NGUYỄN VĂN TUẤN

Ói mửa, cao huyết áp và hôn mê

(khi nguyên tắc căn bản lão khoa bị quên)

Lisa Sander (*)

1. Triệu chứng

Một làn sóng nôn mửa lướt qua trong người đàn bà cao tuổi khi bà cố gắng bước lên bậc thang lầu trong nhà cô con gái. Bà cảm thấy không khỏe trong người ngay từ hôm trước, khi bà rời căn hộ nhỏ ở Florida để đi thăm gia đình con gái. Bà ngồi sà xuống bậc thang và bật tiếng rên rỉ nhỏ; mặt bà tái đi, môi xám xịt. “Má xin lỗi con,” bà nói trong khi cô con gái chạy đến bên cạnh đỡ bà đứng dậy, “Má phải ngồi trên bậc thang này”. Bà cảm thấy ngượng nghịu, và thú nhận rằng bà cảm thấy không khỏe từ hôm trước, nhưng vẫn cố gắng đến đây. Bà cũng nghĩ không muốn ghé thăm và làm phiền con, nhưng ở độ tuổi 93, còn bao nhiêu lễ Noel nữa bà có thể chung vui với con cháu. Thôi thì cố gắng một lần này hãy cứ cho là lần cuối cũng được. Bà cố giải thích và phân bua với cô con gái.

“Má ơi, thật vậy sao? Sao má nghĩ là làm phiền con?” Cô con gái nói như quở trách một cách nhẹ nhàng trong khi cô giúp bà lên giường nằm nghỉ và nhanh nhẹn kiểm tra huyết áp cho bà. Huyết áp cao: 200/80 (mức độ bình thường là dưới 120/80). Cô con gái lập tức gọi điện cho bác sĩ gia đình ở Florida, và bác sĩ khuyên nên chở má cô vào phòng cấp cứu ngay.

Chiều hôm đó, bác sĩ Ben Musher nghe cô bác sĩ nội trú năm thứ 3, Radhika Varada, báo cáo tình trạng của bệnh nhân: 93 tuổi với tiền sử cao huyết áp và ung thư thận, từng trải qua điều trị ở phòng cấp cứu sau hai ngày bị ói mửa và hôn mê. Bác sĩ Varada kiểm tra dữ liệu từ phòng cấp cứu, rồi dẫn bác sĩ Musher gặp bệnh nhân. Ông chú ý bệnh nhân trông trẻ hơn nhiều so với tuổi đời 93. Ông nói lại những gì ông được báo cáo cho bệnh nhân nghe, và bệnh nhân không có gì để nói thêm.

Hai bác sĩ cùng khám bệnh nhân cẩn thận. Thật ra, bác sĩ Varada đã khám bà từ chiều hôm qua khi bà nhập viện. Huyết áp của bà vẫn còn cao – dù không cao như lúc ở nhà. Bụng bà mềm và cảm giác đau vì ói mửa. Ngoài những điều đó, không có gì đáng chú ý khác. Chụp CT scan bụng không phát hiện một dấu hiệu gì đáng khả nghi, ngoại trừ quả thận bên trái không còn (vì đã cắt bỏ 4 năm trước khi bà bị ung thư). Chụp X quang ngực kết quả cũng bình thường. Phát hiện “thú vị” nhất là từ xét nghiệm máu: độ sodium rất thấp, thấp đến độ có thể nói là nguy hiểm.

2. Điều tra

Các bác sĩ trong phòng cấp cứu cho rằng độ sodium thấp (hyponatremia) là do bệnh nhân từng ói mửa nhiều, và trong quá trình ói, bà bị khử nước (dehydration) nhiều quá. Họ bắt đầu truyền nước biển cho bệnh nhân. Mất nước chắc chắn là một trong những nguyên nhân quan trọng cho tình trạng thiếu sodium – đặc biệt là ở bệnh nhân bị ói mửa nhiều hay từng bị tiêu chảy. Đó là một giả thiết có lí, nhưng bác sĩ Musher không nghĩ đó là một giả thiết đúng. Khám tổng quát không cho thấy dấu hiệu gì bà bị mất nước: huyết áp cao, nhịp tim bình thường, và nước tiểu loãng. Với bằng chứng này, bác sĩ Musher cho rằng ói mửa là do độ sodium thấp, chứ không phải ói mửa làm cho độ sodium xuống thấp. Nhưng cái gì làm cho soidum xuống thấp?

