có nhiều kinh nghiệm và bài học từ Phi châu, Nam Dương, thậm chí từ Việt Nam và Tổ chức Y tế Thế giới, vậy thì mục tiêu tìm giải pháp phòng chống có gì mới?  Vả lại khi công trình nghiên cứu thực hiện thì dịch tả và tiêu chảy đã là quá khứ, làm sao tìm giải pháp phòng chống những gì đã xảy ra? Do đó, cần phải xem xét lại mục tiêu cụ thể của công trình nghiên cứu trên. 

Cố nhiên, phương pháp nghiên cứu và thiết kế nghiên cứu cũng cực kì quan trọng.  Nhà nước ắt hẳn phải chi ra một ngân sách lớn cho công trình nghiên cứu này; do đó, cần phải xem đó là một sự đầu tư cho khoa học.  Và, đầu tư thì cần phải đảm bảo có hiệu suất cao nhất.  Ở các nước như Úc và Mĩ, một đề cương nghiên cứu thường phải cần đến 3-6 tháng bình duyệt và tái bình duyệt bởi các chuyên gia trong (và có khi chuyên gia ngoài nước) trước khi được phê chuẩn.  Nhưng đề cương trên được phê chuẩn quá nhanh.  Đó là một điều đáng quan tâm.

            Thế thì câu hỏi đặt ra là cần phải nghiên cứu cái gì?  Tôi đề nghị tập trung vào 4 định hướng nghiên cứu sau đây:

  • Định hướng 1: nghiên cứu về các yếu tố dịch tễ phân tử học (molecular epidemiological factors) để xác định ảnh hưởng của các vi khuẩn và sự tương tác giữa các vi khuẩn này với gien và môi trường đến nguy cơ mắc bệnh.  Có một số biến thể gien và nhóm máu làm cho đối tượng dễ mắc bệnh tả, nhưng chúng ta không biết cơ chế và mối tương tác giữa các gien này với vi khuẩn tả và các vi khuẩn khác như thế nào. Cố nhiên, không nên tập trung chỉ vào một vi khuẩn V. cholerae, mà còn phải xem xét đến các vi khuẩn và siêu vi khuẩn khác như rotavirus nhóm A, E. coli, Shigella spp, E. coli, và 9% salmonella, v.v… Câu hỏi đặt ra là bao nhiêu trường hợp bệnh tả và tiêu chảy có thể qui kết cho các tác nhân sinh học này, và chúng tương tác với môi trường và gien ra sao. Nghiên cứu này đòi hỏi kinh nghiệm chuyên sâu về dịch tễ học, vi sinh học và thống kê học.

 

  • Định hướng 2: nghiên cứu về mô hình lan bệnh.  Đặc tính kinh điển của bệnh dịch tả là chúng lây lan rất nhanh và có khi bộc phát cùng một lúc như chúng ta chứng kiến vừa qua.  Có nhiều câu hỏi mang tính chuyên sâu và kĩ thuật về vấn đề này, chẳng hạn như: sự phân phối bệnh trong một hộ gia đình và giữa các hộ trong cộng đồng; yếu tố nào ảnh hưởng đến tốc độ lây lan và phân bố của bệnh; ai là đối tượng có nguy cơ cao; có thể phát triển mô hình tiên lượng (prognostic models) để nhận ra đối tượng nguy cơ trước để can thiệp không, v.v… Đây là một định hướng nghiên cứu quan trọng, vì nó cung cấp cho chúng ta các dữ liệu về sự ảnh hưởng của môi trường và di truyền (vì nghiên cứu trong gia đình) rất quan trọng cho chính sách y tế cộng đồng.  Nghiên cứu này đòi hỏi chuyên gia lành nghề về dịch tễ học, thống kê học và y học.

