NGUYỄN VĂN TUẤN

Mỡ  trong máu, huyết áp, và  tiểu đường 

Nguyễn Văn Tuấn  

Bất định trong y khoa: Bạn chọn phương án nào ?  
 
Thử tưởng tượng rằng bạn đang ở tuổi 60, kém may mắn vì mắc bệnh tiểu đường. Chẳng những thế, bạn còn có vấn đề huyết áp cao và nồng độ mỡ LDL và triglyceride trong máu cũng gia tăng trong thời gian gần đây một cách đáng ngại. Bạn quan tâm đến nguy cơ bị chết vì bạn còn trẻ (mới 60 mà), và muốn tìm phương án điều trị tối ưu để giảm nguy cơ tử vong. 
 
Nếu tôi trình bày một phương án điều trị giảm huyết áp, tạm gọi là phương án A, sẽ giảm huyết áp tâm thu của bạn xuống 130 mmHg. Tôi có dữ liệu cho thấy trong số 1000 người điều trị bằng phương án này trong vòng 1 năm, sẽ có 21 người chết và 979 người sống. Nếu bạn chọn phương án này, tôi không biết bạn nằm trong số không may mắn (chết) hay số sống sót. Bạn chọn phương án này không? Có lẽ không. 
 
OK, tôi cho bạn một lựa chọn khác. Với phương án B, huyết áp của bạn sẽ giảm xuống còn 120 mmHg, và tôi biết rằng trong số 1000 người được điều trị bằng phương án này, sẽ có 19 người chết và 981 người sống trong vòng 1 năm. Bây giờ thì có lẽ bạn sẽ chọn phương án B này. Nhưng nếu tôi cho bạn biết rằng với phương án này có thể tăng nguy cơ giảm huyết áp thậm chí đột quị, thì có lẽ bạn phải ... ngần ngừ. 
 
Bây giờ tôi trình bày một phương án khác là … không điều trị gì cả, mà chỉ uống nước lọc (tạm gọi là phương án C) và cẩn thận trong ăn uống. Theo phương án "giả dược" này, trong số 1000 người, sẽ có 22 người chết và 978 người sống. Bạn chọn phương án A, B hay C? 
 
Có lẽ bạn thấy chẳng có khác nhau gì giữa 3 phương án, nhất là phương án A và B tốn tiền và có biến chứng. Nếu bạn chọn phương án C và may mắn thì còn sống (vì xác suất sống là 97.8%) thì vẫn tương đương với chọn phương án A và có thể còn sống (xác suất sống là 98.1%). 
 
Nhưng nếu tôi cho bạn một phương án khác nữa (tạm gọi là phương án D), không dùng thuốc, nhưng tự bạn điều trị bằng chế độ ăn uống, bỏ hút thuốc lá, năng tập thể dục như đi bộ hàng ngày, v.v… Tôi biết rằng trong số 1000 người theo phương án điều trị này trong vòng 1 năm, sẽ có 12 người chết và 988 người sống. Đến đây thì có lẽ bạn sẽ chọn phương án này D này. 
 
Câu chuyện mà tôi trình bày trên tuy là tưởng tượng, nhưng thật ra tôi mô phỏng theo kết quả nghiên cứu có thật ngoài đời. Câu chuyện nói lên những bất định trong điều trị bệnh tiểu đường. Sự bất định nằm ở chỗ dù bạn có điều trị hay không điều trị thì vẫn có nguy cơ tử vong, và mức độ khác biệt về nguy ơ tử vong giữa các phương pháp điều trị trong thực tế rất thấpĐiều này có nghĩa là khả năng mà bạn có lợi ích từ điều trị cũng rất thấp (dưới 5%)
 
