NGUYỄN VĂN TUẤN

DDT và vấn đề cân đối giữa lợi ích và nguy hiểm

Nguyễn Văn Tuấn

Trong những năm gần đây, người ta thấy đây đó xuất hiện một nguyên lý mới có tên là Nguyên lý Phòng ngừa (“Precautionary Principle”, hay còn gọi tắt là PP) trong hoạt động khoa học, và nhất là trong lĩnh vực y khoa và môi trường. Phát biểu cơ bản của nguyên lý này là không nên dùng bất cứ một hóa chất hay vật thể nào khi mà nó chưa được chứng minh là vô hại. Phát biểu này, thoạt đầu, cũng giống như một nguyên lý cao quý của y khoa, “primum non nocere” (trước hết không gây hại), nhưng trong thực tế nó có ý nghĩa sâu xa và được vận dụng sâu rộng hơn. Những người theo nguyên lý PP này thường là nhóm theo phong trào Xanh (Green movement). Đối với nhóm người Xanh này, Nguyên lý Phòng ngừa đã trở thành một loại vũ khí lợi hại để gây ảnh hưởng trong trường chính trị, và tranh thủ sự ủng hộ của công chúng. Có thể nói họ đã, ở một giai đoạn ngắn hạn, thành công trong việc ngăn chận việc phát triển và dùng thực phẩm được chế biến bằng cách thay đổi gene (tiếng Anh thường gọi là genetically modified food) ở Âu châu.

Gần đây nhất, cũng dựa vào Nguyên lý Phòng ngừa này, và nhân danh bảo vệ sức khỏe con người, một số người trong các nước Tây phương đã làm áp lực lên Liên hiệp quốc phải tẩy chay việc dùng hoá chất DDT trên thế giới. Năm 1992, Tuyên bố Rio dưới sự chủ tọa và bảo trợ của Chương trình Môi trường thuộc Liên hiệp quốc (United Nations Environment Programme) đề nghị loại bỏ việc dùng DDT trong các nước đang phát triển trên thế giới. Đến năm 2000, trong vòng bàn thảo lần thứ tư, Liên hiệp quốc vẫn giữ nguyên ý định tẩy chay việc dùng DDT. Họ đề nghị đến năm 2007, DDT phải được tuyệt đối cấm dùng trên toàn thế giới.

Tuyên bố Rio đã châm ngòi cho một cuộc tranh luận dai dẳng giữa giới y khoa và môi trường học hay nhóm Phong trào Xanh. Liền sau Tuyên bố Rio, một nhóm gồm 400 nhà khoa học và bác sĩ uy tín trên thế giới ký tên trong một bức thư ngỏ để phản đối, mà trong đó họ lý giải rằng DDT cần phải được dùng trong một số nước đang phát triển để phòng chống bệnh sốt rét [1]. Có người còn dùng ngôn từ “mạnh” hơn, cho rằng việc tẩy chay DDT một cách mù quáng là đồng nghĩa với một cuộc diệt chủng (“DDT ban is genocidal”)! Nhóm theo phong trào Xanh thì cho rằng DDT là một hóa chất độc hại cho cá và môi trường, có thể gây ra ung thư cho con người, do đó, cần phải tuyệt đối cấm dùng DDT trong bất cứ trường hợp nào. Nói một cách khác, giữa hai nhóm này không có một điểm tương đồng, quan điểm của họ ở hai thái cực hoàn toàn đối nghịch nhau. Một bên thì vì lợi ích của hệ sinh thái, môi trường ( của các nước đã phát triển), một bên thì vì tính mạng của con người (của các nước nghèo đói và đang phát triển). Đến đây thì một số câu hỏi được đặt ra: DDT là gì, mức độ độc hại ra sao, được dùng cho mục đích nào, và có nên tẩy chay hoàn toàn DDT hay không.

DDT (dichlorodiphenyltrichloroethane) là một hóa chất có lẽ là thông dụng nhất trong các loại thuốc trừ sâu rầy trên thế giới. Nhưng kể từ thập niên 1960s trở đi, việc sử dụng DDT giảm dần vì một phần có nhiều hóa chất khác đã được phát triển cho cùng mục đích, và một phần người ta nhận thấy DDT có thể làm hại cá và chim. Do đó, ở Mỹ và Âu châu, DDT đã bị cấm dùng trong nông nghiệp trên dưới 25 năm qua. Tuy nhiên, ở các nước đang phát triển ở Á châu, Phi châu, và Nam Mỹ thì DDT vẫn là một trong những hóa chất được dùng trong việc phòng chống sâu bọ chuyên phá hoại mùa màng.

Sự hữu dụng của DDT

Vì DDT là một hóa chất có công hiệu trong việc diệt trừ sâu bọ, nên tiềm năng của DDT được khai thác trong việc phòng ngừa sốt rét được công nhận rất sớm. Thật vậy, ngoài việc dùng trong nông nghiệp, DDT còn là một hóa chất hữu hiệu nhất trong việc tiêu diệt loài muỗâi truyền bệnh sốt rét. Khi DDT được dùng lần đầu tiên ở Naples vào tháng Một, 1944, 1.3 triệu dân như được phủi bụi, ngay cả vào giữa mùa đông, số người bị sốt ban giảm một cách nhanh chóng. Sau đó, quân đội và người tị nạn được xịt DDT hay mặc quần áo ngấm DDT để chống lại sốt ban.