 

  • Định hướng 3: nghiên cứu về mối tương tác đa chiều giữa chế độ ăn uống, môi trường và môi trường sống của địa phương (kể cả nguồn nước).  Ở đây chúng ta có 3 yếu tố nguy cơ: cá nhân, gia đình, và cộng đồng.  Đã có quá nhiều nghiên cứu ảnh hưởng của từng yếu tố, nhưng chưa có nghiên cứu mối tương tác (interaction effects) giữa các yếu tố.  Khái niệm tương tác rất quan trọng, bởi vì bệnh dịch có nhiều yếu tố nguy cơ và chúng tương tác nhau để gây bệnh.  Chẳng hạn như một gia đình dù có giữ vệ sinh trong nhà, nhưng nếu môi trường bị nhiễm trùng, thì nguy cơ mắc bệnh vẫn cao.  Do đó, vấn đề đặt ra không phải là ảnh hưởng của từng yếu tố nguy cơ, mà là ảnh hưởng của mối tương tác.

 

  • Định hướng 4: nghiên cứu về hiệu quả can thiệp ở qui mô cộng đồng. Một trong những vấn đề hiện nay là nếu chúng ta can thiệp để thay đổi lối sống và môi trường ở qui mô cộng đồng thì hiệu quả phòng chống dịch bệnh là bao nhiêu?  Để trả lời câu hỏi này chúng ta cần nghiên cứu đối chứng theo địa phương (cluster randomized trial).  Mô hình nghiên cứu “cluster randomized trial” rất thích hợp để giải quyết câu hỏi trên, vì đơn vị của của nghiên cứu là cộng đồng, chứ không phải bệnh nhân.  Tuy nhiên, nghiên cứu này đòi hỏi thời gian và cần phải theo dõi cộng đồng một thời gian dài (12 đến 24 tháng) vì tỉ lệ phát sinh bệnh thường thấp.

Vai trò của nhà vệ sinh 

Nhưng kết quả nghiên cứu đòi hỏi thời gian.  Trước mắt, chúng ta vẫn có thể tiến hành một chiến dịch phòng bệnh dựa vào kiến thức trong y văn.  Tôi thấy quyết định cấm sử dụng phân người để tưới rau là hoàn toàn hợp lí và rất đáng hoan nghênh.  Tuy nhiên, chúng ta cần một chiến lược đồng bộ: bên cạnh đó, cần phải làm sạch nguồn nước và phát động một phong trào vệ sinh cá nhân, mà cụ thể và thiết thực nhất là tạo một thói quen rửa tay trước bữa ăn và sau khi đi tiêu hay đi tiểu.

Trong chiến dịch này, nhà vệ sinh (toilet) đóng vai trò cực kì quan trọng trong việc phòng chống bệnh.  Hơn một thế kỉ trước đây, nhà vệ sinh giúp thực hiện một cuộc cách mạng về y tế công cộng ở New York, London và Paris.  Ngày nay, các quan chức y tế Liên hiệp quốc mới nhận thức rằng cầu xí là một phương tiện phòng chống bệnh rất quan trọng ở các nước đang phát triển.

Nhà vệ sinh không phải là cái gì cấm kị không nên bàn trên giấy trắng mực đen.  Chúng ta cần trịnh trọng đặt nó lên bàn để thảo luận nghiêm chỉnh.  Phải chấp nhận một thực tế là ở nước ta, nhà vệ sinh chưa được xem là một “cơ quan” quan trọng.  Có biết bao nhà được xây dựng hoành tráng, biết bao building (ngay cả nhà ga máy bay) được xây lộng lẫy, nhưng phía trong thì nhà vệ sinh thì thật là sơ sài, bẩn thiểu, hôi thối đến nỗi trẻ em không dám vào.  Đó là chưa nói đến ở vùng quê, chúng ta biết rằng nhiều nhà không có cầu tiêu, và nhiều người vẫn còn đi tiêu ở trên sông, ruộng, ao, hồ, và gây ô nhiễm nguồn nước. Có quá nhiều nhà hàng, quán ăn, cơ sở công cộng mà nhà vệ sinh là một nơi kinh khủng nhất. Mới đây báo Thanh Niên Người lao động có một loạt bài phản ảnh nhà xí ở trường học ngay tại Thành phố Hồ Chí Minh dơ bẩn khủng khiếp đến nỗi học trò không dám vào.  Người viết bài này đã từng xem qua các nhà xí trong các bệnh viện ở Việt Nam (từ bệnh viện nhỏ đến bệnh viện cấp quốc gia), ngay cả nhà vệ sinh dành cho nhân viên, bác sĩ và y tá bệnh viện, cũng rất … hãi hùng.    

