NGUYỄN VĂN TUẤN

Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược

(Bản ngắn đã đăng trên TTCT)

Nguyễn Văn Tuấn

            Kĩ nghệ dược và hoạt động kinh doanh của các công ti dược thường được giới báo chỉ mổ xẻ khá nhiều.  Có quan điểm cho rằng các công ti dược là “bad guys” (kẻ xấu), làm tiền trên bệnh nhân, mua chuộc bác sĩ để kinh doanh, v.v… Nhưng cũng có người bình tĩnh hơn đánh giá cao những đóng góp của kĩ nghệ được trong việc phòng chống bệnh tật ở qui mô toàn cầu. Gần đây báo chí trong nước đặt vấn đề về mối quan hệ giữa kĩ nghệ dược phẩm và bác sĩ với nhiều lí lẽ tiêu cực.  Bài này sẽ lí giải tại sao mối quan hệ đó cần thiết, và có thể cải tiến tốt hơn.

            Kĩ nghệ dược là một kĩ nghệ lớn và hái ra tiền trên thế giới.  Theo một phân tích vào năm 2006, kĩ nghệ dược toàn cầu trị giá 643 tỉ USD; trong số này chỉ 10 công ti chiếm trên 40%  thị phần toàn cầu.  Thị trường dược phẩm ở các nước đang phát triển là một thị trường phát triển rất nhanh trong thời gian gần đây.  Năm 2001, thị trường dược phẩm ở các nước đang phát triển chiếm 13% thị trường toàn cầu; chỉ 5 năm sau (năm 2006), tỉ lệ này tăng gấp 2 lần thành 27%.   Do đó, các “đại gia” ngành dược nhìn các nước đang phát triển ở châu Á là một thị trường chiến lược về lâu về dài.  Để xây dựng thị trường họ cần thiết lập các mối quan hệ với địa phương.

Trong trào lưu hợp tác và phát triển, mối quan hệ giữa y giới và kĩ nghệ dược là một điều cần thiết.  Mối quan hệ giữa một bên là chăm sóc sức khỏe cho bệnh nhân và một bên là sản xuất dược phẩm và công cụ phục vụ cho chăm sóc bệnh nhân ắt hẳn sẽ đem lại nhiều lợi ích cho việc điều trị và quản lí bệnh.  Có thể nói rằng đại đa số các thuốc có mặt trên thị trường ngày nay, nếu không có sự tương tác giữa các bác sĩ nghiên cứu và kĩ nghệ dược thì không thể nào ra đời được.  Ở những nước kém phát triển kinh tế như nước ta, sự có mặt của các công ti dược quốc tế chẳng những là một dấu hiệu tích cực cho nền kinh tế, mà còn đem lại nhiều lợi ích về thông tin khoa học cho giới bác sĩ vốn trong một thời gian dài không có cách tiếp cận được.

Hai mối quan hệ

            Nhưng mối quan hệ giữa y giới và kĩ nghệ được cũng có nhiều tác động tiêu cực.  Chẳng hạn như có bằng chứng cho thấy bác sĩ có mối quan hệ mật thiết với các công ti dược thường có xu hướng sử dụng thuốc của công ti, dù có thuốc khác có cùng hiệu quả và giá rẻ hơn.  Nói cách khác, mối quan hệ đó có thể ảnh hưởng tiêu cực đến y đức.  Một nguyên tắc y đức số 1 là: bác sĩ phải đặt quyền lợi của bệnh nhân lên hàng đầu.  Nhưng trong thực tế, một số không ít bác sĩ đã vì đồng tiền làm cho lu mờ hay thậm chí quên nguyên tắc số một này.  Chính vì vấn đề tế nhị này mà ở các nước tiên tiến như Mĩ, Quốc hội điều tra và thiết lập những luật để quản lí mối quan hệ giữa y giới và kĩ nghệ được.