Thế nhưng nhiều bệnh nhân (và bác sĩ nữa) nghĩ rằng dùng thuốc điều trị là mình sẽ không mắc bệnh (tức là một suy nghĩ xác định – deterministic), nhưng trong thực tế thì không phải như thế. Trong thực tế, chỉ có một số nhỏ “đáp ứng” thuốc mà thôi, phần đa số còn lại thì thuốc chẳng có hiệu quả gì đáng kể, thậm chí còn gây tác hại. Tại sao một số bệnh nhân đáp ứng trong khi nhiều bệnh nhân khác không đáp ứng ? Câu trả lời rất phức tạp vì nó còn tùy thuộc vào gen của bạn, nhưng cái khó khăn là chưa ai biết gen nào quyết định bạn sẽ đáp ứng hay không đáp ứng thuốc. 
 
Vì tình trạng bất định, cho nên nhiều phương pháp điều trị hiện hành chẳng có bằng chứng khoa học. Để có bằng chứng, các bác sĩ phải làm nghiên cứu khoa học. Trong thời gian gần đây, có vài công trình nghiên cứu khoa học liên quan đến những phương án mà tôi vừa trình bày. Để câu chuyện không khô khang, tôi sẽ trình bày ngắn gọn kết quả của những nghiên cứu đó là nhận xét của tôi về những kết quả đó. 
 
Huyết áp, mỡ trong máu và tiểu đường 
 
Người mắc bệnh tiểu đường thường có một số đặc điểm chính như huyết áp tăng cao và nồng độ mỡ trong máu tăng cao. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy hơn 50% bệnh nhân tiểu đường mắc chứng cao huyết áp. Cao huyết áp và tăng nồng độ mỡ trong máu là hai yếu tố gia tăng nguy cơ biến cố bệnh tim (như đột quị, suy tim, xơ vữa động mạch) và tử vong vì bệnh tim mạch. Người cao huyết áp có nguy cơ đột quị tăng gấp 2.5 lần so với người có huyết áp bình thường. Khoảng 1/4 bệnh nhân đột quị cũng là những người mắc tiểu đường. 
 
Từ những sự thật trên, các chuyên gia đề ra phương án điều trị bệnh tiểu đường là giảm huyết áp ở “mức độ an toàn”, và giảm nồng độ mỡ LDL (một loại “mỡ xấu” trong máu) hay triglyceride (cũng là một loại mỡ trong máu). Theo khuyến cáo của Liên ủy ban về phòng chống, phát hiện, đánh giá và điều trị cao huyết áp (còn gọi là JNC), mục tiêu đầu tiên trong việc điều trị bệnh nhân tiểu đường với huyết áp tâm thu cao là giảm huyết áp xuống dưới 130 mmHg (chứ không phải như có người hiểu lầm là giảm dưới 140 mmHg; giảm dưới 140 mmHg là cho quần thể cao huyết áp nói chung, chứ không phải áp dụng cho bệnh nhân tiểu đường). Tuy nhiên, chưa có bằng chứng khoa học nào để làm cơ sở cho khuyến cáo đó của JNC.  
 
Giảm huyết áp càng thấp càng tốt?  
 
Gần đây, một số nghiên cứu quan sát cho thấy ở những bệnh nhân tiểu đường có huyết áp tâm thu thấp hơn 120 mmHg cũng là những người có nguy cơ mắc bệnh tim mạch và tử vong thấp hơn những bệnh nhân có huyết áp cao hơn 120 mmHg. Câu hỏi đặt ra là: ở bệnh nhân tiểu đường nếu giảm huyết áp tâm thu dưới 120 mmHg có đem lại lợi ích so với giảm huyết áp dưới trong khoảng 130-140 mmHg? 
 
Để trả lời câu hỏi đó, các nhà nghiên cứu chia 4733 bệnh nhân tiểu đường týp 2 thành 2 nhóm: nhóm được hạ huyết áp tâm thu dưới 120 mmHg (gọi là nhóm A), và nhóm hạ huyết áp tâm thu xuống dưới 140 mmHg (gọi là nhóm B). Thời gian theo dõi gần 5 năm, và chỉ tiêu lâm sàng để đánh giá là các biến cố lâm sàng liên quan đến bệnh tim mạch như nhồi máu cơ tim, đột quị, và tử vong từ các bệnh tim mạch. 
 