Bác sĩ Musher chú tâm vào những khả năng rất gần ở bệnh nhân cao tuổi. Trước hết, đó là thuốc men. Nhiều thuốc thông thường có thể làm giảm sodium, và bệnh nhân này đang uống rất nhiều thuốc. Hai bác sĩ lại cẩn thận xem xét hồ sơ bệnh nhân, chú ý đến những thuốc mà bà đem theo, nhưng chẳng thấy thuốc nào có thể nói là liên quan đến tình trạng thiếu sodium cả.

Khả năng thứ hai là một số bệnh liên quan đến hệ thống hormone cũng có thể gây ra tình trạng thiếu sodium, như bệnh Addison – xảy ra khi tuyến adrenal thượng thận ngưng sản xuất hormones – có thể làm cho cơ thể mất sodium. Khi hormone tuyến giáp xuống thấp (hay quá ít) cũng có thể làm giảm độ sodium trong người. Một xét nghiệm máu đơn giản có thể chỉ ra nếu một trong hai khả năng này.

Nhưng điều làm bác sĩ Musher quan tâm nhất là khả năng ung thư. Bệnh nhân từng hút thuốc lá nhiều, nguy cơ ung thư phổi có thể khá cao, và ung thư phổi cũng có thể làm giảm sodium. Các tế bào ung thư sản xuất một loại hormone giống như loại hormone mà cơ thể sản xuất ra (vasopressin) để kiểm soát lượng nước trong người. Nếu vasopressin lên quá cao sẽ làm cho thận giữ lại nước. Các bác sĩ cần phải nghiên cứu thêm để có thể đưa ra một chẩn đoán chính xác. Trong cùng lúc, họ ngưng truyền nước biển và khuyên bệnh nhân nên uống ít nước để giảm hoạt động của quả thận còn lại và hi vọng sẽ làm cân bằng lượng nước trong người.

Sáng hôm sau, hai bác sĩ ghé qua thăm bệnh nhân, và thấy tình trạng sức khỏe bệnh nhân có vẻ tốt hơn hôm qua. Bệnh nhân cũng nói bà cảm thấy khỏe hơn. Tóc bà được chải một cách thời trang, đôi môi lại được tô son. Độ sodium cũng được cải tiến, nhưng vẫn còn thấp hơn mức độ bình thường. Kết quả xét nghiệm hai tuyến giáp và tuyến thượng thận bình thường. Trong khi hai bác sĩ nghĩ mình phải làm gì kế tiếp thì cô con gái của bà ghé qua. Cô nói quả thật trông bề ngoài thì má cô quả là khỏe hơn, và muốn biết bà có thể về nhà ăn Nobel với con cháu đêm nay không.

Bác sĩ Musher do dự. Lúc đó ông nghĩ rằng cái nguyên nhân khả dĩ nhất của tình trạng sodium xuống thấp là ung thư. Bà cần phải được điều trị. Thế nhưng, đêm nay là đêm Nobel – nếu bà ở lại đây, bác sĩ có làm được gì không?

Sau khi chỉ dẫn cho cô con gái về giới hạn uống nước, ông đồng ý cho bà về ăn Nobel đêm nay. “Nếu quả thật ung thư phổi là thủ phạm thì có lẽ đây là cái Nobel cuối cùng mà bà vui cùng con cháu,” ông nghĩ.

3. Liệu pháp

Bốn ngày sau đó, hai mẹ con lại vào phòng cấp cứu. Hôm Noel vui vẻ cả nhà, nhưng nay thì bệnh nhân cảm thấy có vấn đề một lần nữa. Độ sodium tốt hơn trước nhưng vẫn còn quá thấp. Bác sĩ Varada chào hỏi hai mẹ con với một nụ cười. “Để xem, lần này chúng tôi có thể truy ra thủ phạm của căn bệnh cho bà hay không.” Cô bác sĩ xem xét cẩn thận số liệu mà y tá phòng cấp cứu thu thập. Rồi cô quay sang danh sách thuốc men bà đang dùng. “Bà còn có dùng thuốc nào khác nữa không? Chẳng hạn như thuốc Bắc hay thuốc mua không cần toa bác sĩ? Bất cứ thuốc nào mà bà dùng nhưng không có trong danh sách này?” Bác sĩ Verada hỏi một lần nữa. Bệnh nhân nghĩ một lúc rồi nói ngập ngừng: “Tôi không biết cái thuốc tôi mới dùng có trong danh sách đó hay không.” Bà không nhớ tên thuốc, nhưng bác sĩ chuyên khoa niệu đã cho bà dùng để giảm số lần bà phải đi đái nhiều lần trong đêm. Bà có uống thuốc này vài lần, nhưng đã ngưng dùng vì không thấy hợp với thuốc. Tuy nhiên, trong chuyến đi thăm cô con gái vừa qua, bà có dùng một lần trên xe.

