Tản mạn:
Mắm tôm, nguyên nhân và hệ quả
Nguyễn Văn Tuấn
Bệnh tả và dịch tiêu chảy cấp tính coi như đã được khống chế, nhưng các giới chức y tế vẫn chưa nhất trí nguyên nhân bộc phát của bệnh. Ngay từ những ngày bệnh mới phát sinh ở qui mô quần thể, các quan chức trong Bộ Y tế đã khẳng định mắm tôm là một “thủ phạm”. Nhưng qua gần 4 tuần điều tra và xét nghiệm mắm tôm được “minh oan”. Chiều ngày 21/11, Thứ trưởng Bộ Y tế Trịnh Quân Huấn kết luận: “Thịt chó, mắm tôm không phải là nguyên nhân gây bệnh trong vụ dịch này nữa. Mà nguyên nhân là thực phẩm tươi sống, thực phẩm nguội và nguồn nước đang bị ô nhiễm nặng nề”. (báo Pháp Luật TPHCM). Trước đó một ngày, phát biểu trên báo chí Tiến sĩ Nguyễn Trần Hiển cũng cho biết mắm tôm không phải là nguyên nhân gây bệnh tả: “Mắm tôm không phải là nguyên nhân gây dịch bệnh tiêu chảy lần này.”
Tuy nhiên, phát biểu trên Tuổi Trẻ, cục trưởng Cục An toàn vệ sinh thực phẩm (Bộ Y tế), Tiến sĩ Trần Đáng khẳng định ngược lại: “mắm tôm là thức ăn nguyên nhân, là nguồn lây nhiễm bệnh trong giai đoạn đầu của vụ dịch tiêu chảy cấp nguy hiểm ở miền Bắc từ cuối tháng mười đến cuối tháng mười một vừa qua.” Theo ông cục trưởng, kết luận này dựa vào lời khai của 61 bệnh nhân trước khi mắc bệnh đều có ăn mắm tôm.
Trước những tuyên bố đầy tính khẳng định của các quan chức như trên, chúng ta biết tin ai? Bài viết này sẽ giải thích thế nào là nguyên nhân, và thế nào là yếu tố nguy cơ của bệnh, với hi vọng sẽ làm sáng tỏ và minh oan cho mắm tôm. Những lí giải của tôi rất cơ bản, vì đó là những sự thật trong sách giáo khoa (mà tôi rất ngại viết ra vì khá nhàm), và vì thế, hi vọng rằng trong tương lai chúng ta cũng không cần đến những lí giải cơ bản này nữa khi bàn đến những vấn đề y tế công cộng mang tính “đại sự”.
Trước khi bàn chuyện nghiêm chỉnh, tôi muốn chia sẻ với các bạn một kinh nghiệm cá nhân (hôm nay là ngày cuối năm rồi, chúng ta cần vài phút thư thái, nhẹ nhàng!) Hồi còn nhỏ, tôi sống ở trong quê, và ở quê thì không thể thiếu tiếng gà gáy. Tiếng gà gáy thánh thót nhưng cũng có lúc não nùng đó người thành thị không thể nào cảm nhận được. Thử tưởng tượng: mỗi sáng gà gáy ó o và vài giây hay phút sau đó mặt trời mọc. Thời đó, trong sự tưởng tượng phong phú của trẻ thơ, tôi thầm nghĩ con gà khiêm tốn như vậy mà lại “ngon lành”, có khả năng điều khiển cả mặt trời! Con cóc nữa: mỗi lần nó nghiến răng là có trời mưa, nên người ta hay nói “con cóc là cậu ông trời”. Mấy con vật nhỏ nhoi như vậy nhưng xem ra có khả năng phi thường!