Lúc mới vào công trình nghiên cứu, cả 2 nhóm có huyết áp tâm thu trung bình khoảng ~140 mmHg. Sau 1 năm điều trị, họ thành công giảm huyết áp trung bình trong nhóm A xuống còn 119 mmHg (giảm 15%), và nhóm B xuống còn 133 mmHg (giảm 5%). 
 
Kết quả cho thấy hai nhóm A và B không khác nhau về các biến cố tim mạch. Thậm chí, nhóm A (điều trị tích cực) có nguy cơ tử vong còn cao hơn nhóm B khoảng 7%, nhưng kết quả này không có ý nghĩa thống kê (khoảng tin cậy 95% dao động từ 0.85 đến 1.35). Có thể xem thêm kết quả trong bảng số liệu dưới đây.  
 


200 năm Darwin
Agent Orange: collateral damage
Alexandre Yersin và Việt Nam
Bàn về hiệu quả vắcxin: lâm sàng và kinh tế
Bàn về vấn đề dịch thuật và đánh giá năng suất khoa học
Béo phì ở người Á châu
Béo phì ở trẻ em và virus
Bình luận từ Dr. Yến
Bưởi không gây ung thư vú
Bảo hiểm y tế cộng đồng
Bảo tồn môi sinh: Chiến tranh giữa hai thế giới
Bằng chứng khoa học thay vì lên lớp
Bệnh tả: không để Việt Nam thành Bangladesh thứ hai
Bệnh tật nhìn từ quan điểm của thuyết tiến hóa
Bệnh xơ hóa cơ delta qua y văn thế giới
Bổ sung kẽm và điều trị bệnh tả
Bộ gen trong cây lúa và triển vọng
Bộ Y tế phản ứng chậm với rét đậm
Chiều cao của người Việt
Chiều cao và tổng thống Mĩ
Cholesterol và bệnh Tim
Cholesterol: hung thần hay bạn?
Chuột và... các nhà khoa học
Chính sách y tế cần dựa vào bằng chứng khoa học
Chạy đua vũ khí và … dịch cúm
Chất béo, cholesterol, bệnh tim và statins: xét lại bằng chứng
Chất keo xã hội: hormones
Chất lượng nghiên cứu dịch tễ học và y tế cộng đồng của Việt Nam qua chỉ số H
Chất lượng nghiên cứu khoa học ở Việt Nam qua chỉ số trích dẫn
Chất vấn chuẩn chẩn đoán béo phì
Chế độ ăn uống với nhiều thịt động vật và nguy cơ tử vong
Chủng vi khuẩn tả hiện nay ở nước ta có phải mới xuất hiện?
Cuộc chiến hóa học phi pháp lớn nhất trong lịch sử chiến tranh
Câu chuyện y học: Leptin và béo phì
Có bao nhiêu bác sĩ viết chữ khó đọc
Có nên tập trung vào vi khuẩn E. coli ?
Có thể xảy ra đại dịch cúm gia cầm?
Công cụ đơn giản để chẩn đoán tiểu đường ở người Đông Nam Á
Cúm gia cầm và nhiễu thông tin
Cúm H1N1: biết và chưa biết
Cơ hội để khép lại một chương lịch sử đau lòng
Cần hiểu đúng về Ung thư và nguy cơ ung thư
Cần qui ước đạo đức cho kĩ nghệ thực phẩm
Cần tiêm chủng ngừa bệnh tả vùng có nguy cơ cao
Cần điều tra về chất lượng bệnh viện
Cổ phần hóa bệnh viện công và chất lượng
Cổ phần hóa: chưa phải cách duy nhất
DDT và vấn đề cân đối giữa lợi ích và nguy hiểm
Dinh dưỡng: một nguồn thuốc quí giá
DNA không nói dối, nhưng DNA có thể nói … sai
Dịch cúm gà: hoang mang và sự thật khoa học
Dịch cúm heo và tác hại kinh tế
Dịch tay-chân-miệng