            Nhưng nói đến mối quan hệ giữa y giới và kĩ nghệ dược là nói đến cái gì cụ thể?  Một cuộc nghiên cứu ở Mĩ do giáo sư Eric Campbell thực hiện cho chúng ta một bức tranh khá sinh động.  Khi được hỏi trong thời gian 1 năm, các bác sĩ có mối tương tác nào với kĩ nghệ được, các bác sĩ Mĩ báo cáo như sau:

  • 78% bác sĩ nhận hàng mẩu (thuốc mẩu) từ các công ti dược;
  • 83% bác sĩ từng nhận quà từ các công ti dược (quà thường là bút, giấy, đồ chơi điện tử, v.v…);
  • 35% nhận tiền trực tiếp từ các công ti dược;
  • 18% nhận tiền tư vấn phí (consulting fee);
  • 16% nhận tiền giảng bài và nói chuyện trong các hội nghị;
  • 9% nhận tiền do được mời làm cố vấn trong các hội đồng khoa học của các công ti dược;
  • 3% nhận tiền để tuyển bệnh nhân cho các công trình thử nghiệm lâm sàng;

            Tính chung, 95% bác sĩ cho biết họ có ít nhất là một mối quan hệ như vừa mô tả trên.  Chỉ có 5% là hoàn toàn độc lập.  Tuy nhiên, ngay cả con số 5% này còn được xem là quá cao, vì trong thực tế có lẽ 100% bác sĩ đều có ít nhất là một mối tương tác với kĩ nghệ dược. 

Đó là tình hình ở Mĩ.  Còn tại các nước phát triển như nước ta thì sao?  Một nghiên cứu thú vị khác của nhóm Comsumer Internation (CI) cho chúng ta thấy một bức tranh khác.  Trong nghiên cứu này, một bác sĩ gia đình người Malaysia đồng ý ghi lại tất cả những liên hệ mà ông có với các công ti dược.  Trong thời gian 5 tuần, ông ghi nhận 17 giờ tiếp xúc với đại diện của 25 công ti dược (trong số này có 16 công ti đa quốc gia hay còn gọi là “đại gia” trong ngành dược quốc tế).  Mối liên hệ giữa bác sĩ Malaysia và các đại diện công ti dược có thể tóm lược như sau:

 

  • 6 tài liệu khoa học cập nhật hóa về điều trị;
  • 10 bút, 9 sách hay giấy nháp mang nhãn hiệu thuốc, 1 đồ chơi, 4 tập để tài liệu; 5 hộp giấy tissue; xà phồng; phụ kiện máy tính như chuột, USB;
  • 2 sách cẩm nang lâm sàng;
  • 24 tờ rơi;
  • 3 bài báo khoa học;
  • Dịch vụ sàng lọc bệnh nhân;
  • 5 lời mời đi ăn tối, ăn trưa ở nhà hàng; và
  • 3 lời mời đi dự hội thảo dưới sự bảo trợ của công ti.

Nhìn qua danh sách về các môi liên hệ giữa giới bác sĩ ở Mĩ và ở Malaysia chúng ta thấy một mẫu số chung là các công ti dược thường cho quà cáp và hàng mẫu cho bác sĩ.  Tuy nhiên, về phương diện khoa học, mối liên hệ giữa kĩ nghệ dược và bác sĩ ở Mĩ ở một tầm vóc cao hơn mối liên hệ ở các nước phát triển.  Ở Mĩ, một số bác sĩ cũng làm nghiên cứu khoa học, và do đó, các công ti dược cần đến cố vấn của họ và đối xử họ tốt hơn (hay ở một mối liên hệ bình đẳng hơn) so với các đồng nghiệp ở các nước đang phát triển.  Ở các nước đang phát triển, đại đa số các bác sĩ không có điều kiện nghiên cứu khoa học, và họ ở một vị thế thấp hơn đồng nghiệp ở các nước tiên tiến, nên mối liên hệ có màu sắc “chiếu trên chiếu dưới”.