Thời gian là người thầy tuyệt vời. Khi có dịp đọc sách triết học và khoa học tôi mới thấy những nhận định của mình lúc còn trẻ thơ “có vấn đề”, vì sự nhầm lẫn giữa nguyên nhân và hệ quả. Khi theo học môn dịch tễ học, thầy tôi -- một ông giáo sư có tuổi cực kì khó tính (chẳng bao giờ thấy ông cười) -- giảng thao thao bất tuyệt về những nhầm lẫn về hai thuật ngữ “causation” và “association” với những ví dụ chỉ có thể nói là cười ra nước mắt (nhưng ông không cười). Chẳng hạn như ông đưa ra ví dụ trong thời thế chiến thứ II, giới quân sự chú ý rằng các phi công chiến đấu cơ thường bắn không chính xác khi bầu trời sáng sủa; hay qua phân tích thống kê giới xã hội học nhận thấy khi phụ nữ trẻ mặc quần áo ngắn (tươi mát) là lúc tình hình kinh tế đang phát triển, và ngược lại khi phụ nữ mặc đồ dài thùy mị là lúc kinh tế có xu hướng xuống dốc; v.v… Các ví dụ trên cho thấy trời trong sáng không phải là nguyên nhân của sự thiếu chính xác khi bỏ bom, bởi vì vào lúc đó phi cơ đối phương cũng bay lên tác chiến và gây ra tình trạng nhiễu sóng dẫn đến sai sót mục tiêu. Tương tự, kích thước quần áo của phụ nữ không phải là nguyên nhân của phát triển (hay suy thoái) kinh tế, nhưng có thể kích thước quần áo họ mặc là một “marker” phản ảnh gián tiếp tình hình kinh tế: trong thời kì kinh tế khó khăn, phụ nữ khó kiếm việc làm hơn đàn ông, và phải ở nhà chăm sóc con cái, nên thường ăn mặc nghiêm chỉnh; và khi tình hình kinh tế phát triển, họ không cần đến sự hỗ trợ kinh tế của đàn ông (vì họ cũng tìm được việc làm dễ dàng), nhưng họ khó tìm chồng, nên họ cần phải có cách thu hút đàn ông qua ăn mặc củn cỡn một chút.
Bài học quan trọng qua các ví dụ trên là: cần phải phân biệt mối quan hệ nhân quả (cause-effect relationship) và mối liên quan (association). Gà gáy không phải là nguyên nhân làm cho mặt trời mọc và cóc nghiến răng không phải là nguyên nhân làm cho trời đổ cơn mưa; chúng ta do đó chỉ có thể nói có sự liên quan giữa gà gáy và mặt trời mọc, hay giữa cóc nghiến răng và trời mưa. Tương tự, nếu chúng ta thấy phần lớn những người mắc bệnh tả từng ăn mắm tôm, điều đó không có nghĩa rằng mắm tôm là nguyên nhân bệnh tả, mà chỉ có thể phát biểu rằng có mối liên quan giữa hai sự kiện.
Nguyên nhân
Chính vì thế mà tôi cảm thấy phân vân với hai chữ “nguyên nhân” gắn ghép với mắm tôm trong câu phát biểu của ông cục trưởng ... Ở đây, tôi sẽ không bàn đến cách hiểu “nguyên nhân” của những triết gia vì như thế sẽ làm cho câu chuyện thêm rối rắm. Chúng ta biết rằng mối liên hệ giữa nguyên nhân và hệ quả (hay mối liên hệ “nhân quả”) đóng vai trò cực kì quan trọng trong y khoa, bởi vì biết được nguyên nhân của bệnh sẽ dẫn đến điều trị hợp lí, và xác định sai nguyên nhân sẽ dẫn đến sai lầm trong điều trị. Tương tự, đối với y tế cộng đồng, khẳng định sai nguyên nhân có thể làm tác động (hay nói đúng hơn là tác hại) đến nhiều người. Thành ra, xác định nguyên nhân trong y tế công cộng đóng vai trò cực kì quan trọng cho việc hoạch định chính sách y tế cho một quần thể.