Dịch tả: gọi đúng tên để phòng ngừa
Dựa vào khoa học, đừng dựa vào niềm tin!
E. coli – vài câu hỏi thông thường
Gen và bệnh tật
Ghen tuông dưới cái nhìn của tâm lí y khoa
Gian lận trong nghiên cứu khoa học: áp lực kinh tế và cơ chế bình duyệt
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC: KHƠI DẬY VÀ NUÔI DƯỠNG TÍNH HAM HỌC
Giải nobel y học hay sinh lí học 2007 và lợi ích cho người bệnh
Giải Nobel Y sinh học 2008 và những tranh chấp khoa học
Giải Nobel y sinh học 2010 vinh danh người đem niềm vui cho người vô sinh
Giải Nobel y sinh học năm 2005: Một cõi đi về với vi khuẩn
Giải Nobel y sinh học: Nhìn lại quãng đường 100 năm
Giải phẫu ghép mặt và vấn đề y đức
Gout ở xương sống
Gãy xương và tử vong: một vấn nạn y tế cộng đồng
Hiệu quả vắcxin có nghĩa gì?
Hoa vàng mấy độc
Hàm lượng đạm trong sữa “siêu thấp” hay “siêu cao”?
Hóa chất khai hoang trong cuộc chiến Viện Nam: Qui mô và tầm ảnh hưởng
Hướng đi nào để giải quyết vấn đề chất độc da cam ở Việt Nam
Hậu “mắm tôm được minh oan”: bằng chứng khoa học, nhà xí và nghiên cứu
Hệ Thống Học Vị Và Học Hàm Khoa Học Ở Vài Nước Tây Phương
Hợp tác khoa học kiểu nhảy dù - Nguyễn Văn Tuấn
Khi bác sĩ trẻ “khoe” quá nhiều
Khoa học và ngụy khoa học: một vài đặc điểm và khác biệt cần biết
Khoa học, xã hội, và rủi ro
Không thể thành Phù Đổng trong 20 năm!
Khẩu trang và phòng chống cúm A/H1N1
Kiểm định giả thuyết mắm tôm và vi khuẩn tả
Liều lượng melamine bao nhiêu là an toàn?
Lí lịch sinh học của heo và dấu vết văn minh nông nghiệp Đông Nam Á
Lượng giá mạng sống con người
Lợi ích của vitamin D
Miệng nhà quan
Mắm tôm có phải là “thủ phạm” gây bệnh tả? Xét lại bằng chứng khoa học
Mắm tôm và chuyện xin lỗi
Mắm tôm và dịch tả: phân biệt yếu tố nguy cơ và nguyên nhân
Mắm tôm vô tội!
Mắm tôm, nguyên nhân và hệ quả
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Một bệnh hiếm X-linked recessive hypoparathyroidism
Một lần đi phỏng vấn
Một năm nhìn lại
Một phán quyết thiếu cơ sở khoa học
Một vài hiểu lầm tai hại
Một vài ngộ nhận về nghiên cứu khoa học
Một vài vấn đề về qui định chức danh giáo sư ở Việt Nam
Một vụ Madoff trong y khoa: Lại một ngôi sao y khoa rơi rụng!
Mỡ trắng, mỡ nâu
Mỡ  trong máu, huyết áp, và  tiểu đường
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nguyên nhân bệnh tiêu chảy
Ngó trên tay điếu thuốc đã lụi dần
Người cao tuổi và sự hạn chế của y khoa
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Nhân chuyện dịch tả nhớ lại John Snow
Nhân câu chuyện điện não đồ xét nghiệm nghiện ma túy:
Nhân năm khỉ_nguồn gốc con người hiện đại
Nhân năm Tý bàn chuyện thí nghiệm trên chuột
Nhìn lại khoa học Việt Nam năm 2008 qua công bố quốc tế
