NGUYỄN VĂN TUẤN

Xếp hạng đại học: cần minh bạch hóa phương pháp

Nguyễn Văn Tuấn

Đứng trên quan điểm của “khách hàng” hay sinh viên đang chọn trường, xếp hạng đại học là một điều có ích vì nó cung cấp thông tin về chất lượng đào tạo của trường đại học.  Nhưng vấn đề ở đây là đo lường chất lượng như thế nào cho khách quan.  Đó là câu hỏi mấu chốt khó có giải đáp khách quan và khoa học, nhất là trong điều kiện thiếu thốn dữ liệu như ở nước ta.

Hiện nay có nhiều nhóm truyền thông đứng ra lập những danh sách “top 200” và “top 500”. Trong các nhóm này phải kể đến nhóm Phụ trang giáo dục đại học của tờ Thời báo (THES – Times Higher Education Supplement) và nhóm thuộc Đại học Giao thông Thượng Hải (GTTH) được nhiều người biết đến từ 2003.  Các nhóm này sử dụng nhiều tiêu chí khác nhau để đánh giá chất lượng đào tạo và nghiên cứu của một đại học. 

Nhóm GTTH dựa vào 4 tiêu chí chính là số cựu sinh viên tốt nghiệp đoạt giải Nobel và Fields, số giáo sư đoạt giải Nobel và Fields, số nhà khoa học được trích dẫn nhiều lần, số bài báo khoa học trên hai tập san Nature Science, số bài báo khoa học trên tập san trong danh bạ SCIE, SSCI, và thành tựu của giáo sư và đội ngũ khoa bảng. 

Ngược lại, thay vì tập trung vào các tiêu chí nghiên cứu khoa học của GTTH, nhóm THES dựa vào sự đánh giá của giới khoa bảng từ các trường khác, số sinh viên tốt nghiệp làm việc trong các công ti toàn cầu, phần trăm giáo sư là người nước ngoài, phần trăm sinh viên là người nước ngoài, tỉ số sinh viên / giáo sư, và số lần trích dẫn tính trên đầu người giáo sư.

Mỗi tiêu chí được cho một trọng số (weight).  Tổng tích số của trọng số và kết quả của mỗi tiêu chí là điểm cuối cùng cho mỗi đại học.  Chẳng hạn như nhóm GTTH định trọng số 10% cho số cựu sinh viên đoạt giải Nobel và Fields, và thành tựu của giáo sư; nhưng cho trọng số 20% cho các tiêu chí như số giáo sư đoạt giải Nobel và Fields, số giáo sư có trích dẫn cao, số bài báo trên Science và Nature hay trong danh bạ SSI và SSCI 

Chúng ta có thể xem qua một so sánh giữa hai đại học A với 300 giáo sư và đại học B với 500 giáo sư, qua 4 tiêu chí chính mà nhóm GTTH dựa vào để xếp hạng đại học:

Tiêu chí

Đại học A

Đại học B

Số cựu sinh viên đoạt giải Nobel và Fields (trọng số 10%)

1

0

Số giáo sư đoạt giải Nobel và Fields (trọng số 20%)

2

0

Số giáo sư có chỉ số trích dẫn cao (trọng số 20%)

100

2

Số bài báo trên tập san ScienceNature (trọng số 20%)

30

30

Số bài báo trên các tập san quốc tế (trọng số 20%)

350

500

Thành tựu trung bình của giáo sư (trọng số 10%)

9.65

10.64

Tổng số điểm

106.15

117.04

 

Nhìn qua kết quả của các tiêu chí trên, chúng ta thấy rõ ràng đại học A mặc dù số giáo sư ít hơn nhưng có thành tựu khoa học cao hơn đại học B.  Đại học A có 1 cựu sinh đoạt giải Nobel (nhưng đại học B không có); số giáo sư có trích dẫn cao của đại học A cũng cao gấp 50 lần đại học B; năng suất khoa học của đại học A (số bài báo trên Science và Nature hay nói chung trên 300 giáo sư) cũng cao hơn đại học B.  Thế nhưng theo cách tính của nhóm GTTH thì đại học A có số điểm là 106.15, thấp hơn đại học B với tổng số điểm là 117.04!  Do đó, theo cách xếp hạng của GTTH thì đại học B có chất lượng cao hơn đại học A!