Trong y học nói riêng, và khoa học nói chung, xác định nguyên nhân một bệnh hay một sự kiện không phải là điều dễ dàng chút nào, vì nó đòi hỏi nghiên cứu nghiêm chỉnh và thời gian. Nói một cách ngắn gọn, một vi khuẩn (hay một yếu tố sinh học) là nguyên nhân gây bệnh nếu hội đủ 4 tiêu chuẩn (hay bốn bước) sau đây:
· thứ nhất, vi khuẩn đó phải tồn tại ở số lượng lớn trong tất cả bệnh nhân, nhưng không tồn tại trong những người không mắc bệnh;
· thứ hai, vi khuẩn đó phải được tách ra từ cơ thể bệnh nhân và có thể nuôi dưỡng trong môi trường thí nghiệm (mẻ cấy vi khuẩn);
· thứ ba, khi vi khuẩn nuôi trong môi trường thí nghiệm cấy vào con người bình thường sẽ làm cho người đó mắc bệnh; và
· thứ tư, khi vi khuẩn cấy vào người và gây bệnh được tách ra phải chính là vi khuẩn được tách ra ở bước 2 (tức là khi cấy vào con người ở bước ba vi khuẩn không đột biến thay đổi).
Dựa vào các tiêu chuẩn trên, vào thế kỉ 19, Robert Koch đã chứng minh rằng V. cholerae chính là vi khuẩn gây bệnh tả. Ngày nay chúng ta biết rằng tất cả những người mắc bệnh tả đều bị nhiễm vi khuẩn, nhưng họ phải hấp thụ trên một triệu vi khuẩn V. cholerae thì triệu chứng và bệnh mới phát sinh.
Vi khuẩn tả có thể có mặt trong bất cứ thực phẩm nào, nhất là các món ăn đồ biển, nhưng rất khó tồn tại trong mắm tôm. Thật vậy, đã có khá nhiều nghiên cứu trên thế giới chỉ ra rằng vi khuẩn tả có thể tồn tại và phát triển trong môi trường với nồng độ muối từ 0,1% đến 4% (cỡ môi trường nước biển hay nước lợ), nhưng không thể sống nổi trong môi trường mà nồng độ muối trên 20-30% như trong mắm tôm. Ngoài ra, vi khuẩn tả không thể tồn tại trong môi trường pH<3. Các nghiên cứu khoa học trong y văn cũng cho biết chỉ cần khử trùng bằng một trái chanh, trong vòng 5 phút, 99,9% số vi khuẩn tả đều bị tiêu diệt; sau 2 giờ khử trùng, không còn một vi khuẩn nào tồn tại.
Do đó, không ai ngạc nhiên khi thấy tất cả các mẫu mắm tôm trên cả nước được đem đi xét nghiệm đều có kết quả âm tính với vi khuẩn tả. Tính đến nay đã có 138 mẫu mắm tôm được xét nghiệm (50 ở Hà Nội, 24 ở Thành phố Hồ Chí Minh, 32 mẫu ở Thanh Hóa, 35 mẫu ở Hải Phòng, Hải Dương, và Nghệ An) và tất cả đều không hàm chứa vi khuẩn tả.
Và, cũng không ngạc nhiên khi báo chí cho biết có nhiều người không ăn mắm tôm nhưng cũng mắc bệnh tả và tiêu chảy. Báo Sài Gòn Tiếp Thị cho chúng ta biết một trường hợp rất thú vị và có liên quan đến vấn đề chúng ta đang bàn như sau: “Ông Nguyễn Xuân Mịch, 73 tuổi. Ông Mịch từ Thanh Trì, Hà Nội, xuống Ninh Bình ăn cỗ. Mâm cỗ có thịt chó, mắm tôm, nhưng ông Mịch khai rằng ông là người duy nhất trong bàn ăn hôm đó không ăn mắm tôm. Cho tới nay, những người ngồi cùng mâm và có ăn mắm tôm thì không ai mắc dịch, trừ một người không ăn, ông Mịch.”