            Nhưng không thể cáo buộc các công ti dược có những hành vi có thể xem là thiếu thuyết phục (nếu không muốn nói là thiếu chính trực), bởi vì nếu không có sự tiếp tay của giới bác sĩ thì chiến lược tiếp thị của họ chưa chắc có hiệu quả.  Trong thực tế có không ít bác sĩ lợi dụng các công ti dược để “chấm mút”, thậm chí có bác sĩ còn ra giá hoa hồng cho các công ti dược khi họ kê toa thuốc!  Những hành vi tự hạ thấp nhân phẩm và vi phạm y đức của các bác sĩ này đã vô hình chung tạo nên một tiền lệ cho các công ti dược khai thác và biến không ít bác sĩ thành những người bán hàng cho họ.

 

Ảnh hưởng

            Theo một nghiên cứu vừa công bố trên tập san PLoS Medicine, mỗi năm các công ti dược cho ra trên 50 tỉ USD cho các hoạt động tiếp thị, và trong số này 70% nhắm vào các bác sĩ.  Mỗi năm, các công ti dược chi ra khoảng 20 tỉ USD cho các “dịch vụ” liệt kê trong danh sách trên.  Tại sao các công ti thích chi ra một số tiền lớn như thế?  Câu trả lời đơn giản là vì chiến lược tiếp thị nhắm vào giới bác sĩ đem lại hiệu quả kinh tế cao. 

Vấn đề đặt ra là ai sẽ trả cho những chi phí này?  Tất nhiên, các công ti dược không phải là những tổ chức từ thiện; nhiệm vụ của họ là kinh doanh lấy lời và chiếm thị trường.  Chính bệnh nhân là những người phải chi trả khoảng chi tiêu khổng lồ này.  Chính bệnh nhân là những người phải chi trả những quà tặng và những chuyến du lịch hải ngoại cho bác sĩ.  Đó cũng là một giải thích tại sao giá thuốc càng ngày càng tăng cao. 

Do đó, mối quan hệ giữa kĩ nghệ dược và y giới ở các nước đang phát triển đã và đang trở thành đề tài tranh luận trong vài năm qua.  Các công ti dược thường bị tố cáo là lợi dụng và khai thác tình trạng thiếu thông tin ở các nước đang phát triển để đưa vào thị trường những thuốc cũ, hay thuốc với chất lượng thấp.  Đã có ước tính rằng gần 50% thuốc ở các nước đang phát triển hoặc được ra toa một cách không phù hợp, hoặc không cần thiết.  Khoảng phân nửa bệnh nhân ở các nước này có thể được điều trị bằng những thuốc hoặc không phù hợp, hoặc không cần thiết. 

            Chẳng hạn như trên thế giới ngày nay, có ước tính cho rằng chỉ duy trì đủ một số thuốc phổ biến và căn bản và vắcxin có thể cứu sống 10 triệu người mỗi năm.  Nhưng nhiều công ti dược không thích những thuốc căn bản đó, vì họ muốn bán những thuốc mới và đắt tiền hơn (đồng nghĩa với lợi nhuận nhiều hơn).

            Các thuốc mới có thật sự là mới?  Một phân tích trên 1000 thuốc mới được FDA phê chuẩn trong thời gian 1989 đến 2000, chỉ có 5% là thực sự đột phá, và hơn 3/4 không có lợi ích lâm sàng gì tốt hơn so với thuốc hiện hành.  Nhưng các thuốc mới này thường đắt tiền hơn thuốc cũ!  Do đó, nều các công ti dược quảng bá những loại thuốc mới mà đắt tiền có thể dẫn đến tình trạng sao lãng các biện pháp y tế công cộng vốn là một vấn nạn y tế ở các nước đang phát triển. 

Tiến đến một mối quan hệ lành mạnh hơn

            Trong thời gian gần đây, một số báo chí Việt Nam chất vấn mối quan hệ giữa bác sĩ vác các công ti dược với nhiều lí lẽ mang tính tiêu cực.  Tuy trong thực tế có những hành vi không mấy hay ho của các công ti dược có thể ảnh hưởng xấu đến việc chăm sóc bệnh nhân, nhưng nhìn chung mối quan hệ giữa kĩ nghệ dược và y giới có thể cải tiến bằng cách nâng cao mối quan hệ lên tầm bình đẳng hơn và khoa học hơn.   