            Hiện tượng này hoàn toàn ngược lại với các nước tiên tiến trong vùng và Tây phương, nơi mà nhà vệ sinh được xem là ưu tiên vệ sinh số 1 và có mặt khắp nơi.  Thật ra, ở các nước này, chính quyền có luật bắt buộc nhà xây dựng phải có sơ đồ nhà vệ sinh cho họ kiểm tra và duyệt trước khi tiến hành xây cất.

Người Tây phương khi đi du lịch ở nước ta và khi về nước họ, nỗi ám ảnh lớn nhất là ... nhà vệ sinh.  Tôi đã đọc (với tâm trạng vừa giận vừa thông cảm) không biết bao nhiêu bài bút kí, nhật kí, phóng sự, khuyến cáo, v.v... mà họ viết ra với văn phong giễu cợt, mỉa mai, trịch thượng, và có khi khinh miệt Việt Nam.  Do đó, có lần tôi viết trên báo rằng nếu chúng ta không cải thiện được vệ sinh công cộng và nhà xí thì nước ta vẫn chứng kiến cảnh 75% du khác “một đi không trở lại”.  Vấn đề nhà vệ sinh và vệ sinh đã trở thành sỉ diện quốc gia, thành vấn đề văn hóa, chứ không đơn giản là vấn đề cá nhân nữa.

Tôi nhớ đọc đâu đó lâu lắm rồi, mà trong đó tác giả kể rằng lúc cụ Hồ còn sống, cứ mỗi lần đi công tác hay thăm địa phương nào đó, bất kể là công sở hay nhà dân, điều đầu tiên là ông vào xem cái nhà bếp và nhà vệ sinh.  Một nguyên thủ quốc gia mà quan tâm đến y tế công cộng như thế thì chúng ta phải biết vấn đề “đầu vào” và “đầu ra” quan trọng như thế nào.  Tại sao đến nay là thế kỉ 21 mà chúng ta vẫn còn trì trệ trong công tác nhà vệ sinh? 

Mỗi năm có đến 2 triệu trẻ em chết vì bệnh tiêu chảy và các bệnh khác do nguồn nước bẩn và thiếu vệ sinh gia đình.  Trên thế giới ngày nay, có đến 1/3 dân số thế giới (2,6 triệu người) không có nhà tắm, hơn 1 tỉ người không có nước sạch để uống, giặt, và nấu ăn vì bị nhiễm trùng từ phân người và phân thú vật.  Ở nước ta, các nạn dịch bệnh cứ “đến hẹn lại lên”, và đến nay vào thế kỉ 21, chúng ta phải nói dứt khoát rằng tình trạng đó không thể chấp nhận được nữa.  Và, một “vũ khí” phòng chống bệnh rất hữu hiệu nằm trong tầm tay chúng ta: nhà xí.  Các cơ quan chức năng của Nhà nước và người dân cần phải quan tâm đến nhà xí hơn nữa.  Phải khuyến khích, nếu cần dùng ngân sách y tế hỗ trợ cho người dân nghèo, để mỗi nhà đều có một nhà xí tốt.  Chúng ta đã có nhà khoa học nghiên cứu về mô hình nhà vệ sinh thích hợp cho nông thôn.  Có lẽ Nhà nước cần xem mô hình của tác giả Lê Anh Tuấn mà tôi vừa đề cập để tiến tới một chiến dịch xây nhà vệ sinh cho dân.