Do đó, tôi e rằng kết luận mắm tôm là nguyên nhân của bệnh tả và tiêu chảy có phần quá dễ dãi, không phù hợp với y văn thế giới, và cũng không phù hợp với bằng chứng thực tế.
Yếu tố nguy cơ
Nhưng sự thật (hãy cứ cho là “sự thật” = fact) rằng 61 bệnh nhân từng có tiền sử ăn mắm tôm thì phải được diễn giải như thế nào đây? Bởi vì mắm tôm, cho dù có pha loãng với nồng độ muối giảm xuống còn 10-15% đi nữa thì khả năng vi khuẩn sống sót rất thấp. Mà, cho dù có vài vi khuẩn sống sót đi nữa, thì với một lát chanh (thậm chí chỉ một trái cà chua), vi khuẩn cũng không thể nào tồn tại được. Đó là lí do sinh học rất thực tế, còn về mặt logic, sự thật "61 bệnh nhân từng có tiền sử ăn mắm tôm" đó không cho phép chúng ta phát biểu gì về nguyên nhân của bệnh tả cả. Thật là sai lầm nếu lí giải rằng “vì 100% bệnh nhân từng bị phơi nhiễm yếu tố X, suy ra X là nguyên nhân của bệnh”. Bất cứ ai làm trong ngành loãng xương đều biết rằng khoảng 90% bệnh nhân gãy cổ xương đùi là do té, nhưng không ai dám can đảm nói rằng té là nguyên nhân dẫn đến gãy cổ xương đùi, bởi vì chỉ có 3-5% người té sẽ bị gãy xương. Do đó, số liệu mà chúng ta cần biết thêm là: trong số những những người ăn mắm tôm, có bao nhiêu người mắc bệnh tả? (Câu hỏi này dĩ nhiên là khác với câu hỏi trong số những người mắc bệnh tả, có bao nhiêu người ăn mắm tôm).
Đến đây thì chúng ta cần phải phân biệt hai khái niệm rất quan trọng trong dịch tễ học và y khoa: nguyên nhân (cause) và yếu tố nguy cơ (risk factor). Nguyên nhân là yếu tố sinh học trực tiếp gây bệnh, như vi khuẩn V. cholerae gây bệnh tả. Yếu tố nguy cơ là những yếu tố -- qua các cơ chế gián tiếp hay trực tiếp -- làm tăng nguy cơ mắc bệnh của một cá nhân. Chẳng hạn như nước bị ô nhiễm có thể là một yếu tố nguy cơ của bệnh tả vì nước có thể hàm chứa vi khuẩn tả; nhưng nước không phải là nguyên nhân gây bệnh tả bởi vì không phải ai uống nước ô nhiễm cũng đều mắc bệnh, họ chỉ có nguy cơ mắc bệnh cao hơn người không uống nước ô nhiễm. Theo quan điểm của dịch tễ học, một yếu tố nguy cơ được xem là nguyên nhân nếu hội đủ 5 điều kiện sau đây:
· mối liên hệ “yếu tố nguy cơ - bệnh” phải có cơ sở sinh học;
· phơi nhiễm yếu tố nguy cơ phải xảy ra trước khi bệnh xảy ra;
· người bị phơi nhiễm yếu tố nguy cơ càng cao có nguy cơ mắc bệnh càng cao;
· mối liên hệ phải được “chứng minh” trong nhiều quần thể và nhiều nghiên cứu độc lập, chứ không phải chỉ một quần thể hay một nghiên cứu; và
· nếu can thiệp làm thay đổi mức độ phơi nhiễm yếu tố nguy cơ làm thay đổi nguy cơ mắc bệnh.