Bệnh nhân nhìn sang chỗ khác. Cô con gái bà chưa từng biết chuyện này, nhưng cô cũng không ngạc nhiên nếu má cô không nói cho mình biết. Cô biết má mình rất kín đáo, không muốn tiết lộ thông tin cá nhân cho người thân, thậm chí không muốn ai biết mình là người cao tuổi! Cô lập tức gọi điện kêu chồng về nhà. So sánh các thuốc bà dùng và có trong ví với các thuốc trong danh sách mà bác sĩ Verada có, họ phát hiện ngay “thủ phạm”. Trên lọ thuốc có một nhãn hiệu DDAVP. Đó là một loại thuốc được sản xuất từ vasopressin – loại hormone làm cho cơ thể giữ nước trong thận. Trong khi điều trị cho bệnh nhân, các bác sĩ đã quên một nguyên tắc cực kì căn bản trong lão khoa: đó là khi nói đến thuốc men, tin bệnh nhân, nhưng lúc nào cũng phải kiểm tra lại.

Liệu pháp đã rõ: ngưng sử dụng DDAVP. Sau gần 3 tuần, bệnh nhân đã bình thường trở lại. “Toàn bộ câu chuyện cứ như là một giấc chiêm bao”, bà hồi tưởng lại những gì xảy ra và nói như thế. Bà cảm thấy hối lỗi khi không báo đầy đủ thuốc mà bà sử dụng, nhưng cũng đồng thời cảm thấy bực mình với người bác sĩ cho bà thuốc đó mà không nói cho bà biết về tác hại phụ của nó. Bà nhún vai. “Ô, cô biết không, tôi già rồi,” bà nói với tôi. “Tôi đâu có biết là nó đã xảy ra như thế. Mình tưởng trước sau mình chỉ là một người – nhưng không phải như thế. Và nếu mình quên điều đó, không có gì là đúng cả.”

(*) Nguyễn Văn Tuấn lược dịch từ bài viết “Vomiting, Hypertension, Lethargy” của Lisa Sanders, đăng trên tờ New York Times, số ra ngày 19/6/2005.

 