            Tóm lại, tôi nghĩ việc “minh oan” cho mắm tôm là một việc làm hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với bằng chứng khoa học.  Nhưng bằng chứng khoa học liên quan đến cơ chế tương tác và mối liên hệ giữa các yếu tố như gien, môi trường gia đình, và môi trường cộng đồng vẫn còn quá thiếu thốn.  Do đó, nghiên cứu khoa học cần phải tập trung vào các vấn đề này để một mặt góp phần vào việc phòng chống bệnh tả của nước ta, mặt khác cống hiến tri thức cho thế giới y khoa.  Trước mắt, đây là thời điểm lí tưởng để Bộ Y tế cần phát động một chiến dịch làm sạch nguồn nước và xây nhà vệ sinh trên toàn quốc để một mặt nâng cao nhận thức của cộng đồng về bệnh dịch tả và mặt khác cải thiện tình trạng vệ sinh ở nước.  Đây là một sự đầu tư y tế công cộng mà chúng ta chắc chắn sẽ đem lại lợi ích lâu dài cho xã hội và kinh tế.


200 năm Darwin
Agent Orange: collateral damage
Alexandre Yersin và Việt Nam
Bàn về hiệu quả vắcxin: lâm sàng và kinh tế
Bàn về vấn đề dịch thuật và đánh giá năng suất khoa học
Béo phì ở người Á châu
Béo phì ở trẻ em và virus
Bình luận từ Dr. Yến
Bưởi không gây ung thư vú
Bảo hiểm y tế cộng đồng
Bảo tồn môi sinh: Chiến tranh giữa hai thế giới
Bằng chứng khoa học thay vì lên lớp
Bệnh tả: không để Việt Nam thành Bangladesh thứ hai
Bệnh tật nhìn từ quan điểm của thuyết tiến hóa
Bệnh xơ hóa cơ delta qua y văn thế giới
Bổ sung kẽm và điều trị bệnh tả
Bộ gen trong cây lúa và triển vọng
Bộ Y tế phản ứng chậm với rét đậm
Chiều cao của người Việt
Chiều cao và tổng thống Mĩ
Cholesterol và bệnh Tim
Cholesterol: hung thần hay bạn?
Chuột và... các nhà khoa học
Chính sách y tế cần dựa vào bằng chứng khoa học
Chạy đua vũ khí và … dịch cúm
Chất béo, cholesterol, bệnh tim và statins: xét lại bằng chứng
Chất keo xã hội: hormones
Chất lượng nghiên cứu dịch tễ học và y tế cộng đồng của Việt Nam qua chỉ số H
Chất lượng nghiên cứu khoa học ở Việt Nam qua chỉ số trích dẫn
Chất vấn chuẩn chẩn đoán béo phì
Chế độ ăn uống với nhiều thịt động vật và nguy cơ tử vong
Chủng vi khuẩn tả hiện nay ở nước ta có phải mới xuất hiện?
Cuộc chiến hóa học phi pháp lớn nhất trong lịch sử chiến tranh
Câu chuyện y học: Leptin và béo phì
Có bao nhiêu bác sĩ viết chữ khó đọc
Có nên tập trung vào vi khuẩn E. coli ?
Có thể xảy ra đại dịch cúm gia cầm?
Công cụ đơn giản để chẩn đoán tiểu đường ở người Đông Nam Á
Cúm gia cầm và nhiễu thông tin
Cúm H1N1: biết và chưa biết
Cơ hội để khép lại một chương lịch sử đau lòng
Cần hiểu đúng về Ung thư và nguy cơ ung thư
Cần qui ước đạo đức cho kĩ nghệ thực phẩm
Cần tiêm chủng ngừa bệnh tả vùng có nguy cơ cao
Cần điều tra về chất lượng bệnh viện
Cổ phần hóa bệnh viện công và chất lượng
Cổ phần hóa: chưa phải cách duy nhất