Thông thường, các bệnh truyền nhiễm hay suy dinh dưỡng chỉ có một nguyên nhân duy nhất. Chẳng hạn như nguyên nhân của bệnh tả là vi khuẩn V. cholerae, bệnh lao là vi khuẩn Mycobacterium tuberculosis, hay bệnh pellagra là do thiếu niacin. Nhưng sự bộc phát của bệnh truyền nhiễm có thể có nhiều yếu tố nguy cơ. Thế thì câu hỏi đặt ra là yếu tố nguy cơ liên quan đến bệnh tả là gì? Rất tiếc là cho đến nay, ở Việt Nam chưa có nhiều nghiên cứu về nguy cơ và qui mô bệnh dịch tả được công bố trên các diễn đàn y học quốc tế, nên chúng ta chưa biết rõ các yếu tố nguy cơ bệnh dịch tả ở nước ta là gì. Có khả năng có nghiên cứu công bố trên các tập san ở trong nước nên thông tin chưa phổ biến ra ngoài. Do đó, tôi dựa vào y văn nước ngoài để trình bày trong phần bàn về các yếu tố nguy cơ của bệnh dịch tả.
Kinh nghiệm từ các vụ bộc phát bệnh tả tại một số nước trên thế giới cung cấp cho chúng ta nhiều yếu tố nguy cơ đáng chú ý. Trong thời gian 2001 đến 2004, bệnh dịch tả bộc phát ở tỉnh Sistan-va-Baluchestan (Iran), và các nhà nghiên cứu Iran đã làm một việc có ý nghĩa: họ tiến hành nghiên cứu dịch tễ học để hệ thống hóa đặc điểm vùng bị nhiễm vi khuẩn và nhận dạng các yếu tố nguy cơ. Qua kết quả phân tích dữ liệu, các yếu tố nguy cơ được phát hiện bao gồm:
· uống nước và bia từ các hàng quán bên lề đường;
· không rửa tay sau khi đi tiêu hay đi tiểu;
· không rửa tay trước khi ăn uống;
· ăn thức ăn còn dư lại từ hôm trước; và
· uống nước giếng / sông không đun sôi.
Ngoài ra, kết quả của họ còn cho thấy đàn ông có nguy cơ mắc bệnh cao hơn phụ nữ đến 3,7 lần, và người mù chữ có nguy cơ mắc bệnh cao hơn người biết chữ khoảng 6 lần. Năm 1997, bệnh dịch tả bộc phát tại vài vùng ở Tanzania. Các nhà nghiên cứu tận dụng “cơ hội” này để tiến hành một nghiên cứu dịch tễ học và kết quả cung cấp cho chúng ta một số yếu tố nguy cơ có vẻ “gần” với những đặc điểm sinh sống ở nước ta:
· dự đám tang gần đây;
· nhà có vách làm bằng bùn;
· trần nhà không có tole hay ngói;
· không có cầu tiêu / nhà xí trong nhà;
· uống nước không đun sôi;
· tắm sông;
· ăn cá khô, tôm khô; và
· ăn rau cải sống (không nấu chín).
Kết quả trên một lần nữa cho thấy các yếu tố như nguồn nước uống, nhà xí, tắm sông là những yếu tố rất quan trọng có liên quan đến bệnh dịch tả. Chú ý trong danh sách “yếu tố nguy cơ” trên cũng khá phù hợp với một bản tin gần đây trên báo Tuổi Trẻ, mà theo đó, “Tại tỉnh Hải Dương (mới phát hiện có người mắc bệnh khoảng ba ngày nay) nhưng số bệnh nhân đã xấp xỉ 100 người, phần lớn trong số này cùng ăn cỗ tại một đám tang, với các thực phẩm truyền thống như thịt lợn, bò, giò chả.” Tất nhiên, dự đám tang không phải là nguyên nhân, nhưng chỉ là một yếu tố nguy cơ gián tiếp!
