NGUYỄN VĂN TUẤN

Nguyên nhân bệnh tiêu chảy

Ykhoanet.com

Trong thời gian qua, báo chí và các quan chức y tế bàn nhiều về nguyên nhân của bệnh tiêu chảy cấp tính (mà báo chí ngày nay gọi là“tiêu chảy cấp nguy hiểm”).  Các bàn thảo này cho ấn tượng rằng ăn thịt chó hay mắm tôm là nguyên nhân của bệnh tiêu chảy cấp tính.  Nhưng sự thật có lẽ không đơn giản như thế.  Trong bài này, chúng tôi trình bày các thông tin đơn giản để bạn đọc hiểu được bệnh tốt hơn.

Bệnh danh

Thật ra, nhiều người trong y khoa rất ngạc nhiên với cụm từ “tiêu chảy cấp nguy hiểm”.  Có người nói rằng họ chưa bao giờ thấy bệnh danh này trong thời gian học ở trường y.  Chúng tôi không tìm thấy một bệnh danh tiếng Anh nào tương đương với “tiêu chảy cấp nguy hiểm” trong ICD-10. 

Chúng tôi tra Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê, Nxb Đà Nẵng 1998) thì thấy định nghĩa chữ cấp như sau: “mặt phẳng hẹp làm bậc để bước lên; loại hạng trong một hệ thống (xếp theo trình độ cao thấp, trên dưới; gấp, kíp (như việc cấp lắm)”. 

Quay sang định nghĩa “cấp tính” chúng tôi thấy Từ điển định nghĩa như sau: “(bệnh) ở trạng thái phát triển nhanh; trái với mãn tính”.

Như vậy, trong tiếng Việt, chữ cấp trong “tiêu chảy cấp nguy hiểm” là không chuẩn tiếng Việt.  Chúng tôi tự hỏi tại sao chúng ta không sử dụng “Tiêu chảy cấp tính” (mà tiếng Anh gọi là “acute diarrhea”) cho chuẩn?

Thỉnh thoảng chúng tôi thấy báo chí Việt Nam dịch cụm từ “tiêu chảy cấp nguy hiểm” sang tiếng Anh là “severe acute watery diarrhea” hay có khi là “severe acute diarrhea”, nhưng cách dịch này không đúng.  Chữ severe trong tiếng Anh có nhiều nghĩa nhưng không có nghĩa nào để dịch là nguy hiểm cả.  Thật ra, severe trong văn cảnh y khoa có nghĩa là nặng, nghiêm trọng, gay go. 

Do đó, trong bài này chúng tôi sử dụng cụm từ “tiêu chảy cấp tính” thay vì “tiêu chảy cấp”.

1.  Định nghĩa

Với thói quen ăn uống bình thường như ở nước ta (ba bữa ăn sáng, trưa, và chiều) một người bình thường bài tiết ra khoảng 100 đến 200 g phân.  Tần số đi tiêu có thể dao động từ 3 lần một ngày đến 3 lần một tuần.

Do đó, theo tiêu chuẩn lâm sàng, tiêu chảy được định nghĩa là sự gia tăng số lần đi tiêu trong một ngày (trên 3 lần), trọng lượng phân cao bài tiết trên 200 g/ngày.  Cụ thể hơn:

·        Người lớn: đi tiêu với phân bài tiết trên 200 g/ngày [1].

·        Trẻ em: đi tiêu với phân bài tiết trên 20 g/ngày.

·        Tiêu ra chất lỏng trong phân.

Bình thường, phân người chứa khoảng 60 đến 90% nước; nhưng người mắc bệnh tiêu chảy thì phân hàm chứa trên 90% nước.  Phân có thể chứa nhiều nước vì do chuyển hóa quá nhanh qua hệ thống tiêu hóa; nếu một thành phần của phân ngăn chận ruột già hấp thu nước, hay nếu nước bị thải bởi ruột già vào phân.  Theo qui luật thông thường, ruột có thể hấp thu một lượng nước lớn hơn lượng nước cần thiết mỗi ngày.  Tuy nhiên, khi khả năng dự trữ bị áp đảo (tràn ngập) thì tiêu chảy sẽ xảy ra.

Cần phải phân biệt tiêu chảy với chứng tiêu đùn (fecal incontinence) thường hay thấy ở những bệnh nhân với cơ chậu (pelvis muscle) yếu hay rối loạn ruột thẳng và hậu môn (anorectal dysfunction).  Người với chứng tiêu chảy giả (Pseudo-diarrhea hay hyperdefecation) cũng đi tiêu nhiều lần nhưng trọng lượng phân không tăng như thấy ở các bệnh nhân rối loạn đường ruột hay tăng năng tuyến giáp (hyperthyroidism).  

Bệnh tiêu chảy có thể phân loại theo thời gian mắc bệnh (cấp tính hay mãn tính), cơ chế bệnh (thấm lọc - osmotic hay bài tiết - secretory), độ nghiêm trọng (nhỏ hay lớn), hay đặc điểm của phân (nước, chất béo, hay có máu).  Trong thực hành lâm sàng, thời gian mắc bệnh và đặc điểm bệnh là hai yếu tố có ích nhất trong việc chẩn đoán và điều trị.

Tiêu chảy cấp tính được định nghĩa là tình trạng tiêu chảy kéo dài dưới 4 tuần (có nơi định nghĩa dưới 2 tuần).  Nếu tình trạng tiêu chảy kéo dài hơn 4 tuần, ca bệnh được xem là tiêu chảy mãn tính.  

Tiêu chảy thẩm thấu (osmotic diarrhea) là loại tiêu chảy do một loại dung dịch mà ruột không thể hấp thu hay tiếp thu rất khó, và từ đó gây áp lực thẩm thấu đến màng nhầy trong ruột, và hệ quả là bài thải nước thái quá.  Loại tiêu chảy này thường ngưng khi bệnh nhân ngưng ăn một thời gian ngắn.

Tiêu chảy xuất tiết (secretory diarrhea) là một sự rối loạn về chuyển tải ion trong các tế bào biểu mô của ruột làm gia tăng sự bài tiết, giảm hấp thu, hay cả hai.  Với loại tiêu chảy này, ngưng ăn không làm hết bệnh.  Một ví dụ cổ điển của tiêu chảy cấp tính bài tiết là bệnh tả, và các ca bệnh nhiễm vi khuẩn enterotoxigenic E coli (ETEC).  

2.  Khi nào cần đi gặp bác sĩ

Mặc dù tiêu chảy thường không nghiêm trọng và bệnh nhân tự hồi phục, nhưng trong trường hợp nghiêm trọng bệnh nhân cần phải đi gặp bác sĩ.  Những trường hợp sau đây cần đến tư vấn của bác sĩ:

  • Đi tiêu chảy hơn 3 ngày
  • Cảm thấy đau bụng hay đau ruột dữ dội
  • Nhiệt độ trong người trên 38 độ C  
  • Đi tiêu chảy có máu trong phân hay phân màu hắc ín
  • Dấu hiệu mất nước.

3.  Nguyên nhân

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tiêu chảy.  Một số nguyên nhân thông thường của tiêu chảy cấp tính là: nhiễm vi khuẩn, nhiễm trùng, ký sinh trùng, thuốc men, và rối loạn đường ruột.  Theo y văn, khoảng 30-40% ca tiêu chảy là do nhiễm vi khuẩn, 20-30% do nhiễm vi trùng (riêng E. coli O157 là nguyên nhân của khoảng 30% các ca tiêu chảy ra máu)

3.1  Tác nhân vi-rút

Nguyên nhân phổ biến nhất của tiêu chảy cấp tính là nhiễm vi rút.  Trường hợp này còn được biết đến như là viêm dạ dày ruột do virus (viral gastroenteritis) hay có vẻ văn hoa một chút là “cúm dạ dày” (stomach flu)!

Có nhiều loại vi rút có thể gây tiêu chảy cấp tính, thông thường là:

  • Rotavirus (thường là nguyên nhân tiêu chảy ở trẻ em)
  • Adenovirus
  • Caliciviruses
  • Astrovirus.

3.2  Tác nhân vi trùng

Một số vi trùng (hay còn gọi là “vi khuẩn”) có thể là nguyên nhân của tiêu chảy:

  • Staphylococcus aureus (S. aureus) – thường hay nhiễm các loại thịt đã qua xứ lí công nghệ và các loại bánh làm bằng sữa.
  • Clostridium perfringens – thường hay nhiễm các thực phẩm được hâm ấm.
  • Bacillus cereus – thường lây nhiễm  qua gạo và đậu, kể cả giá sống.
  • Salmonella – hay nhiễm trứng gà, trứng vịt và gia cầm. Sốt thương hàn thường do nhiễm trùng Salmonella typhi.
  • Shigella – vi khuẩn/trùng này là nguyên nhân của bệnh tiêu chảy thường được phát hiện trong các nhà giữa trẻ, các làng ở nông thôn.
  • Escherichia coli (E. coli) – hay nhiễm thịt chưa nấu chín; tuy nhiên, các trận dịch tiêu chảy E. coli thường liên quan đến giá sống, nước trái cây chưa qua diệt khuẩn theo phương pháp Pasteur, các loại nem chua, rau cải, và phó mát. 
  • Campylobacter jejuni – thường nhiễm chim, gà, vịt.  Vi khuẩn này thường được phát hiện ở các nhà có nuôi gia cầm.
  • Yersinia enterocolitica – một vi khuẩn/trùng gây nhiễm trùng Yersin (yersiniosis). Nhiễm trùng này thường xảy ra khi ăn thịt và sữa bị nhiễm trùng.
  • Vibrio parahaemolyticus – một loại nhiễm trùng thường do ăn đồ biển sống, nhất là hàu.
  • Vibrio cholerae – vi trùng/khuẩn gây bệnh tả, thường hay thấy ở các nước đang phát triển, và là hệ quả của nguồn nước bị ô nhiễm.

3.3  Ký sinh trùng

Ký sinh trùng có thể vào cơ thể chúng ta qua đường thực phẩm hay nước và “đóng đô” ở hệ thống tiêu hóa.  Các ký sinh trùng có thể gây tiêu chảy bao gồm:

  • Giardia lamblia – ký sinh trùng này thường làm ô nhiễm nguồn nước, Giardia còn là nguyên nhân phổ biến của bệnh tiêu chảy ở người đồng tính luyến ái.
  • Entamoeba histolytica – ký sinh trùng này lan truyền qua đường nước hay thực phẩm bị nhiễm phân người, nhưng cũng có thể do trực tiếp tiếp xúc qua tay dơ bẩn kể cả quan hệ tình dục.
  • Cryptosporidium – có thể lan truyền qua thực phẩm.  Nguy cơ thường cao hơn ở trẻ em hơn là người lớn.  Các loại rau sống trộn (salad) trồng bằng phân bón cũng là một nguồn lây truyền kí sinh trùng này.  Vì ký sinh trùng này có thể sống trong nước nên nước cũng có thể là nguồn lây lan.

3.4  Thuốc men

Có khá nhiều thuốc có thể gây ra tiêu chảy.  Một số thuốc thông thường là: 

  • Thuốc trụ sinh
  • Thuốc chống cao huyết áp
  • Nhuận tràng
  • Antacids chứa magnesium.

Một số chất hóa học khác cũng có thể gây bệnh tiêu chảy:

  • Rượu
  • Cà phê
  • Trà
  • Kẹo chewing gum không đường và bạc hà cũng có thể gây tiêu chảy

3.5  Bệnh

Buồn phiền, lo lắng, nhiễm trùng máu (sepsis), các bệnh truyền nhiễm liên quan đến sex, viêm tai, v.v… cũng có thể gây ra tiêu chảy.

Tham khảo:

[1] Soffer EE. Diarrhea. In: Andreoli TE, et al, eds. Cecil Essentials of Medicine. 5th ed. Philadelphia, WB Saunders, 2001:316-320.

 


200 năm Darwin
Agent Orange: collateral damage
Alexandre Yersin và Việt Nam
Bàn về hiệu quả vắcxin: lâm sàng và kinh tế
Bàn về vấn đề dịch thuật và đánh giá năng suất khoa học
Béo phì ở người Á châu
Béo phì ở trẻ em và virus
Bình luận từ Dr. Yến
Bưởi không gây ung thư vú
Bảo hiểm y tế cộng đồng
Bảo tồn môi sinh: Chiến tranh giữa hai thế giới
Bằng chứng khoa học thay vì lên lớp
Bệnh tả: không để Việt Nam thành Bangladesh thứ hai
Bệnh tật nhìn từ quan điểm của thuyết tiến hóa
Bệnh xơ hóa cơ delta qua y văn thế giới
Bổ sung kẽm và điều trị bệnh tả
Bộ gen trong cây lúa và triển vọng
Bộ Y tế phản ứng chậm với rét đậm
Chiều cao của người Việt
Chiều cao và tổng thống Mĩ
Cholesterol và bệnh Tim
Cholesterol: hung thần hay bạn?
Chuột và... các nhà khoa học
Chính sách y tế cần dựa vào bằng chứng khoa học
Chạy đua vũ khí và … dịch cúm
Chất béo, cholesterol, bệnh tim và statins: xét lại bằng chứng
Chất keo xã hội: hormones
Chất lượng nghiên cứu dịch tễ học và y tế cộng đồng của Việt Nam qua chỉ số H
Chất lượng nghiên cứu khoa học ở Việt Nam qua chỉ số trích dẫn
Chất vấn chuẩn chẩn đoán béo phì
Chế độ ăn uống với nhiều thịt động vật và nguy cơ tử vong
Chủng vi khuẩn tả hiện nay ở nước ta có phải mới xuất hiện?
Cuộc chiến hóa học phi pháp lớn nhất trong lịch sử chiến tranh
Câu chuyện y học: Leptin và béo phì
Có bao nhiêu bác sĩ viết chữ khó đọc
Có nên tập trung vào vi khuẩn E. coli ?
Có thể xảy ra đại dịch cúm gia cầm?
Công cụ đơn giản để chẩn đoán tiểu đường ở người Đông Nam Á
Cúm gia cầm và nhiễu thông tin
Cúm H1N1: biết và chưa biết
Cơ hội để khép lại một chương lịch sử đau lòng
Cần hiểu đúng về Ung thư và nguy cơ ung thư
Cần qui ước đạo đức cho kĩ nghệ thực phẩm
Cần tiêm chủng ngừa bệnh tả vùng có nguy cơ cao
Cần điều tra về chất lượng bệnh viện
Cổ phần hóa bệnh viện công và chất lượng
Cổ phần hóa: chưa phải cách duy nhất
DDT và vấn đề cân đối giữa lợi ích và nguy hiểm
Dinh dưỡng: một nguồn thuốc quí giá
DNA không nói dối, nhưng DNA có thể nói … sai
Dịch cúm gà: hoang mang và sự thật khoa học
Dịch cúm heo và tác hại kinh tế
Dịch tay-chân-miệng
Dịch tả: gọi đúng tên để phòng ngừa
Dựa vào khoa học, đừng dựa vào niềm tin!
E. coli – vài câu hỏi thông thường
Gen và bệnh tật
Ghen tuông dưới cái nhìn của tâm lí y khoa
Gian lận trong nghiên cứu khoa học: áp lực kinh tế và cơ chế bình duyệt
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC: KHƠI DẬY VÀ NUÔI DƯỠNG TÍNH HAM HỌC
Giải nobel y học hay sinh lí học 2007 và lợi ích cho người bệnh
Giải Nobel Y sinh học 2008 và những tranh chấp khoa học
Giải Nobel y sinh học 2010 vinh danh người đem niềm vui cho người vô sinh
Giải Nobel y sinh học năm 2005: Một cõi đi về với vi khuẩn
Giải Nobel y sinh học: Nhìn lại quãng đường 100 năm
Giải phẫu ghép mặt và vấn đề y đức
Gout ở xương sống
Gãy xương và tử vong: một vấn nạn y tế cộng đồng
Hiệu quả vắcxin có nghĩa gì?
Hoa vàng mấy độc
Hàm lượng đạm trong sữa “siêu thấp” hay “siêu cao”?
Hóa chất khai hoang trong cuộc chiến Viện Nam: Qui mô và tầm ảnh hưởng
Hướng đi nào để giải quyết vấn đề chất độc da cam ở Việt Nam
Hậu “mắm tôm được minh oan”: bằng chứng khoa học, nhà xí và nghiên cứu
Hệ Thống Học Vị Và Học Hàm Khoa Học Ở Vài Nước Tây Phương
Hợp tác khoa học kiểu nhảy dù - Nguyễn Văn Tuấn
Khi bác sĩ trẻ “khoe” quá nhiều
Khoa học và ngụy khoa học: một vài đặc điểm và khác biệt cần biết
Khoa học, xã hội, và rủi ro
Không thể thành Phù Đổng trong 20 năm!
Khẩu trang và phòng chống cúm A/H1N1
Kiểm định giả thuyết mắm tôm và vi khuẩn tả
Liều lượng melamine bao nhiêu là an toàn?
Lí lịch sinh học của heo và dấu vết văn minh nông nghiệp Đông Nam Á
Lượng giá mạng sống con người
Lợi ích của vitamin D
Miệng nhà quan
Mắm tôm có phải là “thủ phạm” gây bệnh tả? Xét lại bằng chứng khoa học
Mắm tôm và chuyện xin lỗi
Mắm tôm và dịch tả: phân biệt yếu tố nguy cơ và nguyên nhân
Mắm tôm vô tội!
Mắm tôm, nguyên nhân và hệ quả
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Một bệnh hiếm X-linked recessive hypoparathyroidism
Một lần đi phỏng vấn
Một năm nhìn lại
Một phán quyết thiếu cơ sở khoa học
Một vài hiểu lầm tai hại
Một vài ngộ nhận về nghiên cứu khoa học
Một vài vấn đề về qui định chức danh giáo sư ở Việt Nam
Một vụ Madoff trong y khoa: Lại một ngôi sao y khoa rơi rụng!
Mỡ trắng, mỡ nâu
Mỡ  trong máu, huyết áp, và  tiểu đường
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nguyên nhân bệnh tiêu chảy
Ngó trên tay điếu thuốc đã lụi dần
Người cao tuổi và sự hạn chế của y khoa
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Nhân chuyện dịch tả nhớ lại John Snow
Nhân câu chuyện điện não đồ xét nghiệm nghiện ma túy:
Nhân năm khỉ_nguồn gốc con người hiện đại
Nhân năm Tý bàn chuyện thí nghiệm trên chuột
Nhìn lại khoa học Việt Nam năm 2008 qua công bố quốc tế
Nhầm lẫn trong y khoa: Khá phổ biến, nhưng ít ai biết!
Những câu hỏi và trả lời về dịch gia cầm
Những sai sót khó tin nhưng có thật
Những sai sót nguy hiểm trong toa thuốc
Những điều khó tin về “Bảy điều khó tin nhất trong y học”
Năm lí do cho mắm tôm “vô tội”
Phán quyết sau cùng: Chất béo không ảnh hưởng đến ung thư và bệnh tim
Phát hiện gien kiểm soát ráy tai: vài bài học về mò kim đáy biển
Phòng chống bệnh phải dựa vào bằng chứng khoa học!
Phòng chống H1N1 bằng rửa tay và khẩu trang: Biện pháp nào hiệu quả hơn?
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao và cân nặng: thiếu cơ sở khoa học và kì thị giới tính
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao: vấn đề giả định và bằng chứng khoa học
Quyền phê phán và trí thức
Quyền được tiếp cận hồ sơ bệnh án
Quản lý chất lượng: Thuốc phòng "tai nạn y khoa"
Rửa tay bằng xà phòng và tiêu chảy
Serotonin có liên quan đến chứng đột tử
Suy dinh dưỡng ở trẻ em: vấn đề của kinh tế
Sàng lọc trẻ sơ sinh trên phạm vi toàn quốc
Tai nạn y khoa trong bệnh viện
Thế nào là một "bài báo khoa học"
Thế nào là “Cơ sở khoa học” ?
Thịt chó là nguyên nhân của bệnh tiêu chảy cấp tính?
Thịt chó và bệnh tả: nguyên nhân và yếu tố nguy cơ
Tiên lượng bệnh Alzheimer bằng protein expression ?
Tiêu chuẩn chất lượng giáo dục đại học
Tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì cho người Việt - Nguyễn Văn Tuấn
Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh đái tháo đường (diabetes mellitus)
Tiêu chuẩn đề bạt giáo sư: Có nên căn cứ vào số lượng bài báo ?
Tiêu chảy cấp tính và bệnh tả: Định danh cho đúng
Truy tìm ung thư bằng mammography từ tuổi 50
Truyền thông và khoa học: Qui ước Ingelfinger
Truyền thông và y tế
Truyền thông, khoa học và … doanh nghiệp
Trà xanh và sức khỏe
Trách nhiệm và nhân đạo trong vấn đề chất độc da cam
Trái chanh và phòng chống bệnh tả
Trả lời những câu hỏi liên quan đến loãng xương
Trọng lượng cơ thể và tử vong ở người Trung Quốc: Ý nghĩa về việc xác định tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì
Tuổi thọ của người dân giảm 10 năm ?
Tác dụng Placebo trong y học: Tâm lí và ý nghĩa
Tình yêu, sắc đẹp nhìn dưới quan điểm di truyền học
Tín hiệu môi trường từ những “làng ung thư”
Tính khoa học và minh bạch đằng sau xét nghiệm doping
Tại sao không phát biểu về nguyên nhân và hệ quả ?
Tại sao uống rượu gây đỏ mặt và nguy cơ ung thư thực quản
Tạo sinh vô tính và cái chết của Thượng đế
Tạo sinh vô tính và vấn đề sinh đạo đức
Tản mạn về SARS
Tỉ lệ tử vong do cúm heo là bao nhiêu ?
Tự trị, chất lượng và y đức thay vì cổ phần hóa bệnh viện công
Ung thư vú và vấn đề thông tin y khoa
Uống bia hấp dẫn muỗi
Vaccine phòng chống AIDS hiệu quả đến đâu ?
Vaccine phòng chống cúm A/H1N1
Vi khuẩn gây tiêu chảy và ý nghĩa tiêm chủng
Vi khuẩn tả trong chó ?
Viết văn có thể chữa nhiều loại bệnh
Viết văn và trị liệu
Việc ta, ta cứ làm!
Vài nhận xét về 12 điều lệ y đức của Việt Nam
Vài thông tin cần biết về các chương trình truy tìm ung thư vú
Vài đóng góp quan trọng của người Việt khoa học thống kê
Văn hóa khoa học
Văn hóa tranh luận và vấn đề ngụy biện
Vấn đề sinh tố: kẽm và đồng
Vấn đề truy tìm ung thư phổi và hiệu quả 
Vấn đề y đức trong nghiên cứu tế bào mầm (stem cells)
Vấn đề đo lường melamine
Vấn đề đào tạo tiến sĩ: kinh nghiệm từ Australia
Vắc-xin phòng chống ung thư cổ tử cung
Vắcxin ngừa viêm gan B: cẩn thận với “nhiễu thông tin”
Vắcxin ngừa viêm gan B: kinh nghiệm từ nước ngoài
Vắcxin phòng bệnh sởi - quai bị - Rubella: lợi và hại
Vắcxin phòng chống ung thư cổ tử cung: hiệu quả lâm sàng và kinh tế
Vắcxin phòng ngừa bệnh tả: rất cần thiết
Về chấn chỉnh đào tạo tiến sĩ: Công bố bài báo khoa học là một thách thức lớn ?
Về học vị tiến sĩ
Về một sự hiểu lầm thuật ngữ "prospective"
Về phản ứng phụ của bisphosphonates liên quan đến hoại tử xương hàm và rung nhĩ
Vệ sinh như là một loại hàng hóa
Vị thế của nền khoa học Việt Nam
Xung quang xì căng đan về nghiên cứu tế bào mầm
Xã hội hóa và an toàn thực phẩm
Xếp hạng đại học: cần minh bạch hóa phương pháp
Y học hiện đại và những hứa hẹn
Y học thực chứng: vài nét khái quát
Y Khoa và những nhầm lẫn chết người
Y tế dự phòng: nền tảng của y khoa hiện đại
Y đức và nghiên cứu y học
Ói mửa, cao huyết áp và hôn mê
Ăn chay như là một trị liệu
Ăn chay và loãng xương
Điều trị bệnh dựa vào màu da ?
Điều trị đau dây thần kinh tọa bằng phẫu thuật: không có hiệu quả
Đo lường hiệu suất khoa học
Đánh giá đúng tầm quan trọng của ung thư vú 
Đại dịch H1N1
Đại dịch và đại dịch ảo
Đại dịch đã đến ?
Đạo văn trong hoạt động khoa học
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đằng sau những con số hàm lượng đạm trong sữa
Đế quốc Trà
Đề bạt các chức danh khoa bảng: vài kinh nghiệm từ Úc
Đọc lại 12 điều y đức của Việt Nam
Đồi điều về sữa nhiễm melamine
Đừng quên melamine trong các thực phẩm khác!
Ước vọng 200 ?
“Kỹ năng mềm” cho nhà khoa học
“Sẽ” và “có thể”


Trang nhiều tác giả
Trang riêng của Lê Ngọc Dũng
Trang riêng của Lương Lễ Hoàng
Trang riêng của Nguyễn Bảo Trung
Trang riêng của Nguyễn Hoài Nam
Trang riêng của Nguyễn Hữu Đức
Trang riêng của Nguyễn Văn Tuấn
Trang riêng của Nguyễn Ý Đức
Trang riêng của Nguyễn Đình Nguyên
Trang riêng của Phan Xuân Trung
Trang riêng của Đỗ Hồng Ngọc
Trang riêng của Đỗ Minh Tuấn