NGUYỄN VĂN TUẤN

Một vài hiểu lầm tai hại

(bài đăng trên Tia Sáng)

Nguyễn Văn Tuấn

Đọc bài Lực cản chính từ một số cây đa cây đề của TS. Phạm Đức Chính, điều khiến tôi thực sự lo ngại cho sự phát triển của khoa học và công nghệ vì một số cây đa, cây đề đó đứng đầu ngành, cầm chịch một số khoa học của nước nhà.

Phân tích từng điểm mà tôi nghĩ là ngộ nhận của các vị này có lẽ cần một bài báo nghiêm chỉnh. Ở đây tôi chỉ muốn chỉ ra vài điều thật tai hại trong cách nghĩ của họ.

Về ý kiến cho rằng ở các đại học phương Tây, người ta không quan tâm đến việc giáo sư họ có công bố quốc tế hay không, mà chỉ quan tâm đến thu hút tài trợ, tôi thấy thực tế không đúng như thế. Ở trường tôi, người ta đánh giá giáo sư qua nhiều tiêu chí, trong đó có 4 tiêu chí chính: nghiên cứu khoa học, đào tạo, thu hút tài trợ, và phục vụ cộng đồng khoa học. Nghiên cứu khoa học bao gồm năng suất khoa học qua những công bố quốc tế, vì đây là “đơn vị tiền tệ” của giới khoa bảng. Là giáo sư mà không có công bố quốc tế thì chắc chắn chẳng gây được uy tín nào, thậm chí không thể nào có được chức danh đó.

Ở Mĩ hay các nước phương Tây nói chung, để duyệt xét một đề cương nghiên cứu, người ta căn cứ vào những tiêu chí cụ thể như thành quả khoa học, kinh nghiệm của những người chủ trì dự án, và tính khả thi của đề án.  Thành quả khoa học ở đây chính là số lượng và chất lượng nghiên cứu khoa học (thể hiện qua những chỉ số trích dẫn hay chỉ số H).  Tài trợ cho nghiên cứu khoa học là một sự đầu tư, cho nên người ta phải xem xét kĩ năng suất của nhóm chủ trì để sao cho số tiền chi ra đem lại hiệu quả cao nhất và an toàn.  Thật ra, người ta đã làm phân tích trên Scientometrics cho thấy những ai có nhiều bài báo khoa học và chất lượng cao có xác suất cao nhận được tài trợ cho nghiên cứu.  Hệ số tương quan giữa xác suất xin được tài trợ và số lượng và chất lượng bài báo công bố là 0.69.  Do đó, công bố quốc tế là một yếu tố để thu hút tài trợ.  Nói rằng ở phương Tây người ta chỉ quan tâm đến đề tài mà xem nhẹ công bố quốc tế chẳng những thể hiện sự thiếu hiểu biết về cơ chế tài trợ nghiên cứu khoa học mà còn có phần mâu thuẫn. 

Tôi thấy ý kiến hay quan điểm “ngành tôi khó, ngành anh dễ” (phản ảnh qua câu“Ngành Sinh học công bố quốc tế dễ: họ chỉ cần tìm ra cái cây cái lá gì mới là công bố quốc tế được. Viện Cơ học công bố quốc tế ít vì công bố quốc tế trong lĩnh vực Cơ học khó hơn”) hết sức “hồn nhiên”.  Hình như người nói câu này không biết gì về sinh học, mà chỉ nhìn qua thực vật với một cặp mắt phiến diện như thế.  Sinh học là một ngành rất rộng lớn, và tốc độ phát triển nhanh nhất hiện nay. Người ta cho rằng thế kỉ 21 là thế kỉ của sinh học, kể cả sinh học phân tử và di truyền học.  Làm sao để đánh giá ngành nào khó hơn ngành nào? Một lần trước, có người làm toán cũng nói với tôi giống như thế: mấy anh làm bên y sinh học thì dễ công bố, chứ bên chúng tôi phải 2 hay 3 năm mới công bố được một bài vì làm toán khó lắm. Không biết các bạn thì sao, chứ mỗi lần tôi nghe câu nói loại này tôi cảm thấy tội nghiệp cho người nói (bất kể anh chị ta làm trong ngành nào) hơn là chấp nhất họ. Đây cũng là loại suy nghĩ “vùi đầu trong cát” (head in the sand), không nhìn chung quanh xem người ta làm ra sao. Thật ra thì trong bất cứ ngành khoa học nào, nếu làm chuyên sâu và nghiêm chỉnh, đều có cái khó của nó. Chẳng riêng gì ngành toán, vật lí, y sinh học, mà ngay cả ngành kinh tế học cũng thế. Do đó, đem so sánh chuyên ngành của mình với ngành khác là một việc làm tương đối mạo hiểm và thể hiện thiếu kém suy nghĩ trong khoa học.