Và hệ quả …
Các lí giải trên tuy quan trọng, nhưng mang tính … hàn lâm. Hệ quả thực tế còn đáng quan tâm hơn. Do những phán xét vội vã của Bộ Y tế về mắm tôm trong thời gian qua, một bộ phận doanh nghiệp mắm tôm đã bị tổn thất về kinh tế. Theo Người lao động, ngày 19/12, 13 tấn mắm tôm lấy từ Thành phố Hồ Chí Minh đã được thiêu hủy. Điều đáng nói là việc làm này xảy ra sau khi các quan chức của Bộ Y tế xác nhận mắm tôm không phải là nguyên nhân gây bệnh tả. Điều đáng chú ý hơn nữa là các mẫu mắm tôm bị tịch thu này đã được xét nghiệm, về kết quả không thấy có mầm bệnh.
Do đó, việc thiêu hủy số lượng lớn mắm tôm như thế chẳng những không phù hợp với công văn của Bộ Y tế (trong đó có giải thích rõ rằng thiêu hủy chỉ áp dụng đối với sản phẩm mắm tôm đã được xác định ô nhiễm mầm bệnh, có liên quan đến truyền bệnh), mà còn thiếu nhất quán với các kết luận mới nhất của Bộ Y tế. Ai đứng ra bồi thường cho các doanh nghiệp bị ảnh hưởng? Và, cũng không một lời xin lỗi từ bất cứ một giới chức y tế nào.
Tưởng cần nhắc lại rằng trong y khoa, văn hóa xin lỗi đóng vai trò rất quan trọng trong mối liên hệ giữa công chúng, bác sĩ và giới chức y tế. Văn hóa xin lỗi đã được viết thành nhiều sách và là chủ đề nghiên cứu của giới y khoa từ năm mươi năm qua. Trong cuốn “Healing Words: The Power of Apology in Medicine” (cuốn sách thành loại “sách gối đầu giường” của các quan chức y tế bên Mĩ), hai tác giả bác sĩ Michael Woods và Jason Star cung cấp cho chúng ta nhiều trường hợp và ví dụ về ảnh hưởng của hành vi “xin lỗi” làm nền tảng cho văn hóa y khoa. Một lời xin lỗi chẳng những hàn gắn mối liên hệ giữa các thành viên trong xã hội (trong trường hợp này là giữa các quan chức y tế và công chúng), nhưng còn nâng cao mối liên hệ đến một tầm cao hơn.
Xin lỗi, do đó, không chỉ là một cách hành xử văn minh mà còn là một cách hành xử nhân văn rất cần thiết cho các quan chức và cơ quan y tế của nhà nước cũng như tư nhân. Ở Sydney vài năm trước đây, khi Bộ Y tế bang New South Wales do lỗi kĩ thuật để lộ hồ sơ cá nhân của bác sĩ trên mạng, và dù chưa gây thiệt hại đến ai, nhưng Bộ trưởng phải lên đài truyền hình, và qua báo chí cũng như internet xin lỗi thành khẩn. Khi thủ tướng Úc bị cảnh sát phạt vì ông không đeo dây nịch ngồi trên xe ôtô (do tài xế riêng của ông lái), nhưng ông cũng phải xin lỗi công chúng về sự sai sót rất cá nhân đó, và giới báo chí bình luận rằng một lời xin lỗi như thế làm cho quần chúng tin vào sự lãnh đạo của ông hơn.