            Tại sao có sự khác biệt về xếp hạng đến vô lí như thế?  Vấn đề chính ở đây là phương pháp tính toán của GTTH đặt nặng vào số lượng bài báo và số lượng này tùy thuộc vào lực lượng khoa bảng (giáo sư) của trường đại học.  Ngoài ra, GTTH còn xem giá trị của một bái báo trên Science và Nature tương đương với một bài báo trên một tập san dưới trung bình nhưng có trong danh bạ SSI và SSCI!

            Phần lớn giới làm khoa học đều biết rằng những tiêu chí như số lần trích dẫn cao và số công trình 2 tập san danh tiếng ScienceNature là thước đo quan trọng của nghiên cứu khoa học.  Theo đó, giả dụ rằng chúng ta cho trọng số 30% cho những giáo sư có trích dẫn cao và bài báo trên 2 tập san danh tiếng ScienceNature, và trọng số 10% cho các tiêu chí còn lại, thì tổng số điểm của đại học A sẽ là 81.73 và đại học B là 65.56.  Theo cách đánh giá này thì đại học A có chất lượng cao hơn đại học B.

Tiêu chí

Đại học A

Đại học B

Số cựu sinh viên đoạt giải Nobel và Fields (trọng số 10%)

1

0

Số giáo sư đoạt giải Nobel và Fields (trọng số 10%)

2

0

Số giáo sư có chỉ số trích dẫn cao (trọng số 30%)

100

2

Số bài báo trên tập san ScienceNature (trọng số 30%)

30

30

Số bài báo trên các tập san quốc tế (trọng số 10%)

350

500

Thành tựu trung bình của giáo sư (trọng số 10%)

7.43

5.96

Tổng số điểm

81.73

65.56

Ví dụ đơn giản trên cho chúng ta thấy một vấn đề nổi cộm: đó là vấn đề phương pháp xác định trọng số.  Câu hỏi quan trọng cần đặt ra, do đó, là làm thế nào để xác định được trọng số cho mỗi tiêu chí?  Phương pháp khách quan nhất là phân tích thống kê.  Có nhiều mô hình thống kê để xác định trọng số, và các phương pháp này đòi hỏi một trình độ thống kê học cao mà không phải nhà thống kê học nào cũng có thể làm được.  Trong cộng người Việt ở nước ngoài, tôi nghĩ đến hai nhà thống kê học trong lĩnh vực này: đó là giáo sư Huỳnh Huynh thuộc đại học South Carolina (Mĩ) và giáo sư Phạm Gia Thụ thuộc đại học Moncton (Canada).  Hai giáo sư này là những chuyên gia hàng đầu trên thế giới về thống kê học, đặc biệt là giáo sư Huynh là một chuyên gia về đo lường giáo dục lâu năm rất có tiếng trên thế giới.

Nhưng nếu mô hình phân tích thống kê là một vấn đề kĩ thuật thì vấn đề quan trọng khác là chất lượng của dữ liệu.  Nguyên liệu của phân tích thống kê là dữ liệu.  Nếu dữ liệu thu thập không tốt thì kết quả phân tích thống kê chỉ là những con số vô nghĩa.  Do đó, các dữ liệu về đại học phải được thu thập một cách có hệ thống và có phương pháp khoa học.  Các dữ liệu này phải được thu thập qua nhiều năm, chứ không chỉ một năm.  Chỉ khi nào dữ liệu thu thập mang tính khoa học theo thời gian thì phân tích thống kê mới mang ý nghĩa, và trọng số xác định từ phân tích thống kê mới có thể nói là mang tính hợp lí.  

Không ai ngoài nhóm GTTH biết phương pháp phân tích và dữ liệu họ thu thập như thế nào, nhưng có điều chắc chắn là kết quả xếp hạng của GTTH không nhất quán với các danh sách khác.  Chẳng hạn như một số trường xuất hiện trên danh sách top 200 của GTTH không có trong danh sách của THES (và ngược lại).  Theo xếp hạng năm 2006, 4 trong số 50 trường hàng đầu của GTTH không nằm trong top 500 của THES! Một số trường trong danh sách top 50 của GTTH thậm chí không nằm trong danh sách top 500 của THES.  Tính tổng cộng, chỉ có 133 trường nằm trong cả hai danh sách!  Phân tích này một lần nữa cho thấy cách xếp hạng của cả hai nhóm không đáng tin cậy và không có cơ sở khoa học vững vàng.  