Như trình bày trên, mối liên hệ giữa kĩ nghệ dược và y giới địa phương rất cần thiết cho sự phát triển của y học trong nước.  Có thể nói không ngoa rằng các công ti dược có thể đóng vai trò tích cực hơn nữa trong việc tài trợ cho giới khoa học Việt Nam trong nghiên cứu y khoa.  Các nghiên cứu do các công ti thuốc nước ngoài tài trợ thường có chất lượng cao hơn những công trình nội địa, bởi vì họ phải tuân thủ theo các chuẩn mực quốc tế.  Do đó, mối tương tác khoa học giữa kĩ nghệ dược và y giới về lâu về dài sẽ đem nhiều lợi ích. 

Tuy nhiên, vì một số hoạt động của kĩ nghệ dược có khi mang hình thức quảng bá sản phẩm mang tính áp đặt và có khi thiếu minh bạch.  Trong quá khứ, đã có tình trạng các công ti dược bán những thuốc hết (hay gần hết) thời hạn ở các nước đang phát triển.  Lại có những công ti “mua” bác sĩ để kiếm bệnh nhân làm thử nghiệm.  Đó là những hành vi có thể nói là vi phạm y đức và đạo đức kinh doanh.  Do đó, có lẽ để cho mối quan hệ giữa kĩ nghệ dược và y giới tốt hơn, chúng ta cần một số qui ước (không phải luật) mà đôi bên có thể đồng ý với nhau.

            Kĩ nghệ dược phẩm đã, đang và sẽ đóng vai trò quan trọng trọng trong công tác y tế và phòng chống bệnh tật không chỉ ở các nước đang phát triển mà còn ở qui mô toàn cầu.  Để làm tốt vai trò này, kĩ nghệ dược cần phải tương tác với y khoa trong việc cung cấp thông tin chuyên môn và nghiên cứu khoa học, chứ không chỉ đơn thuần là một mối quan hệ thương mại thuần túy.


