NGUYỄN VĂN TUẤN

Đề bạt các chức danh khoa bảng:
vài kinh nghiệm từ Úc

Nguyễn Văn Tuấn

Ở trong nước việc đề bạt chức danh khoa học còn gây ra nhiều tranh cãi.  Trong bài này tôi xin nêu một vài kinh nghiệm của một trường đại học Úc để hi vọng  rút ra vài kinh nghiệm cho các nhà quản lí giáo dục và khoa học.

Các đại học ở Úc và Anh có 4 bậc khoa bảng: lecturer, senior lecturer, associate professor (hay reader), và professor.  Nhưng ở các đại học Mĩ có 3 chức danh professor: đó là assistant professor, associate professor, và professor.  Ở cả hai hệ thống, professor là chức danh cao nhất trong hệ thống học hàm đại học.  Ở Úc, cũng như ở Mĩ, một khi người có chức vụ (position) assistant professor, hay associate professor, hay professor, thì danh xưng (title) vẫn là professor

Đối với người chưa quen với hệ thống khoa bảng, chức danh giáo sư thường được hiểu là dành cho những người làm công việc giảng dạy đại học, nhưng trong thực tế ngày nay, chức danh này còn được tiến phong cho những người làm nghiên cứu khoa học.  Do đó, cũng như nhiều đại học khác, Đại học New South Wales (UNSW) có chính sách công nhận cống hiến của nhiều thành phần khoa bảng khác nhau.  Theo chính sách này, họ đề ra 3 ngạch (track) để đề bạt chức danh giáo sư: ngạch nghiên cứu (research track), ngạch giảng dạy (teaching track), và ngạch hỗn hợp giữa nghiên cứu và giảng dạy. 

Những ngạch này có những tiêu chuẩn tiến phong khác nhau.  Vì thế, ứng viên phải rất cẩn thận chọn ngạch mình muốn được xét duyệt.  Chẳng hạn như nếu ứng viên thấy mình nặng về giảng dạy nhưng chọn ngạch nghiên cứu thì chỉ có chuốc lấy thất bại!  Có những người mà nhiệm vụ dao động giữa nghiên cứu và giảng dạy thì họ sẽ chọn ngạch hỗn hợp.  Qua kết quả trong quá khứ, tỉ lệ thành công từ lecturer lên senior lecturer khá cao (gần 100%), nhưng từ senior lecturer lên associate professor dao động khoảng 70 đến 80%, và từ associate professor lên professor dao động từ 60 đến 70%. 

Tiêu chuẩn

Mỗi chức vụ đều có những tiêu chuẩn riêng, mà những tiêu chuẩn này cũng khác biệt giữa các đại học.  Do vậy, một giáo sư ở trường A chưa chắc sẽ được bổ nhiệm ở trường B.  Tiêu chuẩn đề bạt vào các chức vụ khoa bảng tùy thuộc vào từng ngạch.  Trong ngạch nghiên cứu, có 4 tiêu chuẩn chính: thành tựu nghiên cứu khoa học (research), lãnh đạo (leadership), giảng dạy (teaching), phục vụ (services).  Mỗi tiêu chuẩn được đánh giá bằng 4 bậc như sau:

·         Cống hiến trung bình (sustained contribution) – tức là những đóng góp ở mức độ kì vọng của chức vụ hiện tại;

·         Cống hiến giỏi, tốt (superior contribution) – tức là những đóng góp ở mức trên trung bình;

·         Cống hiến xuất sắc (outstanding contribution) – tức là những đóng góp trên trung bình của chức vụ mà ứng viên muốn được đề bạt;

·         Cống hiến nổi bậc (outstanding plus contribution) – tức là những đóng góp đem lại tên tuổi cho trường đại học, những đóng góp thuộc vào hàng “top 5%” của chuyên ngành.

Về tiêu chí để đề bạt từ associate professor lên professor thì ứng viên phải chứng minh mình ở bậc tối thiểu là xuất sắc về nghiên cứu + trung bình về giảng dạy + trung bình về phục vụ.  Rất khó để xếp một ứng viên vào bậc nào, nhưng càng khó hơn khi trường đòi hỏi mỗi ứng viên phải tự mình đánh giá! 

Mới xem qua thì khá dài dòng và phức tạp như thế, nhưng tiêu chuẩn chính để đề bạt cho giới làm nghiên cứu vẫn là: thành tựu nghiên cứu khoa học, lãnh đạo, và phục vụ.  Chỉ tiêu chính để đánh giá thành tựu nghiên cứu khoa học là số lượng cùng chất lượng các công trình nghiên cứu, và bằng sáng chế. 

Số lượng công trình nghiên cứu.  Không có một qui định cứng nào trên giấy trắng mực đen là phải có bao nhiêu bài báo để đủ tiêu chuẩn đề bạt, nhưng hình như có những “qui ước” bất thành văn mà phần lớn người trong hệ thống khoa bảng đều biết qua:

  • Lecturer phải có >10 công trình đã công bố;
  • Senior lecturer: >20 công trình;
  • Associate professor: >50 công trình;
  • Professor: >80 công trình.

Cần nói thêm rằng những tiêu chuẩn theo qui ước bất thành văn này cũng tùy thuộc vào trường đại học, tậm chí tùy khoa.  Trường lớn và lâu đời thường đòi hỏi cao hơn, trường nhỏ và chưa có tiếng thường có tiêu chuẩn thấp hơn.  Ngay trong một trường, khoa luật có thể có tiêu chuẩn khác với khoa y, và tiêu chuẩn khoa y cũng không giống khoa kĩ thuật.

Những tiêu chuẩn bất thành văn này có vẻ cao hơn so với các trường bên Mĩ mà tôi từng biết qua (tôi chỉ nói trong ngành y).  Chẳng hạn như ở Đại học Duke (một đại học có tiếng trên thế giới) họ có qui định trên giấy trắng mực đen về con số bài báo khoa học để đề bạt như:

  • Assistant professor: >5 công trình;
  • Associate professor: >15 công trình (tối thiểu 3 bài là tác giả chính và 5 bài quan trọng);
  • Professor: >40 công trình (chỉ đánh giá 10 bài quan trọng nhất).

Tuy nhiên, ở các trường danh tiếng như Harvard, Stanford, Yale, UCLA, v.v… mà tôi có đồng nghiệp (và từng làm người bình duyệt đơn đề bạt của họ) thì tôi thấy phần lớn các associate professor đều có trên 50 công trình, và professor đều có trên 100 công trình khoa học và là những người có “high profile” trong chuyên ngành qua những hoạt động trong hiệp hội chuyên môn.

Chất lượng nghiên cứu khoa học.  Hội đồng khoa bảng dựa vào những chỉ số như hệ số ảnh hưởng (impact factor, IF) của tập san và chỉ số H của cá nhân ứng viên.  Không có con số cụ thể về IF để đánh giá chất lượng cao hay thấp, bởi vì IF quá tùy thuộc vào từng bộ môn khoa học, nhưng nói chung, hội đồng chú ý đến những bài báo được công bố trên những tập san hàng đầu trong chuyên ngành.  Chỉ số H rất quan trọng, vì đây là chỉ số quyết định một phần sự thành bại của ứng viên.  Các trường đại học danh tiếng và lớn bên Mĩ thường đòi hỏi ứng viên phải có chỉ số H tối thiểu là 15 (thường là 20) để được đề bạt chức danh professor. 

Không có ngưỡng cụ thể về số bằng sáng chế bao nhiêu để đề bạt, nhưng hội đồng khoa bảng rất chú ý đến những nghiên cứu làm thay đổi định hướng của chuyên ngành, những nghiên cứu mở ra một hướng đi mới cho khoa học, những nghiên cứu mà kết quả được ứng dụng rộng rãi và đem lại lợi ích cho người bệnh cũng như công chúng. 

Tiêu chuẩn lãnh đạo ở đây không phải là lãnh đạo hành chính, mà là đi đầu trong một lĩnh vực nghiên cứu.  Không có những thước đo cụ thể về tiêu chuẩn này, nhưng những “tín hiệu” sau đây được xem là liên quan đến “lãnh đạo”: được mời viết xã luận (editorial), bình luận (commentary), bài tổng quan (invited review), được mời thuyết giảng trong các hội nghị lớn tầm quốc tế (còn gọi là invited lecture, keynote lecture, v.v…) mà ban tổ chức tài trợ hoàn toàn, được mời tham gia soạn thảo chương trình khoa học cho hội nghị, đóng vai trò chủ tọa hội nghị, v.v…

Phục vụ cho chuyên ngành.  Hội đồng thường xem xét đến những đóng góp cho các tập san khoa học trong vai trò phản biện, bình duyệt (referee hay reviewer), hay cao hơn là được mời làm thành viên của ban biên tập cho tập san, hoặc cao hơn là đóng vai trò tổng biên tập và phó biên tập của các tập san khoa học quốc tế.  Phục vụ trong các hiệp hội khoa học cũng được xem là một chỉ tiêu quan trọng.  Ngoài ra, hội đồng cũng xét duyệt đến những cống hiến bình duyệt đơn xin tài trợ, tham gia bình duyệt luận án tiến sĩ cho các đại học nước ngoài, tham gia bình duyệt đơn xin đề bạc của đồng nghiệp nước ngoài.  Đó là những “chỉ tiêu” được xem là đóng góp, phục vụ cho chuyên ngành.

Ngoài các tiêu chuẩn chính trên đây, ứng viên còn phải báo cáo về thành tích thu hút tài trợ cho nghiên cứu (grant, funding), về số nghiên cứu sinh tiến sĩ và hậu tiến sĩ đã đào tạo trong thời gian qua, và những hợp tác quốc gia và quốc tế.  Những “chỉ số” này cũng nói lên một phần mức độ tích cực hoạt động khoa học của ứng viên, nên hội đồng đề bạt cũng xem đó là những tiêu chuẩn cần thiết cho một professor.

Qui trình đề bạt

Qui trình đề bạt nói chung khá đơn giản (ít ra là đơn giản hơn so với Việt Nam), nhưng việc chuẩn bị hồ sơ và dữ liệu mới tốn nhiều thời gian.  Nói tóm lại chỉ có 3 bước chính: đầu tiên là đệ đơn (nộp hồ sơ xin đề bạt), sau đó là bình duyệt, và sau cùng là phỏng vấn ứng viên. 

Hồ sơ đề bạt gồm có 4 phần: (a) một đơn xin đề bạt; (b) một cái mẫu đơn có sẵn để ứng viên liệt kê công trình khoa học; (c) một mẫu đơn có sẵn cho các thông tin hành chính, chủ yếu lí lịch khoa học; và (d) một hồ sơ gồm bản sao những công trình khoa học chính mà ứng viên xem là điểm nổi trong sự nghiệp của mình (họ không đòi phải photocopy hàng trăm hay chục bài báo, họ chỉ muốn xem cao lắm là 5 bài tiêu biểu mà thôi). 

Đơn xin đề bạt.  Ứng viên phải soạn một đơn xin đề bạt (application for promotion).  Trong đơn này, ứng viên muốn viết gì thì viết, nhưng phải giải trình thành tích khoa học của mình một cách cụ thể dựa theo những tiêu chuẩn trên.  “Cụ thể” ở đây có nghĩa là phải trình bày những số liệu, biểu đồ, phân tích nhằm thuyết phục hội đồng khoa bảng rằng ứng viên đạt tiêu chuẩn của một giáo sư.  Đọc qua các đơn này người đọc có cảm giác như đọc một bài báo khoa học với đầy đủ con số, biểu đồ, thậm chí có cả video!  Nói chung, một người viết đơn giỏi thường chia nội dung ra 5 phần bám sát vào các tiêu chuẩn đề cập trên:

·         Nghiên cứu khoa học và thành tựu (research achievements and outputs).  Trong phần này, ứng viên trình bày những thành tựu chính của mình là gì, đã công bố bao nhiêu bài báo khoa học, chỉ số trích dẫn (citation index), hệ số ảnh hưởng (impact factor), chất lượng nghiên cứu, mức độ ảnh hưởng của nghiên cứu, và khả năng thu hút tài trợ cho nghiên cứu.

·         Lãnh đạo (leadership).  Một professor phải là một nhà lãnh đạo khoa học.  Do đó, trong phần này, ứng viên phải trình bày bằng chứng cho thấy mình là chuyên gia hạng đầu ngành, được cộng đồng khoa học quốc tế công nhận qua những bằng chứng cụ thể như được mời nói chuyện trong các hội nghị mà do ban tổ chức chi trả, hay được mời làm chủ tọa trong các hội nghị quốc tế. 

·         Giảng dạy và đào tạo (teaching and mentorship).  Trong phần này, ứng viên phải trình bày dữ liệu về số sinh viên cấp thạc sĩ và tiến sĩ mà mình đã hướng dẫn thành công.  Những sinh viên này hiện giờ ở đâu, làm gì, thành đạt gì trong sự nghiệp.  Ngoài ra, ứng viên còn phải trình bày số nghiên cứu sinh hậu tiến sĩ (postdoc) đến “đầu quân” làm việc cho nhóm của mình, và sự nghiệp của các postdoc này hiện nay như thế nào.  Trong phần này, ứng viên cũng có thể viết về những khóa học ngắn hạn hay những seminar mang tính giáo dục cho đồng nghiệp mà ứng viên đã thực hiện.

·         Phục vụ (services).  Một nhà khoa bảng không phải chỉ ngồi trong tháp ngà, mà phải có cống hiến cho xã hội và cho chuyên ngành.  Do đó, trong phần này, ứng viên phải trình bày bằng chứng về những đóng góp của mình cho chuyên ngành qua những việc làm như bình duyệt bài báo khoa học cho các tập san và phục vụ trong ban biên tập tập san. Ngoài ra, ứng viên phải cho biết trong thời gian qua đã có đóng góp gì cho xã hội qua những lần xuất hiện trên báo chí và hệ thống truyền thông, đóng góp gì cho chính sách y tế hoặc chính sách khoa học của Nhà nước, hay những đóng góp cho bạn bè và đồng nghiệp quốc tế.

·         Định hướng tương lai (future direction).  Trong phần này, ứng viên phải trình bày những định hướng trong tương lai nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của chính mình, và góp phần nâng cao tính cạnh tranh của trường đại học mình đang phục vụ.

Tất cả những điểm trên đây chỉ giới hạn trong vòng 10 trang giấy, kể cả 1 trang tóm lược (summary).  Trang tóm lược này rất quan trọng, vì phần lớn người bình duyệt chỉ đọc trang này để đánh giá xem ứng viên có xứng đáng hay không, rồi mới đọc tiếp 9 trang sau.  Ứng viên chỉ được viết đơn với kiểu chữ có kích thước font là 11 hay 12, chứ không cho “ăn gian” dùng font nhỏ hơn để “chèn” nhiều nội dung hơn ứng viên khác!  Qui định 10 trang và font chữ này rất nghiêm ngặc, nếu ứng viên viết 11 trang họ sẽ tự động bỏ trang cuối cùng, hay viết không đúng font chữ thì đơn được trả lại và chờ năm sau!  

Danh sách công trình khoa học.  Ngoài đơn xin đề bạt, ứng viên phải liệt kê tất cả những công trình nghiên cứu khoa học đã được công bố.  Những công trình này không tính đến những bài báo trong các hội nghị (“abstracts” hay “proceedings”).  Mỗi công trình phải được viết theo kiểu tài liệu tham khảo (tức tên tác giả, tựa đề bài báo, tập san, năm và số trang).  Ngoài những chi tiết này, ứng viên còn phải cho biết vai trò của mình trong công trình là gì, hệ số ảnh hưởng (impact factor) của tập san là bao nhiêu, và bài báo đã được trích dẫn bao nhiêu lần tính từ ngày công bố.  Chính hai chỉ số sau này làm cho ứng viên phải tốn rất nhiêu công sức và thời gian, vì phải truy tìm trong cơ sở dữ liệu của Viện thông tin khoa học (ISI).  Tuy nhiên, trường đại học sẵn sàng tài trợ cho chi phí này, nên ứng viên không tốn tiền để thu thập thông tin.  Kinh nghiệm của tôi là có thể nhờ đồng nghiệp hay thư viện giúp đỡ thì sẽ tiết kiệm nhiều thì giờ cho các việc khác.

Trong form này, ứng viên còn phải đề ra 5 công trình tiêu biểu cho sự nghiệp của mình.  Ứng viên có thể trình bày ngắn gọn về ý nghĩa và tầm quan trọng của từng công trình, mình đóng vai trò gì trong đó, và đã được cộng đồng khoa học đón nhận ra sao.  Tất nhiên, tất cả lí giải đều phải kèm theo bằng chứng cụ thể về chỉ số trích dẫn, chứ không phải nói suông. 

Ứng viên phải nộp bản sao của những công trình nghiên cứu tiêu biểu này (và một số công trình khác mà ứng viên thấy cần thiết) tại văn phòng của khoa trưởng.  Việc nộp các bản sao này nhằm mục đích nếu thành viên trong hội đồng khoa bảng muốn đọc hay đánh giá thì có thể xem qua những bài báo.

Bình duyệt

Bình duyệt đơn được thực hiện qua 2 phía: cá nhân và đại học.  Về phía cá nhân, ứng viên có quyền chọn cho mình 4 người bình duyệt (referee), và trường đại học có trách nhiệm phải gửi hồ sơ đến 4 người bình duyệt này.  Bốn người này có thể là đồng nghiệp của ứng viên, và cũng có thể là người nước ngoài hay ngoài trường đại học. 

Về phía đại học, ứng viên phải đề cử 4-6 người bình duyệt cho trường đại học chọn.  Phải nói rõ tại sao đề cử mấy người này.  Dựa vào danh sách này, hội đồng đề bạt sẽ chọn 2 hoặc 3 người bình duyệt hồ sơ.  Ứng viên không biết hội đồng sẽ chọn ai trong danh sách.  Phần lớn trường hợp, hội đồng chỉ chọn các nhà khoa học nước ngoài, chứ ít khi nào chọn người trong nước.

Như vậy, tính trung bình một đơn đề bạt được 6-7 người xét, trong số này ứng viên biết chắc 4 người (mà mình chọn) còn 2-3 người kia thì ẩn danh.  Mỗi người bình duyệt sẽ viết một báo cáo đánh giá ứng viên dựa vào các tiêu chuẩn (nghiên cứu khoa học, giảng dạy, lãnh đạo, phục vụ) và tiêu chí (trung bình, giỏi, xuấc sắc, nổi trội) mà trường đại học đưa ra.  Một trong những điểm mà trường yêu cầu người bình duyệt phải chỉ ra cho được là ứng viên tương đương với ai (cụ thể là những giáo sư nào, tên tuổi, ở đâu, địa chỉ) trong ngành trên thế giới.  Đây cũng là cách trường muốn kiểm tra và so sánh thêm về thành tích khoa học của ứng viên.  Đến phần cuối của báo cáo bình duyệt, hội đồng khoa bảng yêu cầu người bình duyệt phải xếp hạng ứng viên vào hạng mấy trên thế giới (chuyên ngành): top 1%, 5% 10%, hay 20%. 

Báo cáo của những người này rất quan trọng.  Chỉ cần 1 người chất vấn là đơn của ứng viên có thể có vấn đề.  Chỉ một người trong số 6-7 người bình duyệt đó đánh giá ứng viên không xứng đáng với chức danh thì coi như ứng viên sẽ thất bại trong đề bạt.

Do đó, việc chọn người bình duyệt rất quan trọng.  Tôi đã từng nghe những câu chuyện thật nhưng có khi đau lòng, về tình đồng nghiệp có khi biến thành thù địch.  Có một câu chuyện nổi tiếng mới xảy ra khoảng thập niên 1990s, và vẫn còn lưu truyền trong giới khoa bảng như là một bài học.  Câu chuyện về một chuyên gia miễn dịch học xin đề bạt lên chức vụ giáo sư, anh ta tiến cử 4 người bình duyệt cho mình, những người này anh ta quen biết khá thân và thậm chí từng làm chung trong vài dự án.  Khi báo cáo bình duyệt về, có một báo cáo nói rất tốt về anh, nhưng vị đồng nghiệp chẳng hiểu vì lí do gì viết một câu cực kì bất lợi: “thành tích khoa học của giáo sư A rất tốt, nhưng nếu giáo sư ở trường tôi thì ông sẽ chẳng khó thành giáo sư!”  Chỉ một câu như thế, hội đồng khoa bảng đã không đề bạt anh ta.  Bài học quan trọng là: chọn người bình duyệt cẩn thận!

Sau khi nhận được các báo cáo này, hội đồng khoa bảng sẽ tổ chức một buổi phỏng vấn ứng viên.  Hội đồng sẽ chọn 7-8 giáo sư, trong số này 3 người ngoài trường và ngoài khoa, để làm phỏng vấn ứng viên.  Buổi phỏng vấn chỉ 40-50 phút, và thường đặt dưới sự chủ tọa của khoa trưởng.  Phỏng vấn đều có thu âm và ghi chép lại, để phòng ngừa khi có khiếu nại thì Hội đồng đề bạt có thể xem lại những câu hỏi và trả lời xem có công bằng hay không.

Từ ngày nộp đơn đến ngày phỏng vấn là khoảng 6 tháng.  Sau khi phỏng vấn, họ sẽ viết một đề nghị lên hiệu trưởng đại học để chính thức công bố kết quả.  Ứng viên còn phải chờ 1 tháng sau thì mới có kết quả chính thức, và kết quả này do hiệu trưởng đại học công bố cho toàn trường biết.

Nếu thất bại (không được đề bạt), ứng viên có quyền khiếu nại và yêu cầu đánh giá lại.  Trong trường hợp này (hiếm xảy ra), hội đồng khoa bảng sẽ chuyển hồ sơ của ứng viên đến một hội đồng khác mà trong thực tế là một hội đồng khoa bảng mới để xem xét hồ sơ.  Trong lịch sử của khoa y UNSW, chỉ có một trường hợp khiếu nại (vì có dấu hiệu cho thấy một người bình duyệt kì thị và ganh tị) được xem xét lại và sau đó ứng viên thành công được đề bạt.

Những bài học chung

Nhìn qua tiêu chuẩn và qui trình trên, tôi nghĩ có thể rút ra một số bài học đáng chú ý.  Nhưng “bài học” lớn hơn, theo tôi, là qui trình và thủ tục làm việc mà các nhà quản lí khoa học và khoa bảng trong nước có thể rút ra và tham khảo. 

Thứ nhất là không có những tiêu chuẩn cứng nhắc theo kiểu cân đo đong đếm.  Trái với các tiêu chuẩn đề bạt trong nước về đề bạt chức danh khoa bảng bằng cách tính điểm bài báo, ở nước ngoài hay cụ thể là UNSW người ta không có những điểm cụ thể, mà chỉ đánh giá mang tính nửa lượng nửa chất.  Về lượng, họ xem xét đến hệ số ảnh hưởng của tập san, chỉ số trích dẫn của các bài báo khoa học đã công bố, và nhất là chỉ số H của ứng viên.  Họ không đề ra những con số bài báo cụ thể phải là bao nhiêu để được đề bạt.  Những chỉ số chỉ mang tính tham khảo, vì họ còn phải đánh giá số lượng bài báo được mời đóng góp hay những lần giảng tại hội nghị quốc tế được ban tổ chức mời và chi trả.

Thứ hai là vận dụng tối đa hệ thống bình duyệt (peer review).  Không như ở một số nước việc bình duyệt chức danh khoa bảng được thực hiện bằng cách bỏ phiếu kín, ở UNSW và nhiều trường bên Mĩ, người ta sử dụng hệ thống bình duyệt do chính các đồng nghiệp của ứng viên làm.  Triết lí đằng sau cách làm này là chỉ có đồng nghiệp cùng chuyên môn với ứng viên là những người đánh giá chính xác nhất về thành tựu và uy tín của ứng viên.  Ngoài ra, để cho đồng nghiệp trong và ngoài đánh giá còn đảm bảo tính khách quan trong quá trình đề bạt. 

Thứ ba là tính minh bạch. Tất cả các chi tiết về thủ tục và tiêu chuẩn đề bạt cho từng chức vụ đều được phổ biến trên internet.  Họ còn cho biết tiêu chí cho từng cấp bậc để ứng viên chuẩn bị.  Ngoài ra, danh sách những người trong hội đồng phỏng vấn và lĩnh vực nghiên cứu của họ cũng được công bố cho ứng viên biết trước.  Điều đáng nói là thành phần hội đồng phỏng vấn được tuyển chọn sao cho đảm bảo bình đẳng giới tính, khoa học và ngoài khoa học, trong và ngoài đại học, v.v… Tính minh bạch còn thể hiện qua qui định ứng viên có quyền được xem các báo cáo bình duyệt của đồng nghiệp.  Nhưng trong thực tế, rất ít ứng viên muốn đọc những báo cáo này, bởi vì thường thường họ đều được đồng nghiệp cho biết trước! 

Thứ tư là chuẩn bị tốt cho ứng viênTrường đại học xem đội ngũ professor là một nguồn tài nguyên quan trọng (một critical mass), cho nên họ có trách nhiệm phải vun bồi đội ngũ này.  Tôi chỉ có thể nói họ chuẩn bị rất tốt cho ứng viên.  Trước khi đệ đơn và phỏng vấn, UNSW tổ chức đến 2 buổi seminar cho công việc này.  Buổi seminar thứ nhất nói về thủ tục và hồ sơ xin đề bạt.  Trong  seminar này, họ mời phó hiệu trưởng và những người đã từng được đề bạt trước đây đến nói chuyện và chia sẻ kinh nghiệm về cách trình bày đơn xin đề bạt và cách trình bày hồ sơ sao cho có hiệu quả.  Tôi vẫn còn vài mẫu đơn, nếu bạn nào cần tôi sẽ gửi cho để dựa vào đó mà viết.

Để đảm bảo buổi phỏng vấn thành công, một seminar thứ hai về cách trả lời phỏng vấn được thực hiện rất công phu. Họ mời những người từng được đề bạt trước đây nói về những “thủ thuật”, phương pháp, thậm chí cách thể hiện cơ thể (body language) trong phỏng vấn; cách biến câu hỏi khó thành câu trả lời thuận lợi cho mình.  Sau đó, họ tổ chức một cuộc phỏng vấn thử (rehearsal interview).  Đối với tôi, buổi tập dượt phỏng vấn thử (rehearsal interview) thật có ích, bởi vì qua đó, tôi có thể chuẩn bị những câu hỏi và biết cách mình hành xử ra sao trong khi trả lời phỏng vấn.  Điều làm tôi ấn tượng là họ chỉ dẫn rất nhiệt tình, chứ không dấu diếm gì cả.  Ngay cả những câu hỏi cũng được chuẩn bị trước rất bài bản!

Ở trong nước, thời gian gần đây, có nhiều phàn nàn về thủ tục tiến phong các chức danh khoa bảng như giáo sư hay phó giáo sư.  Người ta cho rằng thủ tục quá rườm rà mà lại thiếu minh bạch.  Lại có người cho rằng tiêu chuẩn tiến phong không hợp lí (như tính số điểm bài báo nước ngoài bằng điểm bài báo trong nước), và do đó, vô hình chung làm cho chức danh giáo sư bị hạ thấp hay xem thường.  Gs Hoàng Tụy nói nếu làm đúng thì chắc có đến 1/3 giáo sư hay phó giáo sư bị bãi nhiệm!

Nhìn qua thủ tục đề bạt bên này và bên VN tôi thấy cũng có vài khác biệt đáng kể.  Khác biệt thứ nhất là ở bên này không có “đăng kí” tại cơ sở (tức trường) để được đề bạt, có lẽ vì chức danh khoa bảng ở bên này là do trường tiến phong, còn ở trong nước thì do một hội đồng quốc gia xét.  Ở bên này có phỏng vấn ứng viên, nhưng ở trong nước thì không có phỏng vấn.  Ở ngoài này không có bỏ phiếu kín, mà chủ yếu là qua bình duyệt của đồng nghiệp. 

Còn về tiêu chuẩn cũng có khác nhau khá nhiều giữa Việt Nam và ngoài này.  Chẳng hạn như ở VN người ta tính toán điểm chi li cho từng bài báo, còn ở ngoài này thì chỉ dựa vào các chỉ số như H hay chỉ số trích dẫn như là tham khảo chứ không phải để định đoạt được hay không được tiến phong. 

Hi vọng rằng những kinh nghiệm trên đây cung cấp vài thông tin cần thiết cho các nhà quản lí giáo dục trong nước trong quá trình hoàn thiện qui trình tiến phong các chức danh khoa bảng và giúp nước ta từng bước hội nhập với quốc tế.

Chú thích:

Có thể xem qua qui trình đề bạt tại UNSW ở đây.  Còn về tiêu chuẩn ở các trường y bên Mĩ có thể xem qua các tài liệu sau đây: Duke University, Harvard University, Yale University, UCLA.

 

 


200 năm Darwin
Agent Orange: collateral damage
Alexandre Yersin và Việt Nam
Bàn về hiệu quả vắcxin: lâm sàng và kinh tế
Bàn về vấn đề dịch thuật và đánh giá năng suất khoa học
Béo phì ở người Á châu
Béo phì ở trẻ em và virus
Bình luận từ Dr. Yến
Bưởi không gây ung thư vú
Bảo hiểm y tế cộng đồng
Bảo tồn môi sinh: Chiến tranh giữa hai thế giới
Bằng chứng khoa học thay vì lên lớp
Bệnh tả: không để Việt Nam thành Bangladesh thứ hai
Bệnh tật nhìn từ quan điểm của thuyết tiến hóa
Bệnh xơ hóa cơ delta qua y văn thế giới
Bổ sung kẽm và điều trị bệnh tả
Bộ gen trong cây lúa và triển vọng
Bộ Y tế phản ứng chậm với rét đậm
Chiều cao của người Việt
Chiều cao và tổng thống Mĩ
Cholesterol và bệnh Tim
Cholesterol: hung thần hay bạn?
Chuột và... các nhà khoa học
Chính sách y tế cần dựa vào bằng chứng khoa học
Chạy đua vũ khí và … dịch cúm
Chất béo, cholesterol, bệnh tim và statins: xét lại bằng chứng
Chất keo xã hội: hormones
Chất lượng nghiên cứu dịch tễ học và y tế cộng đồng của Việt Nam qua chỉ số H
Chất lượng nghiên cứu khoa học ở Việt Nam qua chỉ số trích dẫn
Chất vấn chuẩn chẩn đoán béo phì
Chế độ ăn uống với nhiều thịt động vật và nguy cơ tử vong
Chủng vi khuẩn tả hiện nay ở nước ta có phải mới xuất hiện?
Cuộc chiến hóa học phi pháp lớn nhất trong lịch sử chiến tranh
Câu chuyện y học: Leptin và béo phì
Có bao nhiêu bác sĩ viết chữ khó đọc
Có nên tập trung vào vi khuẩn E. coli ?
Có thể xảy ra đại dịch cúm gia cầm?
Công cụ đơn giản để chẩn đoán tiểu đường ở người Đông Nam Á
Cúm gia cầm và nhiễu thông tin
Cúm H1N1: biết và chưa biết
Cơ hội để khép lại một chương lịch sử đau lòng
Cần hiểu đúng về Ung thư và nguy cơ ung thư
Cần qui ước đạo đức cho kĩ nghệ thực phẩm
Cần tiêm chủng ngừa bệnh tả vùng có nguy cơ cao
Cần điều tra về chất lượng bệnh viện
Cổ phần hóa bệnh viện công và chất lượng
Cổ phần hóa: chưa phải cách duy nhất
DDT và vấn đề cân đối giữa lợi ích và nguy hiểm
Dinh dưỡng: một nguồn thuốc quí giá
DNA không nói dối, nhưng DNA có thể nói … sai
Dịch cúm gà: hoang mang và sự thật khoa học
Dịch cúm heo và tác hại kinh tế
Dịch tay-chân-miệng
Dịch tả: gọi đúng tên để phòng ngừa
Dựa vào khoa học, đừng dựa vào niềm tin!
E. coli – vài câu hỏi thông thường
Gen và bệnh tật
Ghen tuông dưới cái nhìn của tâm lí y khoa
Gian lận trong nghiên cứu khoa học: áp lực kinh tế và cơ chế bình duyệt
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC: KHƠI DẬY VÀ NUÔI DƯỠNG TÍNH HAM HỌC
Giải nobel y học hay sinh lí học 2007 và lợi ích cho người bệnh
Giải Nobel Y sinh học 2008 và những tranh chấp khoa học
Giải Nobel y sinh học 2010 vinh danh người đem niềm vui cho người vô sinh
Giải Nobel y sinh học năm 2005: Một cõi đi về với vi khuẩn
Giải Nobel y sinh học: Nhìn lại quãng đường 100 năm
Giải phẫu ghép mặt và vấn đề y đức
Gout ở xương sống
Gãy xương và tử vong: một vấn nạn y tế cộng đồng
Hiệu quả vắcxin có nghĩa gì?
Hoa vàng mấy độc
Hàm lượng đạm trong sữa “siêu thấp” hay “siêu cao”?
Hóa chất khai hoang trong cuộc chiến Viện Nam: Qui mô và tầm ảnh hưởng
Hướng đi nào để giải quyết vấn đề chất độc da cam ở Việt Nam
Hậu “mắm tôm được minh oan”: bằng chứng khoa học, nhà xí và nghiên cứu
Hệ Thống Học Vị Và Học Hàm Khoa Học Ở Vài Nước Tây Phương
Hợp tác khoa học kiểu nhảy dù - Nguyễn Văn Tuấn
Khi bác sĩ trẻ “khoe” quá nhiều
Khoa học và ngụy khoa học: một vài đặc điểm và khác biệt cần biết
Khoa học, xã hội, và rủi ro
Không thể thành Phù Đổng trong 20 năm!
Khẩu trang và phòng chống cúm A/H1N1
Kiểm định giả thuyết mắm tôm và vi khuẩn tả
Liều lượng melamine bao nhiêu là an toàn?
Lí lịch sinh học của heo và dấu vết văn minh nông nghiệp Đông Nam Á
Lượng giá mạng sống con người
Lợi ích của vitamin D
Miệng nhà quan
Mắm tôm có phải là “thủ phạm” gây bệnh tả? Xét lại bằng chứng khoa học
Mắm tôm và chuyện xin lỗi
Mắm tôm và dịch tả: phân biệt yếu tố nguy cơ và nguyên nhân
Mắm tôm vô tội!
Mắm tôm, nguyên nhân và hệ quả
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Một bệnh hiếm X-linked recessive hypoparathyroidism
Một lần đi phỏng vấn
Một năm nhìn lại
Một phán quyết thiếu cơ sở khoa học
Một vài hiểu lầm tai hại
Một vài ngộ nhận về nghiên cứu khoa học
Một vài vấn đề về qui định chức danh giáo sư ở Việt Nam
Một vụ Madoff trong y khoa: Lại một ngôi sao y khoa rơi rụng!
Mỡ trắng, mỡ nâu
Mỡ  trong máu, huyết áp, và  tiểu đường
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nguyên nhân bệnh tiêu chảy
Ngó trên tay điếu thuốc đã lụi dần
Người cao tuổi và sự hạn chế của y khoa
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Nhân chuyện dịch tả nhớ lại John Snow
Nhân câu chuyện điện não đồ xét nghiệm nghiện ma túy:
Nhân năm khỉ_nguồn gốc con người hiện đại
Nhân năm Tý bàn chuyện thí nghiệm trên chuột
Nhìn lại khoa học Việt Nam năm 2008 qua công bố quốc tế
Nhầm lẫn trong y khoa: Khá phổ biến, nhưng ít ai biết!
Những câu hỏi và trả lời về dịch gia cầm
Những sai sót khó tin nhưng có thật
Những sai sót nguy hiểm trong toa thuốc
Những điều khó tin về “Bảy điều khó tin nhất trong y học”
Năm lí do cho mắm tôm “vô tội”
Phán quyết sau cùng: Chất béo không ảnh hưởng đến ung thư và bệnh tim
Phát hiện gien kiểm soát ráy tai: vài bài học về mò kim đáy biển
Phòng chống bệnh phải dựa vào bằng chứng khoa học!
Phòng chống H1N1 bằng rửa tay và khẩu trang: Biện pháp nào hiệu quả hơn?
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao và cân nặng: thiếu cơ sở khoa học và kì thị giới tính
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao: vấn đề giả định và bằng chứng khoa học
Quyền phê phán và trí thức
Quyền được tiếp cận hồ sơ bệnh án
Quản lý chất lượng: Thuốc phòng "tai nạn y khoa"
Rửa tay bằng xà phòng và tiêu chảy
Serotonin có liên quan đến chứng đột tử
Suy dinh dưỡng ở trẻ em: vấn đề của kinh tế
Sàng lọc trẻ sơ sinh trên phạm vi toàn quốc
Tai nạn y khoa trong bệnh viện
Thế nào là một "bài báo khoa học"
Thế nào là “Cơ sở khoa học” ?
Thịt chó là nguyên nhân của bệnh tiêu chảy cấp tính?
Thịt chó và bệnh tả: nguyên nhân và yếu tố nguy cơ
Tiên lượng bệnh Alzheimer bằng protein expression ?
Tiêu chuẩn chất lượng giáo dục đại học
Tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì cho người Việt - Nguyễn Văn Tuấn
Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh đái tháo đường (diabetes mellitus)
Tiêu chuẩn đề bạt giáo sư: Có nên căn cứ vào số lượng bài báo ?
Tiêu chảy cấp tính và bệnh tả: Định danh cho đúng
Truy tìm ung thư bằng mammography từ tuổi 50
Truyền thông và khoa học: Qui ước Ingelfinger
Truyền thông và y tế
Truyền thông, khoa học và … doanh nghiệp
Trà xanh và sức khỏe
Trách nhiệm và nhân đạo trong vấn đề chất độc da cam
Trái chanh và phòng chống bệnh tả
Trả lời những câu hỏi liên quan đến loãng xương
Trọng lượng cơ thể và tử vong ở người Trung Quốc: Ý nghĩa về việc xác định tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì
Tuổi thọ của người dân giảm 10 năm ?
Tác dụng Placebo trong y học: Tâm lí và ý nghĩa
Tình yêu, sắc đẹp nhìn dưới quan điểm di truyền học
Tín hiệu môi trường từ những “làng ung thư”
Tính khoa học và minh bạch đằng sau xét nghiệm doping
Tại sao không phát biểu về nguyên nhân và hệ quả ?
Tại sao uống rượu gây đỏ mặt và nguy cơ ung thư thực quản
Tạo sinh vô tính và cái chết của Thượng đế
Tạo sinh vô tính và vấn đề sinh đạo đức
Tản mạn về SARS
Tỉ lệ tử vong do cúm heo là bao nhiêu ?
Tự trị, chất lượng và y đức thay