            Hiện nay, ngành giáo dục nước ta đang có nỗ lực để xếp hạng đại học Việt Nam.  Tuy nhiên, các tiêu chí cụ thể sẽ được sử dụng cho việc xếp hạng này vẫn chưa được công bố. Nhưng qua phát biểu của một chuyên gia (“Việc xếp hạng các trường ĐH cần phản ánh được hai hoạt động chính của nhà trường là giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Trong nghiên cứu khoa học phải bao hàm cả chuyển giao công nghệ phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Các trường ĐH được xếp hạng theo cùng nhóm theo từng lĩnh vực giảng dạy và nghiên cứu khoa học.”) thì các tiêu chí mà các giới chức Việt Nam sắp sử dụng có vẻ rất khác với các tiêu chí trên thế giới.

            Nhưng vấn đề then chốt vẫn là dữ liệu và phương pháp.  Không ai biết phương pháp xác định trọng số mà các chuyên gia Việt Nam sắp sử dụng để xếp hạng đại học là gì, và dữ liệu đã được thu thập hay phân tích ra sao.  Trang web của Cơ quan quản lý và cấp kinh phí: Đại học Quốc gia Hà Nội không cung cấp những thông tin này. 

Hai yêu cầu cơ bản của bất cứ một đo lường nào là độ tin cậy (reliability) và độ chính xác (accuracy).  Độ tin cậy phản ảnh tính nhất quán của biến đo lường khi được ứng dụng nhiều lần trong một điều kiện.  Độ chính xác của một đo lường cung cấp cho chúng ta biết đo lường thật sự phản ảnh được bao nhiêu bản chất của vấn đề chúng ta cần biết.  Chỉ khi nào các tiêu chuẩn chất lượng đáp ứng hai yêu cầu này thì mới có thể áp dụng rộng rãi.  Thiết tưởng việc xếp hạng đại học có ảnh hưởng đến nhiều người, vấn đề phương pháp và dữ liệu cần nên được minh bạch hóa và thảo luận trước khi ứng dụng vào thực tế. 

 

 