DDT và vấn đề cân đối giữa lợi ích và nguy hiểm
Dinh dưỡng: một nguồn thuốc quí giá
DNA không nói dối, nhưng DNA có thể nói … sai
Dịch cúm gà: hoang mang và sự thật khoa học
Dịch cúm heo và tác hại kinh tế
Dịch tay-chân-miệng
Dịch tả: gọi đúng tên để phòng ngừa
Dựa vào khoa học, đừng dựa vào niềm tin!
E. coli – vài câu hỏi thông thường
Gen và bệnh tật
Ghen tuông dưới cái nhìn của tâm lí y khoa
Gian lận trong nghiên cứu khoa học: áp lực kinh tế và cơ chế bình duyệt
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC: KHƠI DẬY VÀ NUÔI DƯỠNG TÍNH HAM HỌC
Giải nobel y học hay sinh lí học 2007 và lợi ích cho người bệnh
Giải Nobel Y sinh học 2008 và những tranh chấp khoa học
Giải Nobel y sinh học 2010 vinh danh người đem niềm vui cho người vô sinh
Giải Nobel y sinh học năm 2005: Một cõi đi về với vi khuẩn
Giải Nobel y sinh học: Nhìn lại quãng đường 100 năm
Giải phẫu ghép mặt và vấn đề y đức
Gout ở xương sống
Gãy xương và tử vong: một vấn nạn y tế cộng đồng
Hiệu quả vắcxin có nghĩa gì?
Hoa vàng mấy độc
Hàm lượng đạm trong sữa “siêu thấp” hay “siêu cao”?
Hóa chất khai hoang trong cuộc chiến Viện Nam: Qui mô và tầm ảnh hưởng
Hướng đi nào để giải quyết vấn đề chất độc da cam ở Việt Nam
Hậu “mắm tôm được minh oan”: bằng chứng khoa học, nhà xí và nghiên cứu
Hệ Thống Học Vị Và Học Hàm Khoa Học Ở Vài Nước Tây Phương
Hợp tác khoa học kiểu nhảy dù - Nguyễn Văn Tuấn
Khi bác sĩ trẻ “khoe” quá nhiều
Khoa học và ngụy khoa học: một vài đặc điểm và khác biệt cần biết
Khoa học, xã hội, và rủi ro
Không thể thành Phù Đổng trong 20 năm!
Khẩu trang và phòng chống cúm A/H1N1
Kiểm định giả thuyết mắm tôm và vi khuẩn tả
Liều lượng melamine bao nhiêu là an toàn?
Lí lịch sinh học của heo và dấu vết văn minh nông nghiệp Đông Nam Á
Lượng giá mạng sống con người
Lợi ích của vitamin D
Miệng nhà quan
Mắm tôm có phải là “thủ phạm” gây bệnh tả? Xét lại bằng chứng khoa học
Mắm tôm và chuyện xin lỗi
Mắm tôm và dịch tả: phân biệt yếu tố nguy cơ và nguyên nhân
Mắm tôm vô tội!
Mắm tôm, nguyên nhân và hệ quả
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Một bệnh hiếm X-linked recessive hypoparathyroidism
Một lần đi phỏng vấn
Một năm nhìn lại
Một phán quyết thiếu cơ sở khoa học
Một vài hiểu lầm tai hại
Một vài ngộ nhận về nghiên cứu khoa học
Một vài vấn đề về qui định chức danh giáo sư ở Việt Nam
Một vụ Madoff trong y khoa: Lại một ngôi sao y khoa rơi rụng!
Mỡ trắng, mỡ nâu
Mỡ  trong máu, huyết áp, và  tiểu đường
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nguyên nhân bệnh tiêu chảy
Ngó trên tay điếu thuốc đã lụi dần
Người cao tuổi và sự hạn chế của y khoa
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Nhân chuyện dịch tả nhớ lại John Snow