Nhầm lẫn trong y khoa: Khá phổ biến, nhưng ít ai biết!
Những câu hỏi và trả lời về dịch gia cầm
Những sai sót khó tin nhưng có thật
Những sai sót nguy hiểm trong toa thuốc
Những điều khó tin về “Bảy điều khó tin nhất trong y học”
Năm lí do cho mắm tôm “vô tội”
Phán quyết sau cùng: Chất béo không ảnh hưởng đến ung thư và bệnh tim
Phát hiện gien kiểm soát ráy tai: vài bài học về mò kim đáy biển
Phòng chống bệnh phải dựa vào bằng chứng khoa học!
Phòng chống H1N1 bằng rửa tay và khẩu trang: Biện pháp nào hiệu quả hơn?
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao và cân nặng: thiếu cơ sở khoa học và kì thị giới tính
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao: vấn đề giả định và bằng chứng khoa học
Quyền phê phán và trí thức
Quyền được tiếp cận hồ sơ bệnh án
Quản lý chất lượng: Thuốc phòng "tai nạn y khoa"
Rửa tay bằng xà phòng và tiêu chảy
Serotonin có liên quan đến chứng đột tử
Suy dinh dưỡng ở trẻ em: vấn đề của kinh tế
Sàng lọc trẻ sơ sinh trên phạm vi toàn quốc
Tai nạn y khoa trong bệnh viện
Thế nào là một "bài báo khoa học"
Thế nào là “Cơ sở khoa học” ?
Thịt chó là nguyên nhân của bệnh tiêu chảy cấp tính?
Thịt chó và bệnh tả: nguyên nhân và yếu tố nguy cơ
Tiên lượng bệnh Alzheimer bằng protein expression ?
Tiêu chuẩn chất lượng giáo dục đại học
Tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì cho người Việt - Nguyễn Văn Tuấn
Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh đái tháo đường (diabetes mellitus)
Tiêu chuẩn đề bạt giáo sư: Có nên căn cứ vào số lượng bài báo ?
Tiêu chảy cấp tính và bệnh tả: Định danh cho đúng
Truy tìm ung thư bằng mammography từ tuổi 50
Truyền thông và khoa học: Qui ước Ingelfinger
Truyền thông và y tế
Truyền thông, khoa học và … doanh nghiệp
Trà xanh và sức khỏe
Trách nhiệm và nhân đạo trong vấn đề chất độc da cam
Trái chanh và phòng chống bệnh tả
Trả lời những câu hỏi liên quan đến loãng xương
Trọng lượng cơ thể và tử vong ở người Trung Quốc: Ý nghĩa về việc xác định tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì
Tuổi thọ của người dân giảm 10 năm ?
Tác dụng Placebo trong y học: Tâm lí và ý nghĩa
Tình yêu, sắc đẹp nhìn dưới quan điểm di truyền học
Tín hiệu môi trường từ những “làng ung thư”
Tính khoa học và minh bạch đằng sau xét nghiệm doping
Tại sao không phát biểu về nguyên nhân và hệ quả ?
Tại sao uống rượu gây đỏ mặt và nguy cơ ung thư thực quản
Tạo sinh vô tính và cái chết của Thượng đế
Tạo sinh vô tính và vấn đề sinh đạo đức
Tản mạn về SARS
Tỉ lệ tử vong do cúm heo là bao nhiêu ?
Tự trị, chất lượng và y đức thay vì cổ phần hóa bệnh viện công
Ung thư vú và vấn đề thông tin y khoa