Cần nghiên cứu và công bố quốc tế
Câu chuyện về sự bất đồng ý kiến về nguyên nhân bệnh tả làm tôi nhớ đến câu chuyện bệnh tả bên Anh vào thế kỉ 19. Vào khoảng giữa thế kỉ 19 ở London xảy ra ba nạn dịch tả với hàng chục ngàn người chết (vì lúc đó chưa có vắcxin chữa bệnh), các quan chức y tế thành phố London một mực tin rằng nạn dịch bộc phát là do “khí độc”. Bao nhiêu bằng chứng từ bác sĩ John Snow về mối liên hệ giữa nguồn nước bị ô nhiễm và bệnh tả đều bị bỏ ngoài tai. Vì tin vào giả thuyết khí độc, các quan chức y tế ra lệnh cho cán bộ y tế đến từng hộ trong vùng bị ảnh hưởng dịch tả để xem xét tình trạng vệ sinh, nhưng họ thấy tất cả các nhà đều sạch sẽ! Mãi đến khi bác sĩ John Snow đã qua đời vài năm, và qua sự phát hiện vi khuẩn tả Vibrio cholerae chính là nguyên nhân gây bệnh, các giới chức y tế Anh mới chịu công nhận giả thuyết ám khí là sai và John Snow đã đúng.
Ngày nay, ở nước ta có người tin vào “giả thuyết mắm tôm” để giải thích sự bộc phát của bệnh tả vào đầu tháng 10 vừa qua. Ai cũng có thể đề ra (và tin vào) giả thuyết, nhưng một giả thuyết chỉ mang tính khoa học nếu có dữ liệu khoa học làm cơ sở cho phát biểu. Dữ liệu phải được thu thập một cách có hệ thống từ những nghiên cứu lâm sàng, nghiên cứu dịch tễ học hay nghiên cứu cơ bản, chứ không phải những dữ liệu được phát biểu trên báo chí đại chúng mà không một chuyên gia nào có thể thẩm định tính khoa học của nó. Tất cả những ý kiến cá nhân, cho dù cá nhân là một giáo sư tiến sĩ, có giá trị khoa học thấp nhất trong hệ thống y học thực chứng (evidence-based medicine).
Nhìn lại y văn quốc tế, chúng ta dễ dàng nhận thấy dù đã có nhiều nạn dịch xảy ra ở nước ta trong quá khứ, nhưng dữ liệu từ Việt Nam trong kho tàng y khoa quốc tế còn cực kì khiêm tốn. Đó là hậu quả của văn hóa xuất bản (hay nói đúng hơn là “văn hóa không công bố quốc tế”) mà một số nhà khoa học nước ta vẫn còn quan niệm. Vì không có dữ liệu khoa học, chúng ta vẫn còn tranh luận trong sự bất định và trong tình trạng thiếu thông tin. Tình trạng thiếu thông tin dẫn đến một số phán xét thiếu chính xác, gây tổn thất cho một bộ phận doanh nghiệp, và làm suy giảm niềm tin của công chúng vào hệ thống quản lí y tế và thực phẩm của Nhà nước.
Trong y khoa xác định nguyên nhân bệnh là một việc làm rất khó khăn, nhưng đối với y tế cộng đồng xác định nguyên nhân một sự bộc phát bệnh càng khó khăn gấp bội. Điều này đúng, bởi vì trong lâm sàng chúng ta đối phó với một bệnh nhân, nhưng trong y tế cộng đồng chúng ta phải phân tích một quần thể, và quần thể thì lúc nào cũng phức tạp hơn một cá thể. Phân biệt được nguyên nhân và yếu tố nguy cơ có thể giúp cho chúng ta tránh khỏi những sai lầm trong chính sách y tế công cộng.
Như đã có lần phát biểu trước đây, trong một môi trường bất định của y học, chúng ta không thể loại bỏ những sai sót, nhưng chỉ có thể tối thiểu hóa sai sót bằng cách lí giải và áp dụng thông tin khoa học tốt hơn. Một cách xử lí sai sót sau khi đã xảy ra là ứng dụng văn hóa xin lỗi trong y khoa. Chúng ta vẫn nói “lời nói không mất tiền mua”, một lời xin lỗi về sai lầm trong quá khứ chẳng những có ảnh hưởng tích cực đến tâm lí và sự tin tưởng của công chúng đến cơ quan y tế, mà còn giúp nâng cao mối liên hệ giữa các quan chức y tế và công chúng.
Upload 12 Dec 2020