Có người biện minh rằng trong số 1000 nghiên cứu chỉ có 1 công trình là có khả năng ứng dụng, và như thế không cần công bố quốc tế, nhưng lí giải này thiếu tính logic và không thuyết phục.  Trước khi một loại thuốc ra đời, các nhà khoa học phải truy tầm hàng trăm ngàn phân tử, với hàng ngàn bài báo khoa học, và cần đến hai thập niên.  Nếu không công bố kết quả, người ta cũng đăng kí bằng sáng chế.  Không có cơ quan nào mướn người làm mà không có kết quả.  Cũng có người cho rằng làm nghiên cứu ứng dụng cũng không cần công bố quốc tế.  Cả hai suy nghĩ đều có vấn đề.  Nếu nhà khoa học làm trong các trung tâm nghiên cứu của các công ti kĩ nghệ, có thể nhu cầu công bố quốc tế không phải quan trọng, nhưng họ vẫn phải chứng tỏ năng suất khoa học qua những bằng sáng chế được đăng kí.  Nghiên cứu cơ bản hay nghiên cứu ứng dụng đều phải có thành quả (nếu không thì không nên làm), và thành quả phải được thể hiện qua bài báo khoa học hay bằng sáng chế. 

Lấy thu nhập ra để biện minh không cần công bố quốc tế cũng là một ngụy biện thường gặp.  Ngụy biện là vì công bố quốc tế chẳng có liên quan mật thiết đến thu nhập bình quân đầu người, cũng chẳng tùy thuộc vào dân số của một nước.  Canada và Hà Lan là những nước nhỏ về dân số, thu nhập thấp hơn Mĩ, nhưng năng suất khoa học của họ hơn Mĩ.  Malaysia có thu nhập bình quân đầu người cao hơn, nhưng về mặt năng suất khoa học thì kém hơn, Thái Lan. 

Liên quan đến vấn đề tiền bạc, có một dòng suy nghĩ khá phổ biến là “thiếu tiền cho nghiên cứu”.  Điều này cũng đúng một phần, nhưng tiền không phải là yếu tố ngăn cản không làm nghiên cứu khoa học.  Có nhiều người đã làm nghiên cứu thực nghiệm và có công bố quốc tế với số tiền chưa đầy 5000 USD.  Đối với những người này, họ làm nghiên cứu khoa học để tự học, tự khẳng định mình, và qua đó có cơ sở để đi xin tài trợ.   Cái khác giữa một nhóm với tư duy “cho tiền mới làm” và một nhóm với tư duy “làm để chứng minh khả năng và xin tiền sau” là giữa thụ động và chủ động. giữa ngồi chờ và đi tìm, giữa bất biến và đột phá … Khoa học cần những người chủ động, truy tầm, và đột phá. 

Lại có người cho rằng “công bố với đồng nghiệp Nhật là được rồi, cần gì phải là tác giả chính”.  Tôi nghĩ đó là một tư duy an phận, an phận với vai trò của một người “lính đánh bộ” (foot solider), mà không chịu vươn lên một hợp tác trong tinh thần bình đẳng.  Phát biểu này còn cho thấy có người còn khá vô tư đối với tài sản tri thức của nước nhà.  Người ta lấy dữ liệu của Việt Nam, chất liệu của Việt Nam, nhờ người Việt Nam làm và người ta đứng vai chủ nhân.  Có cái gì không ổn ở đây.  Chả trách với tư duy này mà trong vòng 100 năm qua những kiến thức về nước Việt và người Việt lại lọt vào tay của người nước ngoài!