Uống bia hấp dẫn muỗi
Vaccine phòng chống AIDS hiệu quả đến đâu ?
Vaccine phòng chống cúm A/H1N1
Vi khuẩn gây tiêu chảy và ý nghĩa tiêm chủng
Vi khuẩn tả trong chó ?
Viết văn có thể chữa nhiều loại bệnh
Viết văn và trị liệu
Việc ta, ta cứ làm!
Vài nhận xét về 12 điều lệ y đức của Việt Nam
Vài thông tin cần biết về các chương trình truy tìm ung thư vú
Vài đóng góp quan trọng của người Việt khoa học thống kê
Văn hóa khoa học
Văn hóa tranh luận và vấn đề ngụy biện
Vấn đề sinh tố: kẽm và đồng
Vấn đề truy tìm ung thư phổi và hiệu quả 
Vấn đề y đức trong nghiên cứu tế bào mầm (stem cells)
Vấn đề đo lường melamine
Vấn đề đào tạo tiến sĩ: kinh nghiệm từ Australia
Vắc-xin phòng chống ung thư cổ tử cung
Vắcxin ngừa viêm gan B: cẩn thận với “nhiễu thông tin”
Vắcxin ngừa viêm gan B: kinh nghiệm từ nước ngoài
Vắcxin phòng bệnh sởi - quai bị - Rubella: lợi và hại
Vắcxin phòng chống ung thư cổ tử cung: hiệu quả lâm sàng và kinh tế
Vắcxin phòng ngừa bệnh tả: rất cần thiết
Về chấn chỉnh đào tạo tiến sĩ: Công bố bài báo khoa học là một thách thức lớn ?
Về học vị tiến sĩ
Về một sự hiểu lầm thuật ngữ "prospective"
Về phản ứng phụ của bisphosphonates liên quan đến hoại tử xương hàm và rung nhĩ
Vệ sinh như là một loại hàng hóa
Vị thế của nền khoa học Việt Nam
Xung quang xì căng đan về nghiên cứu tế bào mầm
Xã hội hóa và an toàn thực phẩm
Xếp hạng đại học: cần minh bạch hóa phương pháp
Y học hiện đại và những hứa hẹn
Y học thực chứng: vài nét khái quát
Y Khoa và những nhầm lẫn chết người
Y tế dự phòng: nền tảng của y khoa hiện đại
Y đức và nghiên cứu y học
Ói mửa, cao huyết áp và hôn mê
Ăn chay như là một trị liệu
Ăn chay và loãng xương
Điều trị bệnh dựa vào màu da ?
Điều trị đau dây thần kinh tọa bằng phẫu thuật: không có hiệu quả
Đo lường hiệu suất khoa học
Đánh giá đúng tầm quan trọng của ung thư vú 
Đại dịch H1N1
Đại dịch và đại dịch ảo
Đại dịch đã đến ?
Đạo văn trong hoạt động khoa học
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đằng sau những con số hàm lượng đạm trong sữa
Đế quốc Trà
Đề bạt các chức danh khoa bảng: vài kinh nghiệm từ Úc
Đọc lại 12 điều y đức của Việt Nam
Đồi điều về sữa nhiễm melamine
Đừng quên melamine trong các thực phẩm khác!
Ước vọng 200 ?
“Kỹ năng mềm” cho nhà khoa học
“Sẽ” và “có thể”


Trang nhiều tác giả
Trang riêng của Lê Ngọc Dũng
Trang riêng của Lương Lễ Hoàng
Trang riêng của Nguyễn Bảo Trung
Trang riêng của Nguyễn Hoài Nam
Trang riêng của Nguyễn Hữu Đức
Trang riêng của Nguyễn Văn Tuấn
Trang riêng của Nguyễn Ý Đức
Trang riêng của Nguyễn Đình Nguyên
Trang riêng của Phan Xuân Trung
Trang riêng của Đỗ Hồng Ngọc
Trang riêng của Đỗ Minh Tuấn