200 năm Darwin
Agent Orange: collateral damage
Alexandre Yersin và Việt Nam
Bàn về hiệu quả vắcxin: lâm sàng và kinh tế
Bàn về vấn đề dịch thuật và đánh giá năng suất khoa học
Béo phì ở người Á châu
Béo phì ở trẻ em và virus
Bình luận từ Dr. Yến
Bưởi không gây ung thư vú
Bảo hiểm y tế cộng đồng
Bảo tồn môi sinh: Chiến tranh giữa hai thế giới
Bằng chứng khoa học thay vì lên lớp
Bệnh tả: không để Việt Nam thành Bangladesh thứ hai
Bệnh tật nhìn từ quan điểm của thuyết tiến hóa
Bệnh xơ hóa cơ delta qua y văn thế giới
Bổ sung kẽm và điều trị bệnh tả
Bộ gen trong cây lúa và triển vọng
Bộ Y tế phản ứng chậm với rét đậm
Chiều cao của người Việt
Chiều cao và tổng thống Mĩ
Cholesterol và bệnh Tim
Cholesterol: hung thần hay bạn?
Chuột và... các nhà khoa học
Chính sách y tế cần dựa vào bằng chứng khoa học
Chạy đua vũ khí và … dịch cúm
Chất béo, cholesterol, bệnh tim và statins: xét lại bằng chứng
Chất keo xã hội: hormones
Chất lượng nghiên cứu dịch tễ học và y tế cộng đồng của Việt Nam qua chỉ số H
Chất lượng nghiên cứu khoa học ở Việt Nam qua chỉ số trích dẫn
Chất vấn chuẩn chẩn đoán béo phì
Chế độ ăn uống với nhiều thịt động vật và nguy cơ tử vong
Chủng vi khuẩn tả hiện nay ở nước ta có phải mới xuất hiện?
Cuộc chiến hóa học phi pháp lớn nhất trong lịch sử chiến tranh
Câu chuyện y học: Leptin và béo phì
Có bao nhiêu bác sĩ viết chữ khó đọc
Có nên tập trung vào vi khuẩn E. coli ?
Có thể xảy ra đại dịch cúm gia cầm?
Công cụ đơn giản để chẩn đoán tiểu đường ở người Đông Nam Á
Cúm gia cầm và nhiễu thông tin
Cúm H1N1: biết và chưa biết
Cơ hội để khép lại một chương lịch sử đau lòng
Cần hiểu đúng về Ung thư và nguy cơ ung thư
Cần qui ước đạo đức cho kĩ nghệ thực phẩm
Cần tiêm chủng ngừa bệnh tả vùng có nguy cơ cao
Cần điều tra về chất lượng bệnh viện
Cổ phần hóa bệnh viện công và chất lượng
Cổ phần hóa: chưa phải cách duy nhất
DDT và vấn đề cân đối giữa lợi ích và nguy hiểm
Dinh dưỡng: một nguồn thuốc quí giá
DNA không nói dối, nhưng DNA có thể nói … sai
Dịch cúm gà: hoang mang và sự thật khoa học
Dịch cúm heo và tác hại kinh tế
Dịch tay-chân-miệng
Dịch tả: gọi đúng tên để phòng ngừa
Dựa vào khoa học, đừng dựa vào niềm tin!
E. coli – vài câu hỏi thông thường
Gen và bệnh tật
Ghen tuông dưới cái nhìn của tâm lí y khoa
Gian lận trong nghiên cứu khoa học: áp lực kinh tế và cơ chế bình duyệt
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC: KHƠI DẬY VÀ NUÔI DƯỠNG TÍNH HAM HỌC
Giải nobel y học hay sinh lí học 2007 và lợi ích cho người bệnh
Giải Nobel Y sinh học 2008 và những tranh chấp khoa học
Giải Nobel y sinh học 2010 vinh danh người đem niềm vui cho người vô sinh
Giải Nobel y sinh học năm 2005: Một cõi đi về với vi khuẩn
Giải Nobel y sinh học: Nhìn lại quãng đường 100 năm
Giải phẫu ghép mặt và vấn đề y đức
Gout ở xương sống
Gãy xương và tử vong: một vấn nạn y tế cộng đồng
Hiệu quả vắcxin có nghĩa gì?
Hoa vàng mấy độc
Hàm lượng đạm trong sữa “siêu thấp” hay “siêu cao”?
Hóa chất khai hoang trong cuộc chiến Viện Nam: Qui mô và tầm ảnh hưởng
Hướng đi nào để giải quyết vấn đề chất độc da cam ở Việt Nam
Hậu “mắm tôm được minh oan”: bằng chứng khoa học, nhà xí và nghiên cứu
Hệ Thống Học Vị Và Học Hàm Khoa Học Ở Vài Nước Tây Phương
Hợp tác khoa học kiểu nhảy dù - Nguyễn Văn Tuấn
Khi bác sĩ trẻ “khoe” quá nhiều
Khoa học và ngụy khoa học: một vài đặc điểm và khác biệt cần biết