200 năm Darwin
Agent Orange: collateral damage
Alexandre Yersin và Việt Nam
Bàn về hiệu quả vắcxin: lâm sàng và kinh tế
Bàn về vấn đề dịch thuật và đánh giá năng suất khoa học
Béo phì ở người Á châu
Béo phì ở trẻ em và virus
Bình luận từ Dr. Yến
Bưởi không gây ung thư vú
Bảo hiểm y tế cộng đồng
Bảo tồn môi sinh: Chiến tranh giữa hai thế giới
Bằng chứng khoa học thay vì lên lớp
Bệnh tả: không để Việt Nam thành Bangladesh thứ hai
Bệnh tật nhìn từ quan điểm của thuyết tiến hóa
Bệnh xơ hóa cơ delta qua y văn thế giới
Bổ sung kẽm và điều trị bệnh tả
Bộ gen trong cây lúa và triển vọng
Bộ Y tế phản ứng chậm với rét đậm
Chiều cao của người Việt
Chiều cao và tổng thống Mĩ
Cholesterol và bệnh Tim
Cholesterol: hung thần hay bạn?
Chuột và... các nhà khoa học
Chính sách y tế cần dựa vào bằng chứng khoa học
Chạy đua vũ khí và … dịch cúm
Chất béo, cholesterol, bệnh tim và statins: xét lại bằng chứng
Chất keo xã hội: hormones
Chất lượng nghiên cứu dịch tễ học và y tế cộng đồng của Việt Nam qua chỉ số H
Chất lượng nghiên cứu khoa học ở Việt Nam qua chỉ số trích dẫn
Chất vấn chuẩn chẩn đoán béo phì
Chế độ ăn uống với nhiều thịt động vật và nguy cơ tử vong
Chủng vi khuẩn tả hiện nay ở nước ta có phải mới xuất hiện?
Cuộc chiến hóa học phi pháp lớn nhất trong lịch sử chiến tranh
Câu chuyện y học: Leptin và béo phì
Có bao nhiêu bác sĩ viết chữ khó đọc
Có nên tập trung vào vi khuẩn E. coli ?
Có thể xảy ra đại dịch cúm gia cầm?
Công cụ đơn giản để chẩn đoán tiểu đường ở người Đông Nam Á
Cúm gia cầm và nhiễu thông tin
Cúm H1N1: biết và chưa biết
Cơ hội để khép lại một chương lịch sử đau lòng
Cần hiểu đúng về Ung thư và nguy cơ ung thư
Cần qui ước đạo đức cho kĩ nghệ thực phẩm
Cần tiêm chủng ngừa bệnh tả vùng có nguy cơ cao
Cần điều tra về chất lượng bệnh viện
Cổ phần hóa bệnh viện công và chất lượng
Cổ phần hóa: chưa phải cách duy nhất
DDT và vấn đề cân đối giữa lợi ích và nguy hiểm
Dinh dưỡng: một nguồn thuốc quí giá
DNA không nói dối, nhưng DNA có thể nói … sai
Dịch cúm gà: hoang mang và sự thật khoa học
Dịch cúm heo và tác hại kinh tế
Dịch tay-chân-miệng
Dịch tả: gọi đúng tên để phòng ngừa
Dựa vào khoa học, đừng dựa vào niềm tin!
E. coli – vài câu hỏi thông thường
Gen và bệnh tật
Ghen tuông dưới cái nhìn của tâm lí y khoa
Gian lận trong nghiên cứu khoa học: áp lực kinh tế và cơ chế bình duyệt
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC: KHƠI DẬY VÀ NUÔI DƯỠNG TÍNH HAM HỌC
Giải nobel y học hay sinh lí học 2007 và lợi ích cho người bệnh
Giải Nobel Y sinh học 2008 và những tranh chấp khoa học
Giải Nobel y sinh học 2010 vinh danh người đem niềm vui cho người vô sinh
Giải Nobel y sinh học năm 2005: Một cõi đi về với vi khuẩn
Giải Nobel y sinh học: Nhìn lại quãng đường 100 năm
Giải phẫu ghép mặt và vấn đề y đức
Gout ở xương sống
Gãy xương và tử vong: một vấn nạn y tế cộng đồng
Hiệu quả vắcxin có nghĩa gì?
Hoa vàng mấy độc
Hàm lượng đạm trong sữa “siêu thấp” hay “siêu cao”?
Hóa chất khai hoang trong cuộc chiến Viện Nam: Qui mô và tầm ảnh hưởng
Hướng đi nào để giải quyết vấn đề chất độc da cam ở Việt Nam
Hậu “mắm tôm được minh oan”: bằng chứng khoa học, nhà xí và nghiên cứu
Hệ Thống Học Vị Và Học Hàm Khoa Học Ở Vài Nước Tây Phương
Hợp tác khoa học kiểu nhảy dù - Nguyễn Văn Tuấn
Khi bác sĩ trẻ “khoe” quá nhiều
Khoa học và ngụy khoa học: một vài đặc điểm và khác biệt cần biết