Khi không thích cái gì người ta thường gán cho nó một nhãn hiệu với hàm ý khinh khi. Tiêu biểu cho thái độ này là quan điểm cho rằng “ISI chỉ là một tổ chức tư nhân, không đủ uy tín đại diện, chỉ thống kê bài tiếng Anh, trong khi có bao tạp chí có uy tín tương đương bằng tiếng Nga, tiếng Pháp thì không được tính đến”. Tôi thấy quan điểm này rất giống thời bao cấp, xem bất cứ điều gì từ Nhà nước là chân lí. (Hình như người phát biểu quên rằng chúng ta đang theo kinh tế thị trường.) Các đại học hàng đầu của Mĩ đều là tư nhân. Các tập đoàn lớn về kinh tế và quốc phòng của Mĩ đều là tư nhân. Ở Mĩ và Úc, thậm chí còn có nhà tù do tư nhân quản lí. Theo quan điểm này thì các đại học đó, tập đoàn kinh tế và quốc phòng đó, nhà tù đó … không đủ uy tín!

Vấn đề không phải là “tư nhân” hay “nhà nước” mà là đóng góp của họ cho xã hội. ISI đã có những đóng góp cực kì lớn cho phát triển khoa học. Dù những sản phẩm và thống kê của họ chưa hoàn hảo, nhưng những chỉ số của ISI đã và đang được các đại học trên thế giới (ngoại trừ Việt Nam?), các cơ quan tài trợ, các bộ khoa học công nghệ, v.v… dựa vào đó mà đánh giá năng lực khoa học. Không thể xem thường đóng góp của ISI chỉ vì họ là một doanh nghiệp tư nhân. Còn các tập san Anh, Pháp, Nhật, Hàn, v.v… cũng có một số nằm trong danh sách của ISI, nhưng phần lớn không được công nhận vì chưa đạt được những điều kiện mà cộng đồng khoa học quốc tế công nhận. Làm sao và lấy gì để nói rằng một tập san khoa học của Nga hay Pháp tương đương với tập san Nature (của Anh) hay Science (của Mĩ)? Người phát biểu câu này thật là can đảm!

Thật là hài hước khi đọc ý kiến cho rằng “Hàn Quốc và TQ đòi hỏi công bố quốc tế ISI, SCI, nhưng VN ta phải khác. TQ là nước lớn, họ chịu sức ép phải làm tàu vũ trụ, còn ta đâu có phải làm mấy thứ đó”. Dùng cách lập luận đó, có lẽ Úc, Canada, Hà Lan, và Anh cũng có thể nói không cần gây áp lực cho các nhà khoa học của họ công bố quốc tế, vì 4 nước này là nước nhỏ và cũng không có làm “tàu vũ trụ”! Thật là đáng ngại khi có người đang cầm chịch khoa học mà có suy nghĩ quá đơn giản như thế.

Quan điểm về ta là ta, ta có con đường của ta (như “KH&CN không cần theo gương họ. Ta có con đường riêng của ta, chẳng có nước nào giống nước nào”) mới nghe qua thì cũng lọt tai, nhưng không thể khái quát hóa và đơn giản hóa câu đó cho mọi vấn đề được. Có những cái chúng ta cần giữ bản sắc của mình (như văn hóa), nhưng có những cái mình phải hội nhập với cộng đồng quốc tế (như các chuẩn mực khoa học). Chúng ta vào WTO và phải tuân thủ theo luật chơi của WTO, chứ không thể nói rằng ta có con đường riêng của ta. (Có lẽ chính vì suy nghĩ này mà Vietnam Airlines đã thua trên sân chơi quốc tế, và tốn khá nhiều tiền cho một kẻ lường gạt.)  Chúng ta không thể đi dự hộui nghị khoa học mà mặc áo dài khăn đống, không thể tham gia hội thảo mà trong đó mọi người nói tiếng Anh còn ta nói tiếng Việt.  Tương tự, chúng ta muốn hội nhập quốc tế thì phải học và hành xử theo luật chơi mà quốc tế chấp nhận. 

Luật chơi và chuẩn mực khoa học đã được hình thành từ rất lâu, và đến nay đã được đại đa số cộng đồng khoa học thế giới chấp nhận. Nước nào không chấp nhận thì sẽ tự cô lập và bị loại ra ngoài dòng chảy của khoa học. Không thể ngụy biện theo cảm tính bằng những “Tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc” để kêu gọi “Đã là người VN ta phải công bố trên các tạp chí của VN chúng ta”. Hệ luận của câu này là công bố trên các tập san quốc tế là không yêu nước, thiếu tự hào dân tộc. Nếu thế thì chính phủ và các đại học Úc, Hà Lan, Canada, Nhật, Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan, v.v… đều không có tinh thần yêu nước thương dân vì họ kêu gọi các nhà khoa học của họ công bố trên các tập san có impact factor cao, mà đại đa số các tập san này là ở Mĩ hay ở nước ngoài.

Nếu các tạp chí của Việt Nam được ISI công nhận, có cơ chế làm việc minh bạch, và đã gây được uy tín trong khoa học qua những công trình có chất lượng cao, thì lời kêu gọi đó có thể chấp nhận được. Nhưng hiện nay, chúng ta biết rằng chưa một tập san khoa học nào của Việt Nam đạt được những chuẩn mực đó. Vì thế lời kêu gọi đó không thực tế. Người phương Tây có câu “Nếu bạn không thắng được họ, thì nên tham gia với họ” (if you cannot beat them, join them), và mượn câu nói đó, tôi nghĩ nếu chúng ta chưa có khả năng lập ra những “luật chơi” khoa học mang tính Việt Nam, chưa đủ “critical mass” (thực lực) thiết lập một tập san khoa học tầm cỡ quốc tế, thì cách hay nhất là học họ và tham gia họ bằng cách công bố các công trình nghiên cứu khoa học trên các tập san quốc tế.


200 năm Darwin
Agent Orange: collateral damage
Alexandre Yersin và Việt Nam
Bàn về hiệu quả vắcxin: lâm sàng và kinh tế
Bàn về vấn đề dịch thuật và đánh giá năng suất khoa học
Béo phì ở người Á châu
Béo phì ở trẻ em và virus
Bình luận từ Dr. Yến
Bưởi không gây ung thư vú
Bảo hiểm y tế cộng đồng
Bảo tồn môi sinh: Chiến tranh giữa hai thế giới
Bằng chứng khoa học thay vì lên lớp
Bệnh tả: không để Việt Nam thành Bangladesh thứ hai
Bệnh tật nhìn từ quan điểm của thuyết tiến hóa
Bệnh xơ hóa cơ delta qua y văn thế giới
Bổ sung kẽm và điều trị bệnh tả
Bộ gen trong cây lúa và triển vọng
Bộ Y tế phản ứng chậm với rét đậm
Chiều cao của người Việt
Chiều cao và tổng thống Mĩ
Cholesterol và bệnh Tim
Cholesterol: hung thần hay bạn?
Chuột và... các nhà khoa học
Chính sách y tế cần dựa vào bằng chứng khoa học
Chạy đua vũ khí và … dịch cúm
Chất béo, cholesterol, bệnh tim và statins: xét lại bằng chứng
Chất keo xã hội: hormones
Chất lượng nghiên cứu dịch tễ học và y tế cộng đồng của Việt Nam qua chỉ số H
Chất lượng nghiên cứu khoa học ở Việt Nam qua chỉ số trích dẫn
Chất vấn chuẩn chẩn đoán béo phì
Chế độ ăn uống với nhiều thịt động vật và nguy cơ tử vong
Chủng vi khuẩn tả hiện nay ở nước ta có phải mới xuất hiện?
Cuộc chiến hóa học phi pháp lớn nhất trong lịch sử chiến tranh
Câu chuyện y học: Leptin và béo phì
Có bao nhiêu bác sĩ viết chữ khó đọc
Có nên tập trung vào vi khuẩn E. coli ?
Có thể xảy ra đại dịch cúm gia cầm?
Công cụ đơn giản để chẩn đoán tiểu đường ở người Đông Nam Á
Cúm gia cầm và nhiễu thông tin
Cúm H1N1: biết và chưa biết
Cơ hội để khép lại một chương lịch sử đau lòng
Cần hiểu đúng về Ung thư và nguy cơ ung thư
Cần qui ước đạo đức cho kĩ nghệ thực phẩm
Cần tiêm chủng ngừa bệnh tả vùng có nguy cơ cao
Cần điều tra về chất lượng bệnh viện
Cổ phần hóa bệnh viện công và chất lượng
Cổ phần hóa: chưa phải cách duy nhất
DDT và vấn đề cân đối giữa lợi ích và nguy hiểm
Dinh dưỡng: một nguồn thuốc quí giá
DNA không nói dối, nhưng DNA có thể nói … sai
Dịch cúm gà: hoang mang và sự thật khoa học
Dịch cúm heo và tác hại kinh tế
Dịch tay-chân-miệng
Dịch tả: gọi đúng tên để phòng ngừa
Dựa vào khoa học, đừng dựa vào niềm tin!
E. coli – vài câu hỏi thông thường
Gen và bệnh tật
Ghen tuông dưới cái nhìn của tâm lí y khoa
Gian lận trong nghiên cứu khoa học: áp lực kinh tế và cơ chế bình duyệt
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC: KHƠI DẬY VÀ NUÔI DƯỠNG TÍNH HAM HỌC
Giải nobel y học hay sinh lí học 2007 và lợi ích cho người bệnh
Giải Nobel Y sinh học 2008 và những tranh chấp khoa học
Giải Nobel y sinh học 2010 vinh danh người đem niềm vui cho người vô sinh
Giải Nobel y sinh học năm 2005: Một cõi đi về với vi khuẩn
Giải Nobel y sinh học: Nhìn lại quãng đường 100 năm
Giải phẫu ghép mặt và vấn đề y đức
Gout ở xương sống
Gãy xương và tử vong: một vấn nạn y tế cộng đồng
Hiệu quả vắcxin có nghĩa gì?
Hoa vàng mấy độc
Hàm lượng đạm trong sữa “siêu thấp” hay “siêu cao”?
Hóa chất khai hoang trong cuộc chiến Viện Nam: Qui mô và tầm ảnh hưởng
Hướng đi nào để giải quyết vấn đề chất độc da cam ở Việt Nam
Hậu “mắm tôm được minh oan”: bằng chứng khoa học, nhà xí và nghiên cứu
Hệ Thống Học Vị Và Học Hàm Khoa Học Ở Vài Nước Tây Phương
Hợp tác khoa học kiểu nhảy dù - Nguyễn Văn Tuấn
Khi bác sĩ trẻ “khoe” quá nhiều
Khoa học và ngụy khoa học: một vài đặc điểm và khác biệt cần biết
Khoa học, xã hội, và rủi ro
Không thể thành Phù Đổng trong 20 năm!
Khẩu trang và phòng chống cúm A/H1N1
Kiểm định giả thuyết mắm tôm và vi khuẩn tả
Liều lượng melamine bao nhiêu là an toàn?
Lí lịch sinh học của heo và dấu vết văn minh nông nghiệp Đông Nam Á
Lượng giá mạng sống con người
Lợi ích của vitamin D
Miệng nhà quan
Mắm tôm có phải là “thủ phạm” gây bệnh tả? Xét lại bằng chứng khoa học
Mắm tôm và chuyện xin lỗi
Mắm tôm và dịch tả: phân biệt yếu tố nguy cơ và nguyên nhân
Mắm tôm vô tội!
Mắm tôm, nguyên nhân và hệ quả
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Một bệnh hiếm X-linked recessive hypoparathyroidism
Một lần đi phỏng vấn
Một năm nhìn lại
Một phán quyết thiếu cơ sở khoa học
Một vài hiểu lầm tai hại
Một vài ngộ nhận về nghiên cứu khoa học
Một vài vấn đề về qui định chức danh giáo sư ở Việt Nam
Một vụ Madoff trong y khoa: Lại một ngôi sao y khoa rơi rụng!
Mỡ trắng, mỡ nâu
Mỡ  trong máu, huyết áp, và  tiểu đường
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nguyên nhân bệnh tiêu chảy
Ngó trên tay điếu thuốc đã lụi dần
Người cao tuổi và sự hạn chế của y khoa
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Nhân chuyện dịch tả nhớ lại John Snow
Nhân câu chuyện điện não đồ xét nghiệm nghiện ma túy:
Nhân năm khỉ_nguồn gốc con người hiện đại
Nhân năm Tý bàn chuyện thí nghiệm trên chuột
Nhìn lại khoa học Việt Nam năm 2008 qua công bố quốc tế
Nhầm lẫn trong y khoa: Khá phổ biến, nhưng ít ai biết!
Những câu hỏi và trả lời về dịch gia cầm
Những sai sót khó tin nhưng có thật
Những sai sót nguy hiểm trong toa thuốc
Những điều khó tin về “Bảy điều khó tin nhất trong y học”
Năm lí do cho mắm tôm “vô tội”
Phán quyết sau cùng: Chất béo không ảnh hưởng đến ung thư và bệnh tim
Phát hiện gien kiểm soát ráy tai: vài bài học về mò kim đáy biển
Phòng chống bệnh phải dựa vào bằng chứng khoa học!
Phòng chống H1N1 bằng rửa tay và khẩu trang: Biện pháp nào hiệu quả hơn?
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao và cân nặng: thiếu cơ sở khoa học và kì thị giới tính
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao: vấn đề giả định và bằng chứng khoa học
Quyền phê phán và trí thức
Quyền được tiếp cận hồ sơ bệnh án
Quản lý chất lượng: Thuốc phòng "tai nạn y khoa"
Rửa tay bằng xà phòng và tiêu chảy
Serotonin có liên quan đến chứng đột tử
Suy dinh dưỡng ở trẻ em: vấn đề của kinh tế
Sàng lọc trẻ sơ sinh trên phạm vi toàn quốc
Tai nạn y khoa trong bệnh viện
Thế nào là một "bài báo khoa học"
Thế nào là “Cơ sở khoa học” ?
Thịt chó là nguyên nhân của bệnh tiêu chảy cấp tính?
Thịt chó và bệnh tả: nguyên nhân và yếu tố nguy cơ
Tiên lượng bệnh Alzheimer bằng protein expression ?
Tiêu chuẩn chất lượng giáo dục đại học
Tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì cho người Việt - Nguyễn Văn Tuấn
Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh đái tháo đường (diabetes mellitus)
Tiêu chuẩn đề bạt giáo sư: Có nên căn cứ vào số lượng bài báo ?
Tiêu chảy cấp tính và bệnh tả: Định danh cho đúng
Truy tìm ung thư bằng mammography từ tuổi 50
Truyền thông và khoa học: Qui ước Ingelfinger
Truyền thông và y tế
Truyền thông, khoa học và … doanh nghiệp
Trà xanh và sức khỏe
Trách nhiệm và nhân đạo trong vấn đề chất độc da cam
Trái chanh và phòng chống bệnh tả
Trả lời những câu hỏi liên quan đến loãng xương
Trọng lượng cơ thể và tử vong ở người Trung Quốc: Ý nghĩa về việc xác định tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì
Tuổi thọ của người dân giảm 10 năm ?
Tác dụng Placebo trong y học: Tâm lí và ý nghĩa
Tình yêu, sắc đẹp nhìn dưới quan điểm di truyền học
Tín hiệu môi trường từ những “làng ung thư”
Tính khoa học và minh bạch đằng sau xét nghiệm doping
Tại sao không phát biểu về nguyên nhân và hệ quả ?
Tại sao uống rượu gây đỏ mặt và nguy cơ ung thư thực quản
Tạo sinh vô tính và cái chết của Thượng đế
Tạo sinh vô tính và vấn đề sinh đạo đức
Tản mạn về SARS
Tỉ lệ tử vong do cúm heo là bao nhiêu ?
Tự trị, chất lượng và y đức thay vì cổ phần hóa bệnh viện công
Ung thư vú và vấn đề thông tin y khoa
Uống bia hấp dẫn muỗi
Vaccine phòng chống AIDS hiệu quả đến đâu ?
Vaccine phòng chống cúm A/H1N1
Vi khuẩn gây tiêu chảy và ý nghĩa tiêm chủng
Vi khuẩn tả trong chó ?
Viết văn có thể chữa nhiều loại bệnh
Viết văn và trị liệu
Việc ta, ta cứ làm!
Vài nhận xét về 12 điều lệ y đức của Việt Nam
Vài thông tin cần biết về các chương trình truy tìm ung thư vú
Vài đóng góp quan trọng của người Việt khoa học thống kê
Văn hóa khoa học
Văn hóa tranh luận và vấn đề ngụy biện
Vấn đề sinh tố: kẽm và đồng
Vấn đề truy tìm ung thư phổi và hiệu quả 
Vấn đề y đức trong nghiên cứu tế bào mầm (stem cells)
Vấn đề đo lường melamine
Vấn đề đào tạo tiến sĩ: kinh nghiệm từ Australia
Vắc-xin phòng chống ung thư cổ tử cung
Vắcxin ngừa viêm gan B: cẩn thận với “nhiễu thông tin”
Vắcxin ngừa viêm gan B: kinh nghiệm từ nước ngoài
Vắcxin phòng bệnh sởi - quai bị - Rubella: lợi và hại
Vắcxin phòng chống ung thư cổ tử cung: hiệu quả lâm sàng và kinh tế
Vắcxin phòng ngừa bệnh tả: rất cần thiết
Về chấn chỉnh đào tạo tiến sĩ: Công bố bài báo khoa học là một thách thức lớn ?
Về học vị tiến sĩ
Về một sự hiểu lầm thuật ngữ "prospective"
Về phản ứng phụ của bisphosphonates liên quan đến hoại tử xương hàm và rung nhĩ
Vệ sinh như là một loại hàng hóa
Vị thế của nền khoa học Việt Nam
Xung quang xì căng đan về nghiên cứu tế bào mầm
Xã hội hóa và an toàn thực phẩm
Xếp hạng đại học: cần minh bạch hóa phương pháp
Y học hiện đại và những hứa hẹn
Y học thực chứng: vài nét khái quát
Y Khoa và những nhầm lẫn chết người
Y tế dự phòng: nền tảng của y khoa hiện đại
Y đức và nghiên cứu y học
Ói mửa, cao huyết áp và hôn mê
Ăn chay như là một trị liệu
Ăn chay và loãng xương
Điều trị bệnh dựa vào màu da ?
Điều trị đau dây thần kinh tọa bằng phẫu thuật: không có hiệu quả
Đo lường hiệu suất khoa học
Đánh giá đúng tầm quan trọng của ung thư vú 
Đại dịch H1N1
Đại dịch và đại dịch ảo
Đại dịch đã đến ?
Đạo văn trong hoạt động khoa học
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đằng sau những con số hàm lượng đạm trong sữa
Đế quốc Trà
Đề bạt các chức danh khoa bảng: vài kinh nghiệm từ Úc
Đọc lại 12 điều y đức của Việt Nam
Đồi điều về sữa nhiễm melamine
Đừng quên melamine trong các thực phẩm khác!
Ước vọng 200 ?
“Kỹ năng mềm” cho nhà khoa học
“Sẽ” và “có thể”


Trang nhiều tác giả
Trang riêng của Lê Ngọc Dũng
Trang riêng của Lương Lễ Hoàng
Trang riêng của Nguyễn Bảo Trung
Trang riêng của Nguyễn Hoài Nam
Trang riêng của Nguyễn Hữu Đức
Trang riêng của Nguyễn Văn Tuấn
Trang riêng của Nguyễn Ý Đức
Trang riêng của Nguyễn Đình Nguyên
Trang riêng của Phan Xuân Trung
Trang riêng của Đỗ Hồng Ngọc
Trang riêng của Đỗ Minh Tuấn