Khoa học, xã hội, và rủi ro
Không thể thành Phù Đổng trong 20 năm!
Khẩu trang và phòng chống cúm A/H1N1
Kiểm định giả thuyết mắm tôm và vi khuẩn tả
Liều lượng melamine bao nhiêu là an toàn?
Lí lịch sinh học của heo và dấu vết văn minh nông nghiệp Đông Nam Á
Lượng giá mạng sống con người
Lợi ích của vitamin D
Miệng nhà quan
Mắm tôm có phải là “thủ phạm” gây bệnh tả? Xét lại bằng chứng khoa học
Mắm tôm và chuyện xin lỗi
Mắm tôm và dịch tả: phân biệt yếu tố nguy cơ và nguyên nhân
Mắm tôm vô tội!
Mắm tôm, nguyên nhân và hệ quả
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Một bệnh hiếm X-linked recessive hypoparathyroidism
Một lần đi phỏng vấn
Một năm nhìn lại
Một phán quyết thiếu cơ sở khoa học
Một vài hiểu lầm tai hại
Một vài ngộ nhận về nghiên cứu khoa học
Một vài vấn đề về qui định chức danh giáo sư ở Việt Nam
Một vụ Madoff trong y khoa: Lại một ngôi sao y khoa rơi rụng!
Mỡ trắng, mỡ nâu
Mỡ  trong máu, huyết áp, và  tiểu đường
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nguyên nhân bệnh tiêu chảy
Ngó trên tay điếu thuốc đã lụi dần
Người cao tuổi và sự hạn chế của y khoa
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Nhân chuyện dịch tả nhớ lại John Snow
Nhân câu chuyện điện não đồ xét nghiệm nghiện ma túy:
Nhân năm khỉ_nguồn gốc con người hiện đại
Nhân năm Tý bàn chuyện thí nghiệm trên chuột
Nhìn lại khoa học Việt Nam năm 2008 qua công bố quốc tế
Nhầm lẫn trong y khoa: Khá phổ biến, nhưng ít ai biết!
Những câu hỏi và trả lời về dịch gia cầm
Những sai sót khó tin nhưng có thật
Những sai sót nguy hiểm trong toa thuốc
Những điều khó tin về “Bảy điều khó tin nhất trong y học”
Năm lí do cho mắm tôm “vô tội”
Phán quyết sau cùng: Chất béo không ảnh hưởng đến ung thư và bệnh tim
Phát hiện gien kiểm soát ráy tai: vài bài học về mò kim đáy biển
Phòng chống bệnh phải dựa vào bằng chứng khoa học!
Phòng chống H1N1 bằng rửa tay và khẩu trang: Biện pháp nào hiệu quả hơn?
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao và cân nặng: thiếu cơ sở khoa học và kì thị giới tính
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao: vấn đề giả định và bằng chứng khoa học
Quyền phê phán và trí thức
Quyền được tiếp cận hồ sơ bệnh án
Quản lý chất lượng: Thuốc phòng "tai nạn y khoa"
Rửa tay bằng xà phòng và tiêu chảy
Serotonin có liên quan đến chứng đột tử
Suy dinh dưỡng ở trẻ em: vấn đề của kinh tế
Sàng lọc trẻ sơ sinh trên phạm vi toàn quốc
Tai nạn y khoa trong bệnh viện
Thế nào là một "bài báo khoa học"
Thế nào là “Cơ sở khoa học” ?
Thịt chó là nguyên nhân của bệnh tiêu chảy cấp tính?
Thịt chó và bệnh tả: nguyên nhân và yếu tố nguy cơ
Tiên lượng bệnh Alzheimer bằng protein expression ?
Tiêu chuẩn chất lượng giáo dục đại học
Tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì cho người Việt - Nguyễn Văn Tuấn
Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh đái tháo đường (diabetes mellitus)
Tiêu chuẩn đề bạt giáo sư: Có nên căn cứ vào số lượng bài báo ?
Tiêu chảy cấp tính và bệnh tả: Định danh cho đúng
Truy tìm ung thư bằng mammography từ tuổi 50
Truyền thông và khoa học: Qui ước Ingelfinger
Truyền thông và y tế
Truyền thông, khoa học và … doanh nghiệp
Trà xanh và sức khỏe
Trách nhiệm và nhân đạo trong vấn đề chất độc da cam
Trái chanh và phòng chống bệnh tả
Trả lời những câu hỏi liên quan đến loãng xương