Khoa học, xã hội, và rủi ro
Không thể thành Phù Đổng trong 20 năm!
Khẩu trang và phòng chống cúm A/H1N1
Kiểm định giả thuyết mắm tôm và vi khuẩn tả
Liều lượng melamine bao nhiêu là an toàn?
Lí lịch sinh học của heo và dấu vết văn minh nông nghiệp Đông Nam Á
Lượng giá mạng sống con người
Lợi ích của vitamin D
Miệng nhà quan
Mắm tôm có phải là “thủ phạm” gây bệnh tả? Xét lại bằng chứng khoa học
Mắm tôm và chuyện xin lỗi
Mắm tôm và dịch tả: phân biệt yếu tố nguy cơ và nguyên nhân
Mắm tôm vô tội!
Mắm tôm, nguyên nhân và hệ quả
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Một bệnh hiếm X-linked recessive hypoparathyroidism
Một lần đi phỏng vấn
Một năm nhìn lại
Một phán quyết thiếu cơ sở khoa học
Một vài hiểu lầm tai hại
Một vài ngộ nhận về nghiên cứu khoa học
Một vài vấn đề về qui định chức danh giáo sư ở Việt Nam
Một vụ Madoff trong y khoa: Lại một ngôi sao y khoa rơi rụng!
Mỡ trắng, mỡ nâu
Mỡ  trong máu, huyết áp, và  tiểu đường
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nguyên nhân bệnh tiêu chảy
Ngó trên tay điếu thuốc đã lụi dần
Người cao tuổi và sự hạn chế của y khoa
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Nhân chuyện dịch tả nhớ lại John Snow
Nhân câu chuyện điện não đồ xét nghiệm nghiện ma túy:
Nhân năm khỉ_nguồn gốc con người hiện đại
Nhân năm Tý bàn chuyện thí nghiệm trên chuột
Nhìn lại khoa học Việt Nam năm 2008 qua công bố quốc tế
Nhầm lẫn trong y khoa: Khá phổ biến, nhưng ít ai biết!
Những câu hỏi và trả lời về dịch gia cầm
Những sai sót khó tin nhưng có thật
Những sai sót nguy hiểm trong toa thuốc
Những điều khó tin về “Bảy điều khó tin nhất trong y học”
Năm lí do cho mắm tôm “vô tội”
Phán quyết sau cùng: Chất béo không ảnh hưởng đến ung thư và bệnh tim
Phát hiện gien kiểm soát ráy tai: vài bài học về mò kim đáy biển
Phòng chống bệnh phải dựa vào bằng chứng khoa học!
Phòng chống H1N1 bằng rửa tay và khẩu trang: Biện pháp nào hiệu quả hơn?
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao và cân nặng: thiếu cơ sở khoa học và kì thị giới tính
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao: vấn đề giả định và bằng chứng khoa học
Quyền phê phán và trí thức
Quyền được tiếp cận hồ sơ bệnh án
Quản lý chất lượng: Thuốc phòng "tai nạn y khoa"
Rửa tay bằng xà phòng và tiêu chảy
Serotonin có liên quan đến chứng đột tử
Suy dinh dưỡng ở trẻ em: vấn đề của kinh tế
Sàng lọc trẻ sơ sinh trên phạm vi toàn quốc
Tai nạn y khoa trong bệnh viện
Thế nào là một "bài báo khoa học"
Thế nào là “Cơ sở khoa học” ?
Thịt chó là nguyên nhân của bệnh tiêu chảy cấp tính?
Thịt chó và bệnh tả: nguyên nhân và yếu tố nguy cơ
Tiên lượng bệnh Alzheimer bằng protein expression ?
Tiêu chuẩn chất lượng giáo dục đại học
Tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì cho người Việt - Nguyễn Văn Tuấn
Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh đái tháo đường (diabetes mellitus)
Tiêu chuẩn đề bạt giáo sư: Có nên căn cứ vào số lượng bài báo ?
Tiêu chảy cấp tính và bệnh tả: Định danh cho đúng
Truy tìm ung thư bằng mammography từ tuổi 50
Truyền thông và khoa học: Qui ước Ingelfinger
Truyền thông và y tế
Truyền thông, khoa học và … doanh nghiệp
Trà xanh và sức khỏe
Trách nhiệm và nhân đạo trong vấn đề chất độc da cam
Trái chanh và phòng chống bệnh tả
Trả lời những câu hỏi liên quan đến loãng xương