Hiệu quả của DDT trong việc trừ muỗi được ghi nhận nhanh chóng, và áp dụng cho khắp Âu Châu, sang Phi Châu, Mỹ Châu, và Ấn Độ, Sri Lanka, và Nam Mỹ. Khi xịt DDT trong nhà (thường là trên tường nhà), số lượng muỗi giảm một cách rõ rệt. Hiệu quả của DDT trong việc diệt muỗi và giảm tỷ lệ tử vong vì bệnh sốt rét một cách ngoạn mục. Điều quan trọng là khi DDT ngưng dùng, hay được thay thế bằng một hóa chất khác, thì số người bị sốt rét và chết vì sốt rét lại tăng lên một cách rõ rệt. Một số trường hợp tiêu biểu về hiệu quả của DDT có thể kể ra như sau:

• Ấn Độ. Trước thập niên 1960s, cả nước có khoảng 800 ngàn người chết vì sốt rét hàng năm. Sau khi có chương trình dùng DDT, số lượng người chết vì sốt rét giảm xuống còn 100 ngàn. Năm 1999-2000, khi giảm dùng DDT, có 3 triệu người bị sốt rét [2].

• Sri Lanka. Trong thời gian từ 1934-35, có khoảng 2 đến 3 triệu người bị sốt rét, và 80 ngàn người chết vì bệnh này hàng năm. Năm 1963, khi DDT được đưa vào sử dụng phòng chống muỗi, số người bị sốt rét giảm xuống chỉ còn 17 trường hợp! Đến năm 1994, khi DDT được thay thế bằng organophosphates và pyrethroids, số người bị sốt rét tăng lên 360 ngàn [3].

• Ý. Năm 1939, có 55 ngàn người bị sốt rét. Năm 1940, khi DDT được dùng, không có trường hợp sốt rét nào được ghi nhận [4].

• Nga và Liên Xô cũ. Năm 1940, có 3 triệu trường hợp bị sốt rét ở bắc Moscow và Siberia. Đến năm 1950 – 1960s, khi DDT được đưa vào phòng chống mủi, sốt rét hầu như bị xóa khỏi danh sách bệnh tật. Nhưng năm 1996 khi DDT không còn dùng, số người bị sốt rét tăng lên 15 ngàn trường hợp [4].

• Nam Phi. Năm 1931-32, có 22 ngàn người chết vì sốt rét. Trong thập niên 1940s và 1950s, khi DDT được đưa vào chươg trình phòng chống sốt rét, bệnh này hầu như bị xóa bỏ hoàn toàn. Nhưng đến thập niên 90s, khi DDT được thay thế bằng organophosphates và pyrethroids, số người bị sốt rét được ghi nhận khoảng 7 ngàn [5].

DDT độc hại như thế nào?

Có thể nói một cách ngắn gọn rằng chưa có bằng chứng thuyết phục nào để có thể phát biểu một cách dứt khoát về mối liên hệ giữa DDT và bệnh tật, dù nhiều người, vì những động cơ nào đó, phát họa DDT như là một thảm họa cho sức khỏe con người. Phần lớn những bản tin lưu truyền trong hệ thống truyền thông đại chúng đều, hoặc không đúng với thực tế, hoặc sai lầm. Một vài ví dụ như sau:

• DDT tồn tại trong lòng đất rất lâu? Điều này không đúng, vì những dữ kiện làm cơ sở cho phát biểu này đều được lấy từ các vùng ôn đới, không phải nhiệt đới. Thực ra, theo một nghiên cứu ở Sudan, thời gian DDT tồn tại trong môi trường khá ngắn: sau 3 tuần lượng DDT tồn tại trong đất còn khoảng 50% [6].

• DDT rất độc hại? Chưa có bằng chứng khoa học nào để phát biểu như thế. Thực ra, căn cứ vào những thông tin ban đầu về mức độ độc hại của DDT, người ta có thể nói DDT không độc hại như nhiều người lo sợ [7]. Ngay cả trong những người uống DDT để tự tử (nhưng không thành công), thì sức khỏe cũng không có gì nguy hại đến tính mạng. Trong những người này, ngoài những triệu chứng như nhạy cảm lưỡi và miệng, chóng mặt, run, và ói mửa, người ta không ghi nhận những tác hại nào khác.

• DDT có thể gây ra ung thư cho con người? Điều này cũng không đúng. Chỉ có một nghiên cứu xem xét mối liên hệ giữa DDT và ung thư, nhưng nghiên cứu này dựa trên một nồng độ DDT rất cao (có thể nói là bất bình thường, ít khi nào có trong con người). Vả lại nghiên cứu đó dựa vào những bệnh nhân đã chết vì ung thư, do đó, không thể kết luận giữa nguyên nhân (DDT) và hậu quả (ung thư) được. Thực ra, một nghiên gần đây theo dõi một nhóm bệnh nhân bị ung thư và một nhóm không bị ung thư (đối chứng), và khi so sánh, các nhà nghiên cứu không tìm thấy một mối liên hệ nào giữa DDT và ung thư. Tương tự, một nghiên cứu rộng lớn trong hơn 120,000 nữ y tá (còn gọi là Nurse’s Health Study) cho thấy nồng độ DDE (một chất chuyển hóa của DDT) trong 236 phụ nữ bị bệnh ung thư vú (6.01 ± 4.56 ng/ml; số trung bình ± độ lệch chuẩn, hay mean ± standard deviation) không khác một cách đáng kể so với những phụ nữ không bị ung thư vú (6.97 ± 6.00). Một nghiên cứu khác ở Âu châu cũng đi đến một kết luận tương tự: không có sự khác biệt nào về nồng độ DDE trong phụ nữ bị ung thư vú và phụ nữ không bị bệnh này. Một phân tích kết quả từ 6 cuộc nghiên cứu gần đây cũng không tìm thấy mối liên hệ DDT và ung thư [8].