200 năm Darwin
Agent Orange: collateral damage
Alexandre Yersin và Việt Nam
Bàn về hiệu quả vắcxin: lâm sàng và kinh tế
Bàn về vấn đề dịch thuật và đánh giá năng suất khoa học
Béo phì ở người Á châu
Béo phì ở trẻ em và virus
Bình luận từ Dr. Yến
Bưởi không gây ung thư vú
Bảo hiểm y tế cộng đồng
Bảo tồn môi sinh: Chiến tranh giữa hai thế giới
Bằng chứng khoa học thay vì lên lớp
Bệnh tả: không để Việt Nam thành Bangladesh thứ hai
Bệnh tật nhìn từ quan điểm của thuyết tiến hóa
Bệnh xơ hóa cơ delta qua y văn thế giới
Bổ sung kẽm và điều trị bệnh tả
Bộ gen trong cây lúa và triển vọng
Bộ Y tế phản ứng chậm với rét đậm
Chiều cao của người Việt
Chiều cao và tổng thống Mĩ
Cholesterol và bệnh Tim
Cholesterol: hung thần hay bạn?
Chuột và... các nhà khoa học
Chính sách y tế cần dựa vào bằng chứng khoa học
Chạy đua vũ khí và … dịch cúm
Chất béo, cholesterol, bệnh tim và statins: xét lại bằng chứng
Chất keo xã hội: hormones
Chất lượng nghiên cứu dịch tễ học và y tế cộng đồng của Việt Nam qua chỉ số H
Chất lượng nghiên cứu khoa học ở Việt Nam qua chỉ số trích dẫn
Chất vấn chuẩn chẩn đoán béo phì
Chế độ ăn uống với nhiều thịt động vật và nguy cơ tử vong
Chủng vi khuẩn tả hiện nay ở nước ta có phải mới xuất hiện?
Cuộc chiến hóa học phi pháp lớn nhất trong lịch sử chiến tranh
Câu chuyện y học: Leptin và béo phì
Có bao nhiêu bác sĩ viết chữ khó đọc
Có nên tập trung vào vi khuẩn E. coli ?
Có thể xảy ra đại dịch cúm gia cầm?
Công cụ đơn giản để chẩn đoán tiểu đường ở người Đông Nam Á
Cúm gia cầm và nhiễu thông tin
Cúm H1N1: biết và chưa biết
Cơ hội để khép lại một chương lịch sử đau lòng
Cần hiểu đúng về Ung thư và nguy cơ ung thư
Cần qui ước đạo đức cho kĩ nghệ thực phẩm
Cần tiêm chủng ngừa bệnh tả vùng có nguy cơ cao
Cần điều tra về chất lượng bệnh viện
Cổ phần hóa bệnh viện công và chất lượng
Cổ phần hóa: chưa phải cách duy nhất
DDT và vấn đề cân đối giữa lợi ích và nguy hiểm
Dinh dưỡng: một nguồn thuốc quí giá
DNA không nói dối, nhưng DNA có thể nói … sai
Dịch cúm gà: hoang mang và sự thật khoa học
Dịch cúm heo và tác hại kinh tế
Dịch tay-chân-miệng
Dịch tả: gọi đúng tên để phòng ngừa
Dựa vào khoa học, đừng dựa vào niềm tin!
E. coli – vài câu hỏi thông thường
Gen và bệnh tật
Ghen tuông dưới cái nhìn của tâm lí y khoa
Gian lận trong nghiên cứu khoa học: áp lực kinh tế và cơ chế bình duyệt
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC: KHƠI DẬY VÀ NUÔI DƯỠNG TÍNH HAM HỌC
Giải nobel y học hay sinh lí học 2007 và lợi ích cho người bệnh
Giải Nobel Y sinh học 2008 và những tranh chấp khoa học
Giải Nobel y sinh học 2010 vinh danh người đem niềm vui cho người vô sinh
Giải Nobel y sinh học năm 2005: Một cõi đi về với vi khuẩn
Giải Nobel y sinh học: Nhìn lại quãng đường 100 năm
Giải phẫu ghép mặt và vấn đề y đức
Gout ở xương sống
Gãy xương và tử vong: một vấn nạn y tế cộng đồng
Hiệu quả vắcxin có nghĩa gì?
Hoa vàng mấy độc
Hàm lượng đạm trong sữa “siêu thấp” hay “siêu cao”?
Hóa chất khai hoang trong cuộc chiến Viện Nam: Qui mô và tầm ảnh hưởng
Hướng đi nào để giải quyết vấn đề chất độc da cam ở Việt Nam
Hậu “mắm tôm được minh oan”: bằng chứng khoa học, nhà xí và nghiên cứu
Hệ Thống Học Vị Và Học Hàm Khoa Học Ở Vài Nước Tây Phương
Hợp tác khoa học kiểu nhảy dù - Nguyễn Văn Tuấn
Khi bác sĩ trẻ “khoe” quá nhiều
Khoa học và ngụy khoa học: một vài đặc điểm và khác biệt cần biết