Nhân câu chuyện điện não đồ xét nghiệm nghiện ma túy:
Nhân năm khỉ_nguồn gốc con người hiện đại
Nhân năm Tý bàn chuyện thí nghiệm trên chuột
Nhìn lại khoa học Việt Nam năm 2008 qua công bố quốc tế
Nhầm lẫn trong y khoa: Khá phổ biến, nhưng ít ai biết!
Những câu hỏi và trả lời về dịch gia cầm
Những sai sót khó tin nhưng có thật
Những sai sót nguy hiểm trong toa thuốc
Những điều khó tin về “Bảy điều khó tin nhất trong y học”
Năm lí do cho mắm tôm “vô tội”
Phán quyết sau cùng: Chất béo không ảnh hưởng đến ung thư và bệnh tim
Phát hiện gien kiểm soát ráy tai: vài bài học về mò kim đáy biển
Phòng chống bệnh phải dựa vào bằng chứng khoa học!
Phòng chống H1N1 bằng rửa tay và khẩu trang: Biện pháp nào hiệu quả hơn?
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao và cân nặng: thiếu cơ sở khoa học và kì thị giới tính
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao: vấn đề giả định và bằng chứng khoa học
Quyền phê phán và trí thức
Quyền được tiếp cận hồ sơ bệnh án
Quản lý chất lượng: Thuốc phòng "tai nạn y khoa"
Rửa tay bằng xà phòng và tiêu chảy
Serotonin có liên quan đến chứng đột tử
Suy dinh dưỡng ở trẻ em: vấn đề của kinh tế
Sàng lọc trẻ sơ sinh trên phạm vi toàn quốc
Tai nạn y khoa trong bệnh viện
Thế nào là một "bài báo khoa học"
Thế nào là “Cơ sở khoa học” ?
Thịt chó là nguyên nhân của bệnh tiêu chảy cấp tính?
Thịt chó và bệnh tả: nguyên nhân và yếu tố nguy cơ
Tiên lượng bệnh Alzheimer bằng protein expression ?
Tiêu chuẩn chất lượng giáo dục đại học
Tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì cho người Việt - Nguyễn Văn Tuấn
Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh đái tháo đường (diabetes mellitus)
Tiêu chuẩn đề bạt giáo sư: Có nên căn cứ vào số lượng bài báo ?
Tiêu chảy cấp tính và bệnh tả: Định danh cho đúng
Truy tìm ung thư bằng mammography từ tuổi 50
Truyền thông và khoa học: Qui ước Ingelfinger
Truyền thông và y tế
Truyền thông, khoa học và … doanh nghiệp
Trà xanh và sức khỏe
Trách nhiệm và nhân đạo trong vấn đề chất độc da cam
Trái chanh và phòng chống bệnh tả
Trả lời những câu hỏi liên quan đến loãng xương
Trọng lượng cơ thể và tử vong ở người Trung Quốc: Ý nghĩa về việc xác định tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì
Tuổi thọ của người dân giảm 10 năm ?
Tác dụng Placebo trong y học: Tâm lí và ý nghĩa
Tình yêu, sắc đẹp nhìn dưới quan điểm di truyền học
Tín hiệu môi trường từ những “làng ung thư”
Tính khoa học và minh bạch đằng sau xét nghiệm doping
Tại sao không phát biểu về nguyên nhân và hệ quả ?
Tại sao uống rượu gây đỏ mặt và nguy cơ ung thư thực quản
Tạo sinh vô tính và cái chết của Thượng đế
Tạo sinh vô tính và vấn đề sinh đạo đức
Tản mạn về SARS
Tỉ lệ tử vong do cúm heo là bao nhiêu ?