• Tương tự, một nghiên cứu về nồng độ DDT trong một nhóm phụ nữ Việt Nam bị ung thư vú (21 người) và một nhóm phụ nữ Việt Nam cùng tuổi không bị ung thư vú (cũng 21 người) cho thấy nồng độ DDT trong hai nhóm không khác nhau. Nồng độ trung bình của DDT trong nhóm ung thư vú là 15.9 ± 3.1 ng/ml và trong nhóm không bị ung thư vú là 20.9 ± 5.1 ng/ml (số trung bình ± độ lệch tiêu chuẩn, standard deviation). Do đó không thể kết luận rằng DDT gây ra ung thư. Điều đáng chú ý là khi chia nhóm theo nơi cư trú thì nồng độ DDT trong những người phụ nữ sống ở thành thị (32.3 ± 6.1 ng/ml; số người = 8) cao hơn trong những người sống ở nông thôn (11.7 ± 2.2 ng/ml; số người = 30). Tuy nhiên, vì nghiên cứu này quá nhỏ, những số liệu trên đây chưa có sức thuyết phục cao, nên chưa thể rút ra kết luận nào đáng tin cậy cả [9].

• Có người cho rằng các hóa chất dùng trong nông nghiệp có thể gây ra ung thư cho trẻ em, nhưng điều này cũng không đúng với thực tế. Trong một nghiên cứu trên 7000 trẻ em, các nhà nghiên cứu không tìm thấy mối liên hệ nào giữa các hóa chất dùng trừ sâu rầy và ung thư. Họ kết luận: “Nói chung, chúng tôi không phát hiện được mối liên hệ nào giữa thuốc trừ sâu và tỷ lệ ung thư trong trẻ em” (“We generally found no association between pesticide use density and childhood cancer incidence rates.” ) [10].

• DDT làm giảm lượng tinh trùng trong đàn ông Âu châu? Điều này cũng không đúng. Hiện tượng giảm tinh trùng trong đàn ông ở Âu châu đã xảy ra liên tục từ mấy mươi năm nay, ngay cả lúc DDT không còn dùng ở các nước này. Rất là khó mà biết hóa chất nào trong hàng trăm hóa chất gây nên hiện tượng trên [11].

• Trong nước ngọt, DDT có thể làm chết cá và xâm nhập vào nguồn thực phẩm, nhất là trứng. Tuy nhiên, mức độ độc hại của DDT trong nhà thì chưa rõ ràng.

Vấn đề cân đối giữa lợi ích và tác hại

Nói tóm lại, DDT có thể gây nên vài ảnh hưởng độc hại cho môi trường ở liều lượng cao, nhưng ảnh hưởng của DDT trong sức khỏe con người có thể nói là ở độ rất thấp. Quan trọng hơn nữa, hoàn toàn không có bằng chứng nào để cho rằng DDT gây ra ung thư trong con người. Những bằng chứng trên đây cho thấy cán cân lợi ích và tác hại rõ ràng nghiêng về phần lợi ích cho y tế công cộng hơn là độc hại. Thực ra, ngay cả cái gọi là “độc hại” cũng, như các nghiên cứu y khoa trong khoảng hai mươi năm qua cho thấy, chưa hẳn là độc hại.

Mặc cho những bằng chứng trên, nhóm người theo phong trào Xanh, bằng cách dùng Nguyên lý Phòng ngừa, đã thành công trong việc gây áp lực cho Liên hiệp quốc tẩy chay DDT trên toàn thế giới. Nhưng cái sai lầm của “nguyên lý” này là chúng ta không thể chứng minh bất cứ một điều gì hay vật gì hoàn toàn an toàn. Không ai có thể loại trừ tai nạn và các sự kiện không tiên đoán được. Thực vậy, không ai có thể chứng minh sự an toàn của một hành động hay một sự việc. Cái mà người ta có thể chứng minh được là hành động đó hay sự việc đó chưa gây ra tổn hại. Do đó, đứng trước một sự việc hay hoạt động, một thái độ đúng đắn nhất là đánh giá nó với một sự thận trọng. Cần nhấn mạnh: thận trọng chứ không phải sợ hãi.

Hơn 90% trường hợp bệnh sốt rét là cư dân ở các nước nhiệt đới thuộc Phi châu và Á châu. Trong các nước nghèo này, mà giới chính khách và trí thức Tây phương “lịch sự” gọi là “các nước đang phát triển” (developing countries), như Việt Nam, Cambodia, Lào, Nam Dương, Miến Điện, và phần lớn Phi châu, hàng năm có khoảng 300 triệu người có nguy cơ bị bệnh sốt rét, và trong số này có hơn 2 triệu người chết vì bệnh này. Trong số tử vong, phần lớn là trẻ em. Thật vậy, thống kê của Tổ chức Y tế Thế giới (World Health Organization) cho thấy hàng năm có khoảng 2 triệu trẻ em dưới 5 tuổi chết vì bệnh sốt rét. Tính trung bình, cứ 30 giây, có một trẻ em chết vì bệnh sốt rét thuộc các nước nghèo. Tại Zambia, sốt rét được xếp là kẻ sát nhân số một, vì số người tử vong cao hơn nhiều so với tử vong do AIDS và các bệnh khác. Cứ mỗi 10 người dân Zambia có hơn 3 người mắc chứng bệnh sốt rét. Ở Luanda gần 4000 người chết vì sốt rét năm 2000. Riêng thủ đô của Angola, năm 2000, 3856 người, chủ yếu là trẻ em, đã chết vì sốt rét. Cứ mỗi 12 người dân nước này có 1 người bị nhiễm sốt rét, mà chủ yếu là trẻ em và phụ nữ có thai. (Theo AFP, tháng 4/2001)