Trọng lượng cơ thể và tử vong ở người Trung Quốc: Ý nghĩa về việc xác định tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì
Tuổi thọ của người dân giảm 10 năm ?
Tác dụng Placebo trong y học: Tâm lí và ý nghĩa
Tình yêu, sắc đẹp nhìn dưới quan điểm di truyền học
Tín hiệu môi trường từ những “làng ung thư”
Tính khoa học và minh bạch đằng sau xét nghiệm doping
Tại sao không phát biểu về nguyên nhân và hệ quả ?
Tại sao uống rượu gây đỏ mặt và nguy cơ ung thư thực quản
Tạo sinh vô tính và cái chết của Thượng đế
Tạo sinh vô tính và vấn đề sinh đạo đức
Tản mạn về SARS
Tỉ lệ tử vong do cúm heo là bao nhiêu ?
Tự trị, chất lượng và y đức thay vì cổ phần hóa bệnh viện công
Ung thư vú và vấn đề thông tin y khoa
Uống bia hấp dẫn muỗi
Vaccine phòng chống AIDS hiệu quả đến đâu ?
Vaccine phòng chống cúm A/H1N1
Vi khuẩn gây tiêu chảy và ý nghĩa tiêm chủng
Vi khuẩn tả trong chó ?
Viết văn có thể chữa nhiều loại bệnh
Viết văn và trị liệu
Việc ta, ta cứ làm!
Vài nhận xét về 12 điều lệ y đức của Việt Nam
Vài thông tin cần biết về các chương trình truy tìm ung thư vú
Vài đóng góp quan trọng của người Việt khoa học thống kê
Văn hóa khoa học
Văn hóa tranh luận và vấn đề ngụy biện
Vấn đề sinh tố: kẽm và đồng
Vấn đề truy tìm ung thư phổi và hiệu quả 
Vấn đề y đức trong nghiên cứu tế bào mầm (stem cells)
Vấn đề đo lường melamine
Vấn đề đào tạo tiến sĩ: kinh nghiệm từ Australia
Vắc-xin phòng chống ung thư cổ tử cung
Vắcxin ngừa viêm gan B: cẩn thận với “nhiễu thông tin”
Vắcxin ngừa viêm gan B: kinh nghiệm từ nước ngoài
Vắcxin phòng bệnh sởi - quai bị - Rubella: lợi và hại
Vắcxin phòng chống ung thư cổ tử cung: hiệu quả lâm sàng và kinh tế
Vắcxin phòng ngừa bệnh tả: rất cần thiết
Về chấn chỉnh đào tạo tiến sĩ: Công bố bài báo khoa học là một thách thức lớn ?
Về học vị tiến sĩ
Về một sự hiểu lầm thuật ngữ "prospective"
Về phản ứng phụ của bisphosphonates liên quan đến hoại tử xương hàm và rung nhĩ
Vệ sinh như là một loại hàng hóa
Vị thế của nền khoa học Việt Nam
Xung quang xì căng đan về nghiên cứu tế bào mầm
Xã hội hóa và an toàn thực phẩm
Xếp hạng đại học: cần minh bạch hóa phương pháp
Y học hiện đại và những hứa hẹn
Y học thực chứng: vài nét khái quát
Y Khoa và những nhầm lẫn chết người
Y tế dự phòng: nền tảng của y khoa hiện đại
Y đức và nghiên cứu y học
Ói mửa, cao huyết áp và hôn mê
Ăn chay như là một trị liệu
Ăn chay và loãng xương
Điều trị bệnh dựa vào màu da ?
Điều trị đau dây thần kinh tọa bằng phẫu thuật: không có hiệu quả
Đo lường hiệu suất khoa học
Đánh giá đúng tầm quan trọng của ung thư vú 
Đại dịch H1N1
Đại dịch và đại dịch ảo
Đại dịch đã đến ?
Đạo văn trong hoạt động khoa học
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đằng sau những con số hàm lượng đạm trong sữa
Đế quốc Trà
Đề bạt các chức danh khoa bảng: vài kinh nghiệm từ Úc
Đọc lại 12 điều y đức của Việt Nam
Đồi điều về sữa nhiễm melamine
Đừng quên melamine trong các thực phẩm khác!
Ước vọng 200 ?
“Kỹ năng mềm” cho nhà khoa học
“Sẽ” và “có thể”


Trang nhiều tác giả
Trang riêng của Lê Ngọc Dũng
Trang riêng của Lương Lễ Hoàng
Trang riêng của Nguyễn Bảo Trung
Trang riêng của Nguyễn Hoài Nam
Trang riêng của Nguyễn Hữu Đức
Trang riêng của Nguyễn Văn Tuấn
Trang riêng của Nguyễn Ý Đức
Trang riêng của Nguyễn Đình Nguyên
Trang riêng của Phan Xuân Trung
Trang riêng của Đỗ Hồng Ngọc
Trang riêng của Đỗ Minh Tuấn