Tự trị, chất lượng và y đức thay vì cổ phần hóa bệnh viện công
Ung thư vú và vấn đề thông tin y khoa
Uống bia hấp dẫn muỗi
Vaccine phòng chống AIDS hiệu quả đến đâu ?
Vaccine phòng chống cúm A/H1N1
Vi khuẩn gây tiêu chảy và ý nghĩa tiêm chủng
Vi khuẩn tả trong chó ?
Viết văn có thể chữa nhiều loại bệnh
Viết văn và trị liệu
Việc ta, ta cứ làm!
Vài nhận xét về 12 điều lệ y đức của Việt Nam
Vài thông tin cần biết về các chương trình truy tìm ung thư vú
Vài đóng góp quan trọng của người Việt khoa học thống kê
Văn hóa khoa học
Văn hóa tranh luận và vấn đề ngụy biện
Vấn đề sinh tố: kẽm và đồng
Vấn đề truy tìm ung thư phổi và hiệu quả 
Vấn đề y đức trong nghiên cứu tế bào mầm (stem cells)
Vấn đề đo lường melamine
Vấn đề đào tạo tiến sĩ: kinh nghiệm từ Australia
Vắc-xin phòng chống ung thư cổ tử cung
Vắcxin ngừa viêm gan B: cẩn thận với “nhiễu thông tin”
Vắcxin ngừa viêm gan B: kinh nghiệm từ nước ngoài
Vắcxin phòng bệnh sởi - quai bị - Rubella: lợi và hại
Vắcxin phòng chống ung thư cổ tử cung: hiệu quả lâm sàng và kinh tế
Vắcxin phòng ngừa bệnh tả: rất cần thiết
Về chấn chỉnh đào tạo tiến sĩ: Công bố bài báo khoa học là một thách thức lớn ?
Về học vị tiến sĩ
Về một sự hiểu lầm thuật ngữ "prospective"
Về phản ứng phụ của bisphosphonates liên quan đến hoại tử xương hàm và rung nhĩ
Vệ sinh như là một loại hàng hóa
Vị thế của nền khoa học Việt Nam
Xung quang xì căng đan về nghiên cứu tế bào mầm
Xã hội hóa và an toàn thực phẩm
Xếp hạng đại học: cần minh bạch hóa phương pháp
Y học hiện đại và những hứa hẹn
Y học thực chứng: vài nét khái quát
Y Khoa và những nhầm lẫn chết người
Y tế dự phòng: nền tảng của y khoa hiện đại
Y đức và nghiên cứu y học
Ói mửa, cao huyết áp và hôn mê
Ăn chay như là một trị liệu
Ăn chay và loãng xương
Điều trị bệnh dựa vào màu da ?
Điều trị đau dây thần kinh tọa bằng phẫu thuật: không có hiệu quả
Đo lường hiệu suất khoa học
Đánh giá đúng tầm quan trọng của ung thư vú 
Đại dịch H1N1
Đại dịch và đại dịch ảo
Đại dịch đã đến ?
Đạo văn trong hoạt động khoa học
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đằng sau những con số hàm lượng đạm trong sữa
Đế quốc Trà
Đề bạt các chức danh khoa bảng: vài kinh nghiệm từ Úc
Đọc lại 12 điều y đức của Việt Nam
Đồi điều về sữa nhiễm melamine
Đừng quên melamine trong các thực phẩm khác!
Ước vọng 200 ?
“Kỹ năng mềm” cho nhà khoa học
“Sẽ” và “có thể”


Trang nhiều tác giả
Trang riêng của Lê Ngọc Dũng
Trang riêng của Lương Lễ Hoàng
Trang riêng của Nguyễn Bảo Trung
Trang riêng của Nguyễn Hoài Nam
Trang riêng của Nguyễn Hữu Đức
Trang riêng của Nguyễn Văn Tuấn
Trang riêng của Nguyễn Ý Đức
Trang riêng của Nguyễn Đình Nguyên
Trang riêng của Phan Xuân Trung
Trang riêng của Đỗ Hồng Ngọc
Trang riêng của Đỗ Minh Tuấn