Trọng lượng cơ thể và tử vong ở người Trung Quốc: Ý nghĩa về việc xác định tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì
Tuổi thọ của người dân giảm 10 năm ?
Tác dụng Placebo trong y học: Tâm lí và ý nghĩa
Tình yêu, sắc đẹp nhìn dưới quan điểm di truyền học
Tín hiệu môi trường từ những “làng ung thư”
Tính khoa học và minh bạch đằng sau xét nghiệm doping
Tại sao không phát biểu về nguyên nhân và hệ quả ?
Tại sao uống rượu gây đỏ mặt và nguy cơ ung thư thực quản
Tạo sinh vô tính và cái chết của Thượng đế
Tạo sinh vô tính và vấn đề sinh đạo đức
Tản mạn về SARS
Tỉ lệ tử vong do cúm heo là bao nhiêu ?
Tự trị, chất lượng và y đức thay vì cổ phần hóa bệnh viện công
Ung thư vú và vấn đề thông tin y khoa
Uống bia hấp dẫn muỗi
Vaccine phòng chống AIDS hiệu quả đến đâu ?
Vaccine phòng chống cúm A/H1N1
Vi khuẩn gây tiêu chảy và ý nghĩa tiêm chủng
Vi khuẩn tả trong chó ?
Viết văn có thể chữa nhiều loại bệnh
Viết văn và trị liệu
Việc ta, ta cứ làm!
Vài nhận xét về 12 điều lệ y đức của Việt Nam
Vài thông tin cần biết về các chương trình truy tìm ung thư vú
Vài đóng góp quan trọng của người Việt khoa học thống kê
Văn hóa khoa học
Văn hóa tranh luận và vấn đề ngụy biện
Vấn đề sinh tố: kẽm và đồng
Vấn đề truy tìm ung thư phổi và hiệu quả 
Vấn đề y đức trong nghiên cứu tế bào mầm (stem cells)
Vấn đề đo lường melamine
Vấn đề đào tạo tiến sĩ: kinh nghiệm từ Australia
Vắc-xin phòng chống ung thư cổ tử cung
Vắcxin ngừa viêm gan B: cẩn thận với “nhiễu thông tin”
Vắcxin ngừa viêm gan B: kinh nghiệm từ nước ngoài
Vắcxin phòng bệnh sởi - quai bị - Rubella: lợi và hại
Vắcxin phòng chống ung thư cổ tử cung: hiệu quả lâm sàng và kinh tế
Vắcxin phòng ngừa bệnh tả: rất cần thiết
Về chấn chỉnh đào tạo tiến sĩ: Công bố bài báo khoa học là một thách thức lớn ?
Về học vị tiến sĩ
Về một sự hiểu lầm thuật ngữ "prospective"
Về phản ứng phụ của bisphosphonates liên quan đến hoại tử xương hàm và rung nhĩ
Vệ sinh như là một loại hàng hóa
Vị thế của nền khoa học Việt Nam
Xung quang xì căng đan về nghiên cứu tế bào mầm
Xã hội hóa và an toàn thực phẩm
Xếp hạng đại học: cần minh bạch hóa phương pháp
Y học hiện đại và những hứa hẹn
Y học thực chứng: vài nét khái quát
Y Khoa và những nhầm lẫn chết người
Y tế dự phòng: nền tảng của y khoa hiện đại
Y đức và nghiên cứu y học
Ói mửa, cao huyết áp và hôn mê
Ăn chay như là một trị liệu
Ăn chay và loãng xương
Điều trị bệnh dựa vào màu da ?
Điều trị đau dây thần kinh tọa bằng phẫu thuật: không có hiệu quả
Đo lường hiệu suất khoa học
Đánh giá đúng tầm quan trọng của ung thư vú 
Đại dịch H1N1
Đại dịch và đại dịch ảo
Đại dịch đã đến ?
Đạo văn trong hoạt động khoa học
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đằng sau những con số hàm lượng đạm trong sữa
Đế quốc Trà
Đề bạt các chức danh khoa bảng: vài kinh nghiệm từ Úc
Đọc lại 12 điều y đức của Việt Nam
Đồi điều về sữa nhiễm melamine
Đừng quên melamine trong các thực phẩm khác!
Ước vọng 200 ?
“Kỹ năng mềm” cho nhà khoa học
“Sẽ” và “có thể”


Trang nhiều tác giả
Trang riêng của Lê Ngọc Dũng
Trang riêng của Lương Lễ Hoàng
Trang riêng của Nguyễn Bảo Trung
Trang riêng của Nguyễn Hoài Nam
Trang riêng của Nguyễn Hữu Đức
Trang riêng của Nguyễn Văn Tuấn
Trang riêng của Nguyễn Ý Đức
Trang riêng của Nguyễn Đình Nguyên
Trang riêng của Phan Xuân Trung
Trang riêng của Đỗ Hồng Ngọc
Trang riêng của Đỗ Minh Tuấn