Còn ở Việt nam? Vào những năm cao điểm của vụ dịch sốt rét (những năm của thập niên 80s), những vùng dịch lưu hành (endemic areas), tỷ lệ tử vong do sốt rét ác tính là 46%. Theo báo cáo của Chương trình phòng chống bệnh sốt rét vùng Đông dương (Regional Malaria Control Programme in Indochina), một dự án tiến hành tại một vùng có diện tích chiếm 22% so với diện tích toàn quốc (năm 1996) thì tỷ lệ tử vong do sốt rét của vùng này chiếm 46% so với tỷ lệ tử vong của toàn quốc. Tử suất (mortality) của bệnh sốt rét toàn quốc năm 1996 là 0,20/100 000 dân [12]. Đến năm 1999 thì diễn tiến của bệnh sốt rét ở Việt nam vẫn còn khá phức tạp. Theo báo cáo của Viện Sốt rét và Ký sinh trùng trung ương thì trong các tháng cuối năm 1998, sốt rét có chiều hướng gia tăng đột ngột ở nhiều tỉnh, như Bình phước tăng 211% so với cùng kỳ năm trước, Tây Ninh tăng 84%, Lạng Sơn tăng 90%. Trong vài năm đầu của thiên niên kỷ mới, một số vùng sốt rét lưu hành đạt được những thành tựu đáng kể trong công tác phòng chống bệnh sốt rét, như Kon tum: số người mắc sốt rét của năm 2001 giảm một nửa so với năm 1998, tỷ lệ tử vong giảm xuống 5 lần, thì một số nơi bệnh sốt rét lại tăng lên. Như Thừa thiên-Huế, số ca sốt rét năm 2001 tăng 23% so với năm 2000, 20% dân số tỉnh nằm trong quần thể nguy cơ mắc bệnh (population at risk). Tỉnh Ninh Thuận, năm 2001, số ca sốt rét ác tính tăng gấp ba lần so với năm trước. chỉ trong một tháng 6 toàn tỉnh có thêm 1900 ca mới mắc (incidence). Cho đến năm 2001 toàn quốc còn 2,4 triệu người bị mắc sốt rét chưa được điều trị. Theo kế hoạch năm 2001, toàn quốc phải tiến hành chữa trị cho 3,5 triệu người, nhưng thực tế chỉ có 1,1 triệu người được nhận điều trị (32%). Dự án quốc gia tài trợ cho công việc phòng chống sốt rét năm 2002 sẽ là 90 tỷ đồng Việt nam.

Ở các nước này, việc dùng DDT để trừ muỗi và phòng ngừa bệnh sốt rét đã đạt được nhiều kết quả mỹ mãn. Quan trọng hơn là khi ngưng dùng DDT thì bệnh sốt rét lại xuất hiện ở số lượng lớn trong dân chúng. Trong khi đó, các hóa chất khác dùng diệt muỗi như organophosphates và pyrethroids lại không có kết quả đáng kể và tương đối đắt tiền [13]. Phần lớn các chuyên gia hàng đầu về sốt rét, kể cả các chuyên gia trong quân đội Mỹ, đều đồng ý rằng DDT rất hiệu nghiệm trong việc phòng chống bệnh sốt rét ở các nước nhiệt đới, và cần phải tiếp tục dùng DDT ở các nước này [14]. Rất nhiều chuyên gia làm việc trong y tế rất quan tâm đến lệnh cấm dùng DDT trong các nước đang phát triển, vì họ cho rằng qua kinh nghiệm trong quá khứ, bệnh sốt rét sẽ trở nên một vấn nạn y tế công cộng cho các nước này nếu DDT bị tẩy chay.

Đối với Việt Nam, việc dùng thuốc trừ sâu, trong đó có DDT (phần lớn những loại thuốc này đã bị cấm bán ở các nước Tây phương, được lén lút nhập lậu qua ngả Thái Lan hay Trung Quốc), một cách bừa bãi có khả năng làm xấu môi trường. Trong những năm mới “đổi mới”, có nơi, đồng ruộng không còn cá để bắt! Một số người bị chất vì nhiễm độc. Chưa ai biết được có bao nhiêu người chết vì tình trạng dùng những hóa chất độc hại này. Tuy nhiên, nhà nước đã có nhiều chương trình giáo dục về ảnh hưởng của thuốc trừ sâu, và cho đến nay, qua trò chuyện với nông dân vùng Đồng bằng sông Cửu Long, chúng tôi cảm thấy nông dân đã ý thức phần nào về tác hại của chúng.

Thay vì nhìn vào vấn đề một cách tích cực và cẩn thận, gần đây đã có vài người lợi dụng danh nghĩa cá nhân và tình trạng trên để gieo vào đồng hương những thông tin thất thiệt [15]. Nhưng thiết nghĩ đó là một việc làm phản khoa học và có chủ ý không lành mạnh. Những người làm công tác khoa học nghiêm túc, ngoài việc nghiên cứu, họ còn có trách nhiệm chuyển thông tin chính xác cho đồng hương và công chúng; họ phải nói rõ những thông tin nào đã được xác định, những thông tin nào còn trong vòng nghi vấn. Giới nghiên cứu khoa học còn có trách nhiệm phân biệt cho công chúng biết những khác biệt giữa bằng chứng khoa học và giả thuyết. Giới truyền thông, giới chính khách không nên để cho những người làm khoa học tài tử, những khoa học gia nửa mùa lợi dụng danh nghĩa khoa học để gây hoang mang trong công chúng một cách không cần thiết.

Tuy nhiên, khi đưa vấn đề lên bàn cân: sức khoẻ môi trường hay tính mạng con người trước mắt, thì rõ ràng tính mạng của người dân vẫn phải là một ưu tiên. Cái khó khăn trong việc phòng chống bệnh sốt rét cho cả thế giới là bệnh truyền nhiễm lây qua muỗi. Không dễ gì tiêu diệt được loại trung gian truyền bệnh này, một khi vùng khí hậu lý tưởng cho chúng phát triển là nhiệt đới và cận nhiệt đới. Mọi biện pháp phòng ngừa bệnh sốt rét hiện nay đều là thụ động và gián tiếp. Hữu hiệu hơn cả là làm sao kiểm soát được nhân tố trung gian truyền bệnh – đó là muỗi, bằng cách dùng hoá chất trực tiếp phun xịt hay gián tiếp tẩm qua mùng màn. Do đề xuất DDT cần phải được loại ra khỏi danh mục sử dụng, thời gian gần đây đã có nghiên cứu đề xuất của các khoa học gia Âu châu đề xuất là tác động lên cấu trúc di truyền của muỗi, nhằm mục đích: (i) làm thay đổi hệ miễn nhiễm của loài muỗi, để chúng không còn khả năng mang mầm bịnh có thể lây truyền, (ii) làm thay đổi khứu giác của loài muỗi, để chúng thay đổi vật chủ người, (iii) làm thay đổi hệ sinh sản loài muỗi, để tạo ra nhiều muỗi đực vô sinh trong quần thể muỗi. Tuy nhiên điều đó còn là viễn ảnh. Hơn nữa, theo Tiến sĩ Susan Mayer, thuộc tổ chức Gene-Watch, một tổ chức hoạt động về vấn đề đạo đức trong công nghệ di truyền đã cảnh báo về việc cân nhắc giữa điều lợi và hại thực kỹ lưỡng trước khi tung giống muỗi “chuyển gen” này vào môi trường, bà lo lắng về một ảnh hưởng lớn hơn đến hệ sinh thái. Do đó, việc dùng DDT để phòng chống bệnh sốt rét ở Việt Nam vẫn là một việc nên được tiếp tục tiến hành cho đến khi nào có một biện pháp khác rẻ tiền và hiệu quả hơn DDT được phát triển và ứng dụng. Không có lí do gì để hi sinh sức khỏe và sinh mạng của người Việt hay người dân các nước nghèo để bảo vệ một ý tưởng môi sinh có tính cách phục vụ nhu cầu và lợi ích “xa xỉ” của công dân các nước giàu có ở phương Tây.

Trong một xã hội tự do và dân chủ, người ta bị ám ảnh bằng một khó khăn là một mặt họ ủng hộ cái ý niệm tự do mà trong đó người dân có quyền làm những chuyện có thể làm tổn hại đến cá nhân, nhưng mặt khác họ không muốn mở rộng sự buông thả này để gây tổn hại cho người khác. Do đó, có thể nói rằng, các quốc gia giàu có ở Tây phương, một mặt họ hoàn toàn có đủ tiền của để phòng ngừa những mối hiểm nguy tưởng tượng, nhưng mặt khác, nếu họ đóng vai trò hào hiệp của Đon-ki-sốt để áp đặt sự điên rồ đó cho các quốc gia nghèo khó là một hành động ngạo mạn, phách lối.

Tài liệu tham khảo và chú thích:

1. Bệnh Sốt rét (tiếng Anh: malaria, marsh fever, paludism) là một bệnh truyền nhiễm do muỗi Anopheles lây truyền lưu hành phổ biến trong các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới. Khi người bệnh bị muỗi mang mầm bệnh đốt, ký sinh trùng sốt rét (Plasmodium) này được đưa vào cơ thể, vào máu, và ký sinh trùng sẽ theo giòng máu đến gan và các cơ quan khác để sinh sản. Sau một thời gian, thường là 12 ngày đến 10 tháng, ký sinh trùng trở lại giòng máu và xâm nhập vào hồng huyết cầu. Chúng sinh sản rất nhanh, tiêu hủy các tế bào của hồng huyết cầu, và phóng thích ra nhiều ký sinh mới, có khả năng gây nhiễm các hồng huyết cầu khác. Điều này gây ra các cơn sốt ngắn, run, và ra mồ hôi, và gây ra tình trạng thiếu máu vì mất nhiều hồng huyết cầu khỏe mạnh. Biến chứng nguy hiểm của Sốt rét là sốt rét ác tính (malignant malaria) hay gặp ở loại ký sinh trùng Plasmodium falsiparum, các thể nào, gan, thận làm bệnh nhân chết rất nhanh, và tỷ lệ tử vong của loại sốt rét ác tính này rất cao. Biến chứng xa là bệnh có tính mãn tính (chronic), vì ký sinh trùng sốt rét có thể lưu lại trong cơ thể con người đến 10 năm (chưa kể bịù tái nhiễm), gây nên chứng sốt rét mãn tính nếu không điều trị triệt để. Xơ gan, lách to, thiếu máu, suy dính dưỡng là những biến chứng thường gặp trong sốt rét mãn tính.

2. Sharma GK. A critical review of the impact of insecticideal spraying under NMEP on the malaria situation in India. Journal Communicable Diseases 1987; 19:187-290.

3. Litsios S. The tomorrow of malaria. Pacific Press, 1996.

4. Chwatt B, et al. The rise and fall of malaria in Europe. Oxford University Press, 1980.

5. Sharp BL et al. Malaria in South Africa: the past, the present, and selected implications for the future. South African Medical Journal 1996; 86:83-89.

6. El Zorgani ED. Persistence of organochlorine insectisides in the field in the Gezira soil under cotton. Bulletin of Environmental Contamination and Toxicology 1976; 15:378-382.

7. Smith AG. Chlorinated hydrocarbon insectisides, trong sách “Handbook of pesticide toxicology” do EJ Hayes và EJ Law biên soạn, San Diego: Academic Press 1991; trang 731-915.

8. Có thể xem các báo cáo sau đây: (a) Plasma organochlorine levels and the risk of breast cancer, do DJ Hunter và đồng nghiệp công bố trong Tập san New England Journal of Medicine, 1997; số 337: trang 1253-8; (b) Breast cancer and serum organpchlorines: a prospective study among white, black and Asian women, do N Krieger và đồng nghiệp công bố trong [Tập san] Journal of the National Cancer Institute, 1994; số 86: trang 589-99; và (c) Organochlorines in the environment and breast cancer, do T Key và Reeves G công bố trong Tập san British Medical Journal, 1994; số 308: trang 1520-21.

9. Xem báo cáo Blood levels of DDT and breast cancer risk among women living in the North Vietnam, do A. Schecter và đồng nghiệp công bố, Tập san Archive Environmental Contamination Toxicology 1997; số 33: trang 453-456.

10. Xem báo cáo Childhood cancer and agricultural pesticide use: an ecologic study in California, P. Reynolds và đồng nghiệp công bố, Tập san Environmental Health Perspective 2002, số 110: trang 319-324.

11. Xem bài xa luận Another DDT connection? Tác giả: SM Sharp, Tập san Nature 1995; số 375: trang 538-9.

12. Địa chỉ: http://www.mekong-malaria.org, truy nhập 3 tháng 4 năm 2002.

13. Xem các báo cáo sau đây: (a) Malaria control: bednet or spraying: background and trial in Tanzania, tác giả: Curtis C, Tập san: Trans R Soc Trop Med Hyg 1999; số 93: trang 453-4; (b) Malaria control: bednet or spraying, tác giả: Mnzava AEP, Tập sanTrans R Soc Trop Med Hyg 1999; số 93: trang 455-6; và (c) Malaria control: bednet or spraying, tác giả: Misra SP, tập san: Trans R Soc Trop Med Hyg 1999; 93:456-7.

14. Xem chẳng hạn như bài báo DDT house spraying and re-emerging malaria, tác giả: DR Roberts, S Manguin, và J Mouchet, tập san: Lancet 2000; số 356: trang 330-2; và How toxic is DDT? Tác giả:AG Smith, Tập san Lancet 2000; số 356: trang 265-6.

15. Gần đây trong cộng đồng người Việt hải ngoại, xuất hiện một nhóm người tự nhận là “khoa học gia” cũng lặp lại y chang luận điệu trên của nhóm theo phong trào Xanh để nhằm tẩy chay việc dùng DDT ở Việt Nam. Những người này dùng con số thống kê về số lượng DDT do Bộ Y tế Việt Nam nhập cảng và tuyên bố rằng Việt Nam đang đứng trước thảm họa về ô nhiễm môi trường, dù họ không hề đưa ra một bằng chứng khoa học nào đáng tin cậy cả. Thay vào những bằng chứng khoa học, họ cắt xén cóp nhặt những bài báo đăng trong các báo ở trong nước và liên tiếp phóng lên internet hàng chục bản tin mang tựa đề “Việt Nam nhiễm độc”. Thực ra, nếu chỉ căn cứ vào các bản tin tức báo chí để đi đến một kết luận “nhiễm độc” thì ở bất cứ nước nào cũng đang nhiễm độc! Lý do đơn giản là những bản tin như thế xuất hiện hàng ngày. Cách đây một tuần, nhật báo Sydney Morning Herald của Úc cũng loan tin một tai nạn mà trong đó có khoảng 100 người bị nhiễm độc vì thức ăn. Tất nhiên, không ai, ngay cả những người thờ ơ với lý trí, lại có thể dại dột để cho rằng “Úc nhiễm độc”. Thực ra, những bản tin như thế cho chúng ta biết về nhận thức của tác giả của chúng hơn là cho chúng ta một sự thực.


200 năm Darwin
Agent Orange: collateral damage
Alexandre Yersin và Việt Nam
Bàn về hiệu quả vắcxin: lâm sàng và kinh tế
Bàn về vấn đề dịch thuật và đánh giá năng suất khoa học
Béo phì ở người Á châu
Béo phì ở trẻ em và virus
Bình luận từ Dr. Yến
Bưởi không gây ung thư vú
Bảo hiểm y tế cộng đồng
Bảo tồn môi sinh: Chiến tranh giữa hai thế giới
Bằng chứng khoa học thay vì lên lớp
Bệnh tả: không để Việt Nam thành Bangladesh thứ hai
Bệnh tật nhìn từ quan điểm của thuyết tiến hóa
Bệnh xơ hóa cơ delta qua y văn thế giới
Bổ sung kẽm và điều trị bệnh tả
Bộ gen trong cây lúa và triển vọng
Bộ Y tế phản ứng chậm với rét đậm
Chiều cao của người Việt
Chiều cao và tổng thống Mĩ
Cholesterol và bệnh Tim
Cholesterol: hung thần hay bạn?
Chuột và... các nhà khoa học
Chính sách y tế cần dựa vào bằng chứng khoa học
Chạy đua vũ khí và … dịch cúm
Chất béo, cholesterol, bệnh tim và statins: xét lại bằng chứng
Chất keo xã hội: hormones
Chất lượng nghiên cứu dịch tễ học và y tế cộng đồng của Việt Nam qua chỉ số H
Chất lượng nghiên cứu khoa học ở Việt Nam qua chỉ số trích dẫn
Chất vấn chuẩn chẩn đoán béo phì
Chế độ ăn uống với nhiều thịt động vật và nguy cơ tử vong
Chủng vi khuẩn tả hiện nay ở nước ta có phải mới xuất hiện?
Cuộc chiến hóa học phi pháp lớn nhất trong lịch sử chiến tranh
Câu chuyện y học: Leptin và béo phì
Có bao nhiêu bác sĩ viết chữ khó đọc
Có nên tập trung vào vi khuẩn E. coli ?
Có thể xảy ra đại dịch cúm gia cầm?
Công cụ đơn giản để chẩn đoán tiểu đường ở người Đông Nam Á
Cúm gia cầm và nhiễu thông tin
Cúm H1N1: biết và chưa biết
Cơ hội để khép lại một chương lịch sử đau lòng
Cần hiểu đúng về Ung thư và nguy cơ ung thư
Cần qui ước đạo đức cho kĩ nghệ thực phẩm
Cần tiêm chủng ngừa bệnh tả vùng có nguy cơ cao
Cần điều tra về chất lượng bệnh viện
Cổ phần hóa bệnh viện công và chất lượng
Cổ phần hóa: chưa phải cách duy nhất
DDT và vấn đề cân đối giữa lợi ích và nguy hiểm
Dinh dưỡng: một nguồn thuốc quí giá
DNA không nói dối, nhưng DNA có thể nói … sai
Dịch cúm gà: hoang mang và sự thật khoa học
Dịch cúm heo và tác hại kinh tế
Dịch tay-chân-miệng
Dịch tả: gọi đúng tên để phòng ngừa
Dựa vào khoa học, đừng dựa vào niềm tin!
E. coli – vài câu hỏi thông thường
Gen và bệnh tật
Ghen tuông dưới cái nhìn của tâm lí y khoa
Gian lận trong nghiên cứu khoa học: áp lực kinh tế và cơ chế bình duyệt
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC: KHƠI DẬY VÀ NUÔI DƯỠNG TÍNH HAM HỌC
Giải nobel y học hay sinh lí học 2007 và lợi ích cho người bệnh
Giải Nobel Y sinh học 2008 và những tranh chấp khoa học
Giải Nobel y sinh học 2010 vinh danh người đem niềm vui cho người vô sinh
Giải Nobel y sinh học năm 2005: Một cõi đi về với vi khuẩn
Giải Nobel y sinh học: Nhìn lại quãng đường 100 năm
Giải phẫu ghép mặt và vấn đề y đức
Gout ở xương sống
Gãy xương và tử vong: một vấn nạn y tế cộng đồng
Hiệu quả vắcxin có nghĩa gì?
Hoa vàng mấy độc
Hàm lượng đạm trong sữa “siêu thấp” hay “siêu cao”?
Hóa chất khai hoang trong cuộc chiến Viện Nam: Qui mô và tầm ảnh hưởng
Hướng đi nào để giải quyết vấn đề chất độc da cam ở Việt Nam
Hậu “mắm tôm được minh oan”: bằng chứng khoa học, nhà xí và nghiên cứu
Hệ Thống Học Vị Và Học Hàm Khoa Học Ở Vài Nước Tây Phương
Hợp tác khoa học kiểu nhảy dù - Nguyễn Văn Tuấn
Khi bác sĩ trẻ “khoe” quá nhiều
Khoa học và ngụy khoa học: một vài đặc điểm và khác biệt cần biết
Khoa học, xã hội, và rủi ro
Không thể thành Phù Đổng trong 20 năm!
Khẩu trang và phòng chống cúm A/H1N1
Kiểm định giả thuyết mắm tôm và vi khuẩn tả
Liều lượng melamine bao nhiêu là an toàn?
Lí lịch sinh học của heo và dấu vết văn minh nông nghiệp Đông Nam Á
Lượng giá mạng sống con người
Lợi ích của vitamin D
Miệng nhà quan
Mắm tôm có phải là “thủ phạm” gây bệnh tả? Xét lại bằng chứng khoa học
Mắm tôm và chuyện xin lỗi
Mắm tôm và dịch tả: phân biệt yếu tố nguy cơ và nguyên nhân
Mắm tôm vô tội!
Mắm tôm, nguyên nhân và hệ quả
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Một bệnh hiếm X-linked recessive hypoparathyroidism
Một lần đi phỏng vấn
Một năm nhìn lại
Một phán quyết thiếu cơ sở khoa học
Một vài hiểu lầm tai hại
Một vài ngộ nhận về nghiên cứu khoa học
Một vài vấn đề về qui định chức danh giáo sư ở Việt Nam
Một vụ Madoff trong y khoa: Lại một ngôi sao y khoa rơi rụng!
Mỡ trắng, mỡ nâu
Mỡ  trong máu, huyết áp, và  tiểu đường
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nguyên nhân bệnh tiêu chảy
Ngó trên tay điếu thuốc đã lụi dần
Người cao tuổi và sự hạn chế của y khoa
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Nhân chuyện dịch tả nhớ lại John Snow
Nhân câu chuyện điện não đồ xét nghiệm nghiện ma túy:
Nhân năm khỉ_nguồn gốc con người hiện đại
Nhân năm Tý bàn chuyện thí nghiệm trên chuột
Nhìn lại khoa học Việt Nam năm 2008 qua công bố quốc tế
Nhầm lẫn trong y khoa: Khá phổ biến, nhưng ít ai biết!
Những câu hỏi và trả lời về dịch gia cầm
Những sai sót khó tin nhưng có thật
Những sai sót nguy hiểm trong toa thuốc
Những điều khó tin về “Bảy điều khó tin nhất trong y học”
Năm lí do cho mắm tôm “vô tội”
Phán quyết sau cùng: Chất béo không ảnh hưởng đến ung thư và bệnh tim
Phát hiện gien kiểm soát ráy tai: vài bài học về mò kim đáy biển
Phòng chống bệnh phải dựa vào bằng chứng khoa học!
Phòng chống H1N1 bằng rửa tay và khẩu trang: Biện pháp nào hiệu quả hơn?
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao và cân nặng: thiếu cơ sở khoa học và kì thị giới tính
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao: vấn đề giả định và bằng chứng khoa học
Quyền phê phán và trí thức
Quyền được tiếp cận hồ sơ bệnh án
Quản lý chất lượng: Thuốc phòng "tai nạn y khoa"
Rửa tay bằng xà phòng và tiêu chảy
Serotonin có liên quan đến chứng đột tử
Suy dinh dưỡng ở trẻ em: vấn đề của kinh tế
Sàng lọc trẻ sơ sinh trên phạm vi toàn quốc
Tai nạn y khoa trong bệnh viện
Thế nào là một "bài báo khoa học"
Thế nào là “Cơ sở khoa học” ?
Thịt chó là nguyên nhân của bệnh tiêu chảy cấp tính?
Thịt chó và bệnh tả: nguyên nhân và yếu tố nguy cơ
Tiên lượng bệnh Alzheimer bằng protein expression ?
Tiêu chuẩn chất lượng giáo dục đại học
Tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì cho người Việt - Nguyễn Văn Tuấn
Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh đái tháo đường (diabetes mellitus)
Tiêu chuẩn đề bạt giáo sư: Có nên căn cứ vào số lượng bài báo ?
Tiêu chảy cấp tính và bệnh tả: Định danh cho đúng
Truy tìm ung thư bằng mammography từ tuổi 50
Truyền thông và khoa học: Qui ước Ingelfinger
Truyền thông và y tế
Truyền thông, khoa học và … doanh nghiệp
Trà xanh và sức khỏe
Trách nhiệm và nhân đạo trong vấn đề chất độc da cam
Trái chanh và phòng chống bệnh tả
Trả lời những câu hỏi liên quan đến loãng xương
Trọng lượng cơ thể và tử vong ở người Trung Quốc: Ý nghĩa về việc xác định tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì
Tuổi thọ của người dân giảm 10 năm ?
Tác dụng Placebo trong y học: Tâm lí và ý nghĩa
Tình yêu, sắc đẹp nhìn dưới quan điểm di truyền học
Tín hiệu môi trường từ những “làng ung thư”
Tính khoa học và minh bạch đằng sau xét nghiệm doping
Tại sao không phát biểu về nguyên nhân và hệ quả ?
Tại sao uống rượu gây đỏ mặt và nguy cơ ung thư thực quản
Tạo sinh vô tính và cái chết của Thượng đế
Tạo sinh vô tính và vấn đề sinh đạo đức
Tản mạn về SARS
Tỉ lệ tử vong do cúm heo là bao nhiêu ?
Tự trị, chất lượng và y đức thay vì cổ phần hóa bệnh viện công
Ung thư vú và vấn đề thông tin y khoa
Uống bia hấp dẫn muỗi
Vaccine phòng chống AIDS hiệu quả đến đâu ?
Vaccine phòng chống cúm A/H1N1
Vi khuẩn gây tiêu chảy và ý nghĩa tiêm chủng
Vi khuẩn tả trong chó ?
Viết văn có thể chữa nhiều loại bệnh
Viết văn và trị liệu
Việc ta, ta cứ làm!
Vài nhận xét về 12 điều lệ y đức của Việt Nam
Vài thông tin cần biết về các chương trình truy tìm ung thư vú
Vài đóng góp quan trọng của người Việt khoa học thống kê
Văn hóa khoa học
Văn hóa tranh luận và vấn đề ngụy biện
Vấn đề sinh tố: kẽm và đồng
Vấn đề truy tìm ung thư phổi và hiệu quả 
Vấn đề y đức trong nghiên cứu tế bào mầm (stem cells)
Vấn đề đo lường melamine
Vấn đề đào tạo tiến sĩ: kinh nghiệm từ Australia
Vắc-xin phòng chống ung thư cổ tử cung
Vắcxin ngừa viêm gan B: cẩn thận với “nhiễu thông tin”
Vắcxin ngừa viêm gan B: kinh nghiệm từ nước ngoài
Vắcxin phòng bệnh sởi - quai bị - Rubella: lợi và hại
Vắcxin phòng chống ung thư cổ tử cung: hiệu quả lâm sàng và kinh tế
Vắcxin phòng ngừa bệnh tả: rất cần thiết
Về chấn chỉnh đào tạo tiến sĩ: Công bố bài báo khoa học là một thách thức lớn ?
Về học vị tiến sĩ
Về một sự hiểu lầm thuật ngữ "prospective"
Về phản ứng phụ của bisphosphonates liên quan đến hoại tử xương hàm và rung nhĩ
Vệ sinh như là một loại hàng hóa
Vị thế của nền khoa học Việt Nam
Xung quang xì căng đan về nghiên cứu tế bào mầm
Xã hội hóa và an toàn thực phẩm
Xếp hạng đại học: cần minh bạch hóa phương pháp
Y học hiện đại và những hứa hẹn
Y học thực chứng: vài nét khái quát
Y Khoa và những nhầm lẫn chết người
Y tế dự phòng: nền tảng của y khoa hiện đại
Y đức và nghiên cứu y học
Ói mửa, cao huyết áp và hôn mê
Ăn chay như là một trị liệu
Ăn chay và loãng xương
Điều trị bệnh dựa vào màu da ?
Điều trị đau dây thần kinh tọa bằng phẫu thuật: không có hiệu quả
Đo lường hiệu suất khoa học
Đánh giá đúng tầm quan trọng của ung thư vú 
Đại dịch H1N1
Đại dịch và đại dịch ảo
Đại dịch đã đến ?
Đạo văn trong hoạt động khoa học
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đằng sau những con số hàm lượng đạm trong sữa
Đế quốc Trà
Đề bạt các chức danh khoa bảng: vài kinh nghiệm từ Úc
Đọc lại 12 điều y đức của Việt Nam
Đồi điều về sữa nhiễm melamine
Đừng quên melamine trong các thực phẩm khác!
Ước vọng 200 ?
“Kỹ năng mềm” cho nhà khoa học
“Sẽ” và “có thể”


Trang nhiều tác giả
Trang riêng của Lê Ngọc Dũng
Trang riêng của Lương Lễ Hoàng
Trang riêng của Nguyễn Bảo Trung
Trang riêng của Nguyễn Hoài Nam
Trang riêng của Nguyễn Hữu Đức
Trang riêng của Nguyễn Văn Tuấn
Trang riêng của Nguyễn Ý Đức
Trang riêng của Nguyễn Đình Nguyên
Trang riêng của Phan Xuân Trung
Trang riêng của Đỗ Hồng Ngọc
Trang riêng của Đỗ Minh Tuấn