Khoa học, xã hội, và rủi ro
Không thể thành Phù Đổng trong 20 năm!
Khẩu trang và phòng chống cúm A/H1N1
Kiểm định giả thuyết mắm tôm và vi khuẩn tả
Liều lượng melamine bao nhiêu là an toàn?
Lí lịch sinh học của heo và dấu vết văn minh nông nghiệp Đông Nam Á
Lượng giá mạng sống con người
Lợi ích của vitamin D
Miệng nhà quan
Mắm tôm có phải là “thủ phạm” gây bệnh tả? Xét lại bằng chứng khoa học
Mắm tôm và chuyện xin lỗi
Mắm tôm và dịch tả: phân biệt yếu tố nguy cơ và nguyên nhân
Mắm tôm vô tội!
Mắm tôm, nguyên nhân và hệ quả
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Một bệnh hiếm X-linked recessive hypoparathyroidism
Một lần đi phỏng vấn
Một năm nhìn lại
Một phán quyết thiếu cơ sở khoa học
Một vài hiểu lầm tai hại
Một vài ngộ nhận về nghiên cứu khoa học
Một vài vấn đề về qui định chức danh giáo sư ở Việt Nam
Một vụ Madoff trong y khoa: Lại một ngôi sao y khoa rơi rụng!
Mỡ trắng, mỡ nâu
Mỡ  trong máu, huyết áp, và  tiểu đường
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nguyên nhân bệnh tiêu chảy
Ngó trên tay điếu thuốc đã lụi dần
Người cao tuổi và sự hạn chế của y khoa
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Nhân chuyện dịch tả nhớ lại John Snow
Nhân câu chuyện điện não đồ xét nghiệm nghiện ma túy:
Nhân năm khỉ_nguồn gốc con người hiện đại
Nhân năm Tý bàn chuyện thí nghiệm trên chuột
Nhìn lại khoa học Việt Nam năm 2008 qua công bố quốc tế
Nhầm lẫn trong y khoa: Khá phổ biến, nhưng ít ai biết!
Những câu hỏi và trả lời về dịch gia cầm
Những sai sót khó tin nhưng có thật
Những sai sót nguy hiểm trong toa thuốc
Những điều khó tin về “Bảy điều khó tin nhất trong y học”
Năm lí do cho mắm tôm “vô tội”
Phán quyết sau cùng: Chất béo không ảnh hưởng đến ung thư và bệnh tim
Phát hiện gien kiểm soát ráy tai: vài bài học về mò kim đáy biển
Phòng chống bệnh phải dựa vào bằng chứng khoa học!
Phòng chống H1N1 bằng rửa tay và khẩu trang: Biện pháp nào hiệu quả hơn?
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao và cân nặng: thiếu cơ sở khoa học và kì thị giới tính
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao: vấn đề giả định và bằng chứng khoa học
Quyền phê phán và trí thức
Quyền được tiếp cận hồ sơ bệnh án
Quản lý chất lượng: Thuốc phòng "tai nạn y khoa"
Rửa tay bằng xà phòng và tiêu chảy
Serotonin có liên quan đến chứng đột tử
Suy dinh dưỡng ở trẻ em: vấn đề của kinh tế
Sàng lọc trẻ sơ sinh trên phạm vi toàn quốc
Tai nạn y khoa trong bệnh viện
Thế nào là một "bài báo khoa học"
Thế nào là “Cơ sở khoa học” ?
Thịt chó là nguyên nhân của bệnh tiêu chảy cấp tính?
Thịt chó và bệnh tả: nguyên nhân và yếu tố nguy cơ
Tiên lượng bệnh Alzheimer bằng protein expression ?
Tiêu chuẩn chất lượng giáo dục đại học
Tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì cho người Việt - Nguyễn Văn Tuấn
Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh đái tháo đường (diabetes mellitus)
Tiêu chuẩn đề bạt giáo sư: Có nên căn cứ vào số lượng bài báo ?
Tiêu chảy cấp tính và bệnh tả: Định danh cho đúng
Truy tìm ung thư bằng mammography từ tuổi 50
Truyền thông và khoa học: Qui ước Ingelfinger
Truyền thông và y tế
Truyền thông, khoa học và … doanh nghiệp
Trà xanh và sức khỏe
Trách nhiệm và nhân đạo trong vấn đề chất độc da cam
Trái chanh và phòng chống bệnh tả
Trả lời những câu hỏi liên quan đến loãng xương
Trọng lượng cơ thể và tử vong ở người Trung Quốc: Ý nghĩa về việc xác định tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì
Tuổi thọ của người dân giảm 10 năm ?
Tác dụng Placebo trong y học: Tâm lí và ý nghĩa
Tình yêu, sắc đẹp nhìn dưới quan điểm di truyền học
Tín hiệu môi trường từ những “làng ung thư”
Tính khoa học và minh bạch đằng sau xét nghiệm doping
Tại sao không phát biểu về nguyên nhân và hệ quả ?
Tại sao uống rượu gây đỏ mặt và nguy cơ ung thư thực quản
Tạo sinh vô tính và cái chết của Thượng đế
Tạo sinh vô tính và vấn đề sinh đạo đức
Tản mạn về SARS
Tỉ lệ tử vong do cúm heo là bao nhiêu ?
Tự trị, chất lượng và y đức thay vì cổ phần hóa bệnh viện công
Ung thư vú và vấn đề thông tin y khoa
Uống bia hấp dẫn muỗi
Vaccine phòng chống AIDS hiệu quả đến đâu ?
Vaccine phòng chống cúm A/H1N1
Vi khuẩn gây tiêu chảy và ý nghĩa tiêm chủng
Vi khuẩn tả trong chó ?
Viết văn có thể chữa nhiều loại bệnh
Viết văn và trị liệu
Việc ta, ta cứ làm!
Vài nhận xét về 12 điều lệ y đức của Việt Nam
Vài thông tin cần biết về các chương trình truy tìm ung thư vú
Vài đóng góp quan trọng của người Việt khoa học thống kê
Văn hóa khoa học
Văn hóa tranh luận và vấn đề ngụy biện
Vấn đề sinh tố: kẽm và đồng
Vấn đề truy tìm ung thư phổi và hiệu quả 
Vấn đề y đức trong nghiên cứu tế bào mầm (stem cells)
Vấn đề đo lường melamine
Vấn đề đào tạo tiến sĩ: kinh nghiệm từ Australia
Vắc-xin phòng chống ung thư cổ tử cung
Vắcxin ngừa viêm gan B: cẩn thận với “nhiễu thông tin”
Vắcxin ngừa viêm gan B: kinh nghiệm từ nước ngoài
Vắcxin phòng bệnh sởi - quai bị - Rubella: lợi và hại
Vắcxin phòng chống ung thư cổ tử cung: hiệu quả lâm sàng và kinh tế
Vắcxin phòng ngừa bệnh tả: rất cần thiết
Về chấn chỉnh đào tạo tiến sĩ: Công bố bài báo khoa học là một thách thức lớn ?
Về học vị tiến sĩ
Về một sự hiểu lầm thuật ngữ "prospective"
Về phản ứng phụ của bisphosphonates liên quan đến hoại tử xương hàm và rung nhĩ
Vệ sinh như là một loại hàng hóa
Vị thế của nền khoa học Việt Nam
Xung quang xì căng đan về nghiên cứu tế bào mầm
Xã hội hóa và an toàn thực phẩm
Xếp hạng đại học: cần minh bạch hóa phương pháp
Y học hiện đại và những hứa hẹn
Y học thực chứng: vài nét khái quát
Y Khoa và những nhầm lẫn chết người
Y tế dự phòng: nền tảng của y khoa hiện đại
Y đức và nghiên cứu y học
Ói mửa, cao huyết áp và hôn mê
Ăn chay như là một trị liệu
Ăn chay và loãng xương
Điều trị bệnh dựa vào màu da ?
Điều trị đau dây thần kinh tọa bằng phẫu thuật: không có hiệu quả
Đo lường hiệu suất khoa học
Đánh giá đúng tầm quan trọng của ung thư vú 
Đại dịch H1N1
Đại dịch và đại dịch ảo
Đại dịch đã đến ?
Đạo văn trong hoạt động khoa học
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đằng sau những con số hàm lượng đạm trong sữa
Đế quốc Trà
Đề bạt các chức danh khoa bảng: vài kinh nghiệm từ Úc
Đọc lại 12 điều y đức của Việt Nam
Đồi điều về sữa nhiễm melamine
Đừng quên melamine trong các thực phẩm khác!
Ước vọng 200 ?
“Kỹ năng mềm” cho nhà khoa học
“Sẽ” và “có thể”


Trang nhiều tác giả
Trang riêng của Lê Ngọc Dũng
Trang riêng của Lương Lễ Hoàng
Trang riêng của Nguyễn Bảo Trung
Trang riêng của Nguyễn Hoài Nam
Trang riêng của Nguyễn Hữu Đức
Trang riêng của Nguyễn Văn Tuấn
Trang riêng của Nguyễn Ý Đức
Trang riêng của Nguyễn Đình Nguyên
Trang riêng của Phan Xuân Trung
Trang riêng của Đỗ Hồng Ngọc
Trang riêng của Đỗ Minh Tuấn