NGUYỄN VĂN TUẤN

Có thể xảy ra đại dịch cúm gia cầm?

05-11-2005 08:23:33 GMT +7

Các chuyên gia hàng đầu trên thế giới về bệnh truyền nhiễm, virus học nhấn mạnh rằng một đại dịch do virus H5N1 gây ra khó có khả năng xảy ra. Và nhận định: Một đại dịch xảy ra vào năm nay hay năm tới là không tưởng

"Dịch cúm gà” đã trở thành một danh từ phổ biến ở nước ta, nhưng sự thật thì con gà bị “oan” ở đây bởi vì bệnh cúm không chỉ tìm thấy ở gà, mà còn ở chim, vịt, heo, thậm chí cọp (như vừa phát hiện bên Thái Lan). Giới khoa học Tây phương gọi là “avian flu”, có nghĩa là “cúm chim”. Theo tôi có lẽ nên dùng một danh từ chính xác hơn: dịch cúm gia cầm.

Ba nhóm virus cúm

Thời gian gần đây, thông tin về dịch gia cầm càng ngày càng lan rộng và gây ra không ít hoang mang trong quần chúng. Đầu năm nay, người phát ngôn của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) cho biết: “Chúng ta không biết con số tử vong sẽ là bao nhiêu, nhưng chúng ta có thể tiên đoán rằng con số sẽ rất cao, và có thể ảnh hưởng đến nền kinh tế toàn cầu. Thị trường chứng khoán có thể sẽ bị đóng cửa. Việc đi lại giữa các nước sẽ bị hạn chế”. Hai tuần trước, Tổng thống George W. Bush, một người chẳng mấy mặn mà gì với khoa học, cũng cố gắng thu xếp thì giờ họp với một nhóm khoa học gia để thảo luận kế hoạch sản xuất vắc-xin phòng chống cúm gia cầm.

Thực hư của vấn đề dịch cúm gia cầm phải dựa vào sự thật khoa học, chứ chắc chắn không thể tìm thấy trong các bản tin trên các hệ thống truyền thông quốc tế, dù là trích dẫn ý kiến từ các chuyên gia hay giáo sư đại học. Thật ra, những ý kiến của chuyên gia, dù là chuyên gia hàng đầu, có giá trị khoa học thấp nhất trong các loại bằng chứng y học. Thành ra, trước những hoang mang và bất định như trên, có lẽ chúng ta cần bình tĩnh xem qua vài sự thật khoa học để đi đến nhìn vấn đề một cách - hy vọng là - hợp lý hơn.

Có 3 nhóm virus cúm được gọi tắt là nhóm A, B và C. Các virus thuộc nhóm C thường tìm thấy trong con người nhưng chúng không có tác hại lớn, ngoại trừ gây ra vài rối loạn cấp tính đường hô hấp, khả năng gây tử vong cho bệnh nhân cực thấp. Các virus trong nhóm B (cũng hay thấy trong con người) có thể nguy hiểm hơn, vì thỉnh thoảng chúng có thể gây nên một nạn dịch, và nạn nhân thường là trẻ em. Nhưng các virus thuộc nhóm A là đáng gờm hơn hết, bởi vì chúng có thể đột biến một cách nhanh chóng thành những virus có khả năng kháng nguyên (antigenic), có nghĩa là chúng có thể tiến hóa thành những virus mà hệ thống miễn nhiễm của con người không nhận ra được (và không có khả năng phòng chống).

Virus đang lan hành hiện nay là H5N1 thuộc nhóm virus A. Sở dĩ có mẫu tự H và N là vì cấu trúc sinh học của virus gồm có 2 nhóm protein: hemagglutinin (H) và neuraminidase (N). H có 15 chi với mã danh H1 đến H15. N có 9 chi với mã danh N1 đến N9. Virus H5N1 là một trong tất cả 45 virus thuộc nhóm này. Virus H5N1 có thể biến hóa thành virus khác cùng nhóm, nhưng khả năng biến hóa đó chúng ta vẫn chưa biết ra sao.

Virus thuộc chi H1, H2 và H3 đã được biết có lưu truyền trong con người từ 100 năm qua, và do đó chúng ta có thuốc phòng chống chúng. Nhưng virus H5 thì vẫn còn là một “kẻ thù” xa lạ đối với hệ thống miễn nhiễm của con người, và hiện nay chúng ta chưa có thuốc phòng chống cụ thể. Những thuốc như tamiflu chỉ phòng chống cúm nhóm H2 và H3 là chủ yếu, và nghiên cứu lâm sàng cho thấy hiệu quả của thuốc này - nói một cách thành thật - cũng chẳng mấy cao.

Ba điều kiện để xảy ra đại dịch cúm

Dư luận quần chúng hoang mang xoay quanh câu hỏi trên, vì một cơn đại dịch cúm do virus nhóm A gây ra có thể làm chết hàng triệu người. Chẳng những làm chết người mà dịch cúm trong bối cảnh toàn cầu hóa còn làm tổn hại đến kinh tế quốc gia và kinh tế thế giới.

Có 3 điều kiện để một virus có thể gây ra một đại dịch toàn cầu: điều kiện thứ nhất là virus đó phải có khả năng đột biến thành một virus mới; điều kiện thứ hai là virus phải có khả năng tái tạo hay đột biến một khi xâm nhập vào cơ thể con người; và điều kiện thứ ba là virus phải có khả năng truyền nhiễm giữa con người.

Về điều kiện thứ nhất, có thể nói virus H5N1 đã hội đủ điều kiện. Virus này đã gây bệnh cho hàng triệu chim và gia cầm trong vùng Đông Nam Á. Thoạt đầu H5N1 gây ra vài triệu chứng không mấy nghiêm trọng cho gia cầm, nhưng sau đó virus tiến hóa nhanh chóng và trở nên nguy hiểm hơn và tỉ lệ tử vong trong gà bị nhiễm lên đến 100%! Cũng có khả năng virus H5N1 lây truyền từ gia cầm sang con người, nhất là những người trực tiếp tiếp xúc với gia cầm. Đại đa số nạn nhân chết vì bị nhiễm (hay nghi ngờ bị nhiễm) virus H5N1 thường là những nông dân trong các nông trại hay thường xuyên đụng chạm với gà, vịt hằng ngày. Cũng cần nhắc lại rằng nạn dịch năm 1918 ở Tây Ban Nha cho thấy virus H1N1 cũng bắt đầu nhiễm gia cầm và từ đó lây truyền sang con người.

Về điều kiện thứ hai, hiện nay chúng ta đã có bằng chứng sơ khởi cho thấy virus H5N1 có thể gây tử vong cho con người. Theo thống kê của WHO, cho đến nay, đã có 117 trường hợp bệnh nhân bị nhiễm virus H5N1, và trong số này 60 người đã không may chết vì tiếp xúc (hay tình nghi có tiếp xúc) với virus. Tuy số liệu trên cho thấy nguy cơ tử vong từ virus H5N1 khá cao, nhưng trong thực tế nguy cơ có lẽ thấp hơn nhiều, bởi vì có thể có nhiều trường hợp tử vong vì vi khuẩn và thiếu thuốc kháng sinh (chứ không phải do H5N1 trực tiếp gây ra), và cũng không thể loại trừ khả năng có nhiều trường hợp bị nhiễm nhẹ nhưng không được báo cáo.

Về điều kiện thứ ba, cho đến nay chúng ta vẫn chưa có bằng chứng gì cho thấy virus H5N1 truyền từ người sang người. Các chuyên gia bệnh truyền nhiễm vẫn chưa thể kết luận gì về nguy cơ truyền nhiễm giữa con người có xảy ra hay không, và nếu xảy ra thì tần suất sẽ là bao nhiêu.

Nói tóm lại, trong 3 điều kiện cho một nạn dịch lớn, virus H5N1 chỉ mới hội đủ 1,5 điều kiện. Do đó, có thể nói rằng những tiên đoán về một nạn dịch lớn xảy ra trong năm nay hay năm tới với hàng triệu người sẽ chết xem ra không có cơ sở khoa học vững vàng. Các chuyên gia hàng đầu về bệnh truyền nhiễm và virus học hàng đầu thế giới nhấn mạnh rằng một nạn dịch H5N1 sẽ khó có khả năng xảy ra trong năm nay. Họ cũng nhất trí rằng một cơn đại dịch xảy ra vào năm nay hay năm tới là không tưởng.

Ngừa bệnh hơn chữa bệnh

Tuy khả năng về một cơn đại dịch xảy ra trong năm tới rất thấp, nhưng trong thực tế, không ai có thể tiên đoán chính xác được tương lai, và sự thật về khả năng đột biến của H5N1 là một mối quan tâm lớn. Có thể nghĩ đến 3 tình huống trong tương lai: một là H5N1 sẽ tiến hóa (hay đột biến) để có khả năng lan truyền từ người sang người qua hòa nhập với các virus khác trong con người; hai là qua đường truyền nhiễm (khi con người bị bệnh truyền nhiễm, virus H5N1 có thể đột biến để thích nghi với cơ thể con người); và ba là H5N1 có thể trở nên trung hòa với cơ thể con người. Trong 3 tình huống, virus H5N1 đều có thể trở nên một tác nhân gây bệnh nguy hiểm. Thành ra, đứng trên quan điểm y tế công cộng, phòng bệnh vẫn hơn là chữa bệnh. Vì thế một số chiến lược sau đây cần phải được đề ra và thảo luận.

Thứ nhất là vắc-xin. Bản chất của cúm gia cầm là truyền nhiễm, do đó, vắc-xin là một biện pháp hàng đầu và hữu hiệu nhất ở mức độ cộng đồng. Trong quá khứ, chính vì thiếu vắc-xin, cho nên con số tử vong vì các nạn dịch lên đến hàng triệu. Tuần vừa qua, các nhà khoa học Việt Nam tuyên bố đã sản xuất thành công vắc-xin phòng chống H5N1, và đó là một tin mừng, một phát triển rất tích cực. Hiện nay, Việt Nam đang tích cực theo chiều hướng phòng ngừa bằng vắc-xin, và đó là một đường hướng hoàn toàn hợp lý. Ở Úc, các giới chức y tế đang có kế hoạch chích ngừa vắc-xin cho toàn dân (20 triệu người), nhưng ở nước ta, một kế hoạch quy mô như thế tốn kém rất nhiều, do đó có thể tập trung công tác vắc-xin phòng ngừa ở các đối tượng có nguy cơ cao như trẻ em và người có tuổi.

Thứ hai là tăng cường trữ lượng thuốc chống virus. Hiện nay, có 2 loại thuốc được xem là có khả năng phòng chống virus hữu hiệu: đó là M2 ion channel blockers (tức amatadine và rimantadine), và NA inhibitors (như zanamivir và oseltamivir). Thuốc amatadine và rimantadine có hiệu năng ngăn chặn hoạt động protein M2 trong hầu hết virus cúm. Còn thuốc zanamivir và oseltamivir thì có hiệu năng làm vô hiệu hóa khả năng tái biến của virus cúm trong khi bệnh nhân bị bệnh truyền nhiễm, và qua đó làm cho virus không có cơ hội xâm nhập vào các tế bào khác của cơ thể.

Thứ ba là cần phải tăng cường truy tìm các trường hợp bị nhiễm virus H5N1. Một biện pháp có lẽ hữu hiệu nhất là phát hiện bệnh nhân kịp thời để cách ly bệnh nhân trước khi lan truyền sang người khác. Theo tôi, nên phát động một chương trình thử nghiệm nước bọt hay thử máu của các bệnh nhân có những triệu chứng liên quan đến nhiễm virus cúm tại tất cả các bệnh viện trong cả nước.

Thứ tư là tăng cường hợp tác quốc tế. Thật ra các trung tâm y tế ở nước ta đã và đang hợp tác với các tổ chức y tế thế giới. Nhưng cũng cần tăng cường hợp tác nghiên cứu với các nước có kinh nghiệm về phòng chống dịch cúm như Thụy Sĩ, Úc, Mỹ và Pháp. Vấn đề phòng chống cúm gia cầm, do đó, không chỉ hạn chế trong các nước Á châu hay nước ta, mà các nước Tây phương cũng phải chứng tỏ họ nên có trách nhiệm hợp tác và giúp đỡ các nước nghèo khó như nước ta.

Không nên hoảng hốt !

Xu hướng đưa tin về dịch cúm gia cầm làm cho thế giới hốt hoảng. Một số người đã vội vàng tuyên bố một cơn đại dịch sẽ xảy ra nay mai với hàng trăm triệu người chết. Theo tôi, đó là một tiên đoán quá vội vàng và thiếu cơ sở khoa học, bởi vì không ai biết trước nạn dịch sẽ bùng phát hay được khống chế như thế nào; không ai biết được có bao nhiêu người bị ảnh hưởng. Tuy nhiên, chúng ta biết rằng y học thế kỷ 21 khác với y học đầu thế kỷ 20. Việc so sánh về khả năng dịch cúm gia cầm H5N1 với nạn dịch năm 1918 ở Tây Ban Nha có vẻ gượng ép vì không đúng chỗ. Vào thời đó (năm 1918) Âu châu đang bị suy yếu kinh tế sau 4 năm chiến tranh, và việc phát triển các phương tiện cấp cứu cũng như vắc-xin chống cúm rất hạn chế.

Trường hợp bệnh SARS là một ví dụ gần nhất nhưng mang tính cổ điển nhất. Khi bệnh SARS được phát hiện vào năm ngoái, WHO và một số chính phủ Tây phương tiên đoán sẽ có hàng triệu người chết và nền kinh tế toàn cầu sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Nhưng cho đến nay, thống kê cho thấy chưa đến 800 người không may bị chết trong số 8.400 người bị bệnh SARS. Con số tử vong tuy thấp nhưng vẫn là một sự mất mát lớn, nhưng không thể nói đó là một đại dịch được.

Nên nhớ rằng dịch cúm gia cầm chưa phải là một vấn nạn, bởi vì so với các cúm khác thì cúm gia cầm chỉ là một vấn đề nhỏ. Mỗi năm có khoảng 250.000 đến 500.000 người chết vì bệnh cúm trên thế giới; khoảng 1 triệu đến 2,7 triệu người, phần lớn ở Phi châu, chết vì bệnh sốt rét; ngay cả bệnh lao (vâng, bệnh lao) vẫn giết chết gần 2 triệu người hằng năm, và 98% những người chết vì lao sống trong các nước đang phát triển; tai nạn giao thông (kể cả tai nạn xe, tàu) giết chết 300.000 người Á châu hằng năm, v.v... Phải đặt vấn đề cúm gia cầm trong bối cảnh như thế để chúng ta nhận thức rằng chúng ta còn nhiều vấn đề lớn và nghiêm trọng khác.

Virus và bệnh tật đã, đang và sẽ tồn tại cùng chúng ta trong cuộc sống; chúng ta không có cách nào loại trừ chúng hoàn toàn. Vấn đề không phải là tìm cách loại trừ chúng (vì không thể làm được), nhưng phải học cách sống với chúng một cách sáng suốt. Có khi chúng ta phải chấp nhận một mức độ nguy hiểm của cuộc sống đa chiều. Mức độ nguy hiểm có thể chấp nhận được tùy thuộc vào nhận thức của từng cá nhân, và trong trường hợp này, lý trí là một phương tiện không thể thiếu được trong cuộc sống mới. Nhận thức về những rủi ro như dịch cúm gia cầm là một điều cần thiết. Nhưng nhận thức như thế là để chúng ta biết những điều không nên hành động, chứ không phải để hốt hoảng.

N.V.T


200 năm Darwin
Agent Orange: collateral damage
Alexandre Yersin và Việt Nam
Bàn về hiệu quả vắcxin: lâm sàng và kinh tế
Bàn về vấn đề dịch thuật và đánh giá năng suất khoa học
Béo phì ở người Á châu
Béo phì ở trẻ em và virus
Bình luận từ Dr. Yến
Bưởi không gây ung thư vú
Bảo hiểm y tế cộng đồng
Bảo tồn môi sinh: Chiến tranh giữa hai thế giới
Bằng chứng khoa học thay vì lên lớp
Bệnh tả: không để Việt Nam thành Bangladesh thứ hai
Bệnh tật nhìn từ quan điểm của thuyết tiến hóa
Bệnh xơ hóa cơ delta qua y văn thế giới
Bổ sung kẽm và điều trị bệnh tả
Bộ gen trong cây lúa và triển vọng
Bộ Y tế phản ứng chậm với rét đậm
Chiều cao của người Việt
Chiều cao và tổng thống Mĩ
Cholesterol và bệnh Tim
Cholesterol: hung thần hay bạn?
Chuột và... các nhà khoa học
Chính sách y tế cần dựa vào bằng chứng khoa học
Chạy đua vũ khí và … dịch cúm
Chất béo, cholesterol, bệnh tim và statins: xét lại bằng chứng
Chất keo xã hội: hormones
Chất lượng nghiên cứu dịch tễ học và y tế cộng đồng của Việt Nam qua chỉ số H
Chất lượng nghiên cứu khoa học ở Việt Nam qua chỉ số trích dẫn
Chất vấn chuẩn chẩn đoán béo phì
Chế độ ăn uống với nhiều thịt động vật và nguy cơ tử vong
Chủng vi khuẩn tả hiện nay ở nước ta có phải mới xuất hiện?
Cuộc chiến hóa học phi pháp lớn nhất trong lịch sử chiến tranh
Câu chuyện y học: Leptin và béo phì
Có bao nhiêu bác sĩ viết chữ khó đọc
Có nên tập trung vào vi khuẩn E. coli ?
Có thể xảy ra đại dịch cúm gia cầm?
Công cụ đơn giản để chẩn đoán tiểu đường ở người Đông Nam Á
Cúm gia cầm và nhiễu thông tin
Cúm H1N1: biết và chưa biết
Cơ hội để khép lại một chương lịch sử đau lòng
Cần hiểu đúng về Ung thư và nguy cơ ung thư
Cần qui ước đạo đức cho kĩ nghệ thực phẩm
Cần tiêm chủng ngừa bệnh tả vùng có nguy cơ cao
Cần điều tra về chất lượng bệnh viện
Cổ phần hóa bệnh viện công và chất lượng
Cổ phần hóa: chưa phải cách duy nhất
DDT và vấn đề cân đối giữa lợi ích và nguy hiểm
Dinh dưỡng: một nguồn thuốc quí giá
DNA không nói dối, nhưng DNA có thể nói … sai
Dịch cúm gà: hoang mang và sự thật khoa học
Dịch cúm heo và tác hại kinh tế
Dịch tay-chân-miệng
Dịch tả: gọi đúng tên để phòng ngừa
Dựa vào khoa học, đừng dựa vào niềm tin!
E. coli – vài câu hỏi thông thường
Gen và bệnh tật
Ghen tuông dưới cái nhìn của tâm lí y khoa
Gian lận trong nghiên cứu khoa học: áp lực kinh tế và cơ chế bình duyệt
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC: KHƠI DẬY VÀ NUÔI DƯỠNG TÍNH HAM HỌC
Giải nobel y học hay sinh lí học 2007 và lợi ích cho người bệnh
Giải Nobel Y sinh học 2008 và những tranh chấp khoa học
Giải Nobel y sinh học 2010 vinh danh người đem niềm vui cho người vô sinh
Giải Nobel y sinh học năm 2005: Một cõi đi về với vi khuẩn
Giải Nobel y sinh học: Nhìn lại quãng đường 100 năm
Giải phẫu ghép mặt và vấn đề y đức
Gout ở xương sống
Gãy xương và tử vong: một vấn nạn y tế cộng đồng
Hiệu quả vắcxin có nghĩa gì?
Hoa vàng mấy độc
Hàm lượng đạm trong sữa “siêu thấp” hay “siêu cao”?
Hóa chất khai hoang trong cuộc chiến Viện Nam: Qui mô và tầm ảnh hưởng
Hướng đi nào để giải quyết vấn đề chất độc da cam ở Việt Nam
Hậu “mắm tôm được minh oan”: bằng chứng khoa học, nhà xí và nghiên cứu
Hệ Thống Học Vị Và Học Hàm Khoa Học Ở Vài Nước Tây Phương
Hợp tác khoa học kiểu nhảy dù - Nguyễn Văn Tuấn
Khi bác sĩ trẻ “khoe” quá nhiều
Khoa học và ngụy khoa học: một vài đặc điểm và khác biệt cần biết
Khoa học, xã hội, và rủi ro
Không thể thành Phù Đổng trong 20 năm!
Khẩu trang và phòng chống cúm A/H1N1
Kiểm định giả thuyết mắm tôm và vi khuẩn tả
Liều lượng melamine bao nhiêu là an toàn?
Lí lịch sinh học của heo và dấu vết văn minh nông nghiệp Đông Nam Á
Lượng giá mạng sống con người
Lợi ích của vitamin D
Miệng nhà quan
Mắm tôm có phải là “thủ phạm” gây bệnh tả? Xét lại bằng chứng khoa học
Mắm tôm và chuyện xin lỗi
Mắm tôm và dịch tả: phân biệt yếu tố nguy cơ và nguyên nhân
Mắm tôm vô tội!
Mắm tôm, nguyên nhân và hệ quả
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Một bệnh hiếm X-linked recessive hypoparathyroidism
Một lần đi phỏng vấn
Một năm nhìn lại
Một phán quyết thiếu cơ sở khoa học
Một vài hiểu lầm tai hại
Một vài ngộ nhận về nghiên cứu khoa học
Một vài vấn đề về qui định chức danh giáo sư ở Việt Nam
Một vụ Madoff trong y khoa: Lại một ngôi sao y khoa rơi rụng!
Mỡ trắng, mỡ nâu
Mỡ  trong máu, huyết áp, và  tiểu đường
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nguyên nhân bệnh tiêu chảy
Ngó trên tay điếu thuốc đã lụi dần
Người cao tuổi và sự hạn chế của y khoa
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Nhân chuyện dịch tả nhớ lại John Snow
Nhân câu chuyện điện não đồ xét nghiệm nghiện ma túy:
Nhân năm khỉ_nguồn gốc con người hiện đại
Nhân năm Tý bàn chuyện thí nghiệm trên chuột
Nhìn lại khoa học Việt Nam năm 2008 qua công bố quốc tế
Nhầm lẫn trong y khoa: Khá phổ biến, nhưng ít ai biết!
Những câu hỏi và trả lời về dịch gia cầm
Những sai sót khó tin nhưng có thật
Những sai sót nguy hiểm trong toa thuốc
Những điều khó tin về “Bảy điều khó tin nhất trong y học”
Năm lí do cho mắm tôm “vô tội”
Phán quyết sau cùng: Chất béo không ảnh hưởng đến ung thư và bệnh tim
Phát hiện gien kiểm soát ráy tai: vài bài học về mò kim đáy biển
Phòng chống bệnh phải dựa vào bằng chứng khoa học!
Phòng chống H1N1 bằng rửa tay và khẩu trang: Biện pháp nào hiệu quả hơn?
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao và cân nặng: thiếu cơ sở khoa học và kì thị giới tính
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao: vấn đề giả định và bằng chứng khoa học
Quyền phê phán và trí thức
Quyền được tiếp cận hồ sơ bệnh án
Quản lý chất lượng: Thuốc phòng "tai nạn y khoa"
Rửa tay bằng xà phòng và tiêu chảy
Serotonin có liên quan đến chứng đột tử
Suy dinh dưỡng ở trẻ em: vấn đề của kinh tế
Sàng lọc trẻ sơ sinh trên phạm vi toàn quốc
Tai nạn y khoa trong bệnh viện
Thế nào là một "bài báo khoa học"
Thế nào là “Cơ sở khoa học” ?
Thịt chó là nguyên nhân của bệnh tiêu chảy cấp tính?
Thịt chó và bệnh tả: nguyên nhân và yếu tố nguy cơ
Tiên lượng bệnh Alzheimer bằng protein expression ?
Tiêu chuẩn chất lượng giáo dục đại học
Tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì cho người Việt - Nguyễn Văn Tuấn
Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh đái tháo đường (diabetes mellitus)
Tiêu chuẩn đề bạt giáo sư: Có nên căn cứ vào số lượng bài báo ?
Tiêu chảy cấp tính và bệnh tả: Định danh cho đúng
Truy tìm ung thư bằng mammography từ tuổi 50
Truyền thông và khoa học: Qui ước Ingelfinger
Truyền thông và y tế
Truyền thông, khoa học và … doanh nghiệp
Trà xanh và sức khỏe
Trách nhiệm và nhân đạo trong vấn đề chất độc da cam
Trái chanh và phòng chống bệnh tả
Trả lời những câu hỏi liên quan đến loãng xương
Trọng lượng cơ thể và tử vong ở người Trung Quốc: Ý nghĩa về việc xác định tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì
Tuổi thọ của người dân giảm 10 năm ?
Tác dụng Placebo trong y học: Tâm lí và ý nghĩa
Tình yêu, sắc đẹp nhìn dưới quan điểm di truyền học
Tín hiệu môi trường từ những “làng ung thư”
Tính khoa học và minh bạch đằng sau xét nghiệm doping
Tại sao không phát biểu về nguyên nhân và hệ quả ?
Tại sao uống rượu gây đỏ mặt và nguy cơ ung thư thực quản
Tạo sinh vô tính và cái chết của Thượng đế
Tạo sinh vô tính và vấn đề sinh đạo đức
Tản mạn về SARS
Tỉ lệ tử vong do cúm heo là bao nhiêu ?
Tự trị, chất lượng và y đức thay vì cổ phần hóa bệnh viện công
Ung thư vú và vấn đề thông tin y khoa
Uống bia hấp dẫn muỗi
Vaccine phòng chống AIDS hiệu quả đến đâu ?
Vaccine phòng chống cúm A/H1N1
Vi khuẩn gây tiêu chảy và ý nghĩa tiêm chủng
Vi khuẩn tả trong chó ?
Viết văn có thể chữa nhiều loại bệnh
Viết văn và trị liệu
Việc ta, ta cứ làm!
Vài nhận xét về 12 điều lệ y đức của Việt Nam
Vài thông tin cần biết về các chương trình truy tìm ung thư vú
Vài đóng góp quan trọng của người Việt khoa học thống kê
Văn hóa khoa học
Văn hóa tranh luận và vấn đề ngụy biện
Vấn đề sinh tố: kẽm và đồng
Vấn đề truy tìm ung thư phổi và hiệu quả 
Vấn đề y đức trong nghiên cứu tế bào mầm (stem cells)
Vấn đề đo lường melamine
Vấn đề đào tạo tiến sĩ: kinh nghiệm từ Australia
Vắc-xin phòng chống ung thư cổ tử cung
Vắcxin ngừa viêm gan B: cẩn thận với “nhiễu thông tin”
Vắcxin ngừa viêm gan B: kinh nghiệm từ nước ngoài
Vắcxin phòng bệnh sởi - quai bị - Rubella: lợi và hại
Vắcxin phòng chống ung thư cổ tử cung: hiệu quả lâm sàng và kinh tế
Vắcxin phòng ngừa bệnh tả: rất cần thiết
Về chấn chỉnh đào tạo tiến sĩ: Công bố bài báo khoa học là một thách thức lớn ?
Về học vị tiến sĩ
Về một sự hiểu lầm thuật ngữ "prospective"
Về phản ứng phụ của bisphosphonates liên quan đến hoại tử xương hàm và rung nhĩ
Vệ sinh như là một loại hàng hóa
Vị thế của nền khoa học Việt Nam
Xung quang xì căng đan về nghiên cứu tế bào mầm
Xã hội hóa và an toàn thực phẩm
Xếp hạng đại học: cần minh bạch hóa phương pháp
Y học hiện đại và những hứa hẹn
Y học thực chứng: vài nét khái quát
Y Khoa và những nhầm lẫn chết người
Y tế dự phòng: nền tảng của y khoa hiện đại
Y đức và nghiên cứu y học
Ói mửa, cao huyết áp và hôn mê
Ăn chay như là một trị liệu
Ăn chay và loãng xương
Điều trị bệnh dựa vào màu da ?
Điều trị đau dây thần kinh tọa bằng phẫu thuật: không có hiệu quả
Đo lường hiệu suất khoa học
Đánh giá đúng tầm quan trọng của ung thư vú 
Đại dịch H1N1
Đại dịch và đại dịch ảo
Đại dịch đã đến ?
Đạo văn trong hoạt động khoa học
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đằng sau những con số hàm lượng đạm trong sữa
Đế quốc Trà
Đề bạt các chức danh khoa bảng: vài kinh nghiệm từ Úc
Đọc lại 12 điều y đức của Việt Nam
Đồi điều về sữa nhiễm melamine
Đừng quên melamine trong các thực phẩm khác!
Ước vọng 200 ?
“Kỹ năng mềm” cho nhà khoa học
“Sẽ” và “có thể”


Trang nhiều tác giả
Trang riêng của Lê Ngọc Dũng
Trang riêng của Lương Lễ Hoàng
Trang riêng của Nguyễn Bảo Trung
Trang riêng của Nguyễn Hoài Nam
Trang riêng của Nguyễn Hữu Đức
Trang riêng của Nguyễn Văn Tuấn
Trang riêng của Nguyễn Ý Đức
Trang riêng của Nguyễn Đình Nguyên
Trang riêng của Phan Xuân Trung
Trang riêng của Đỗ Hồng Ngọc
Trang riêng của Đỗ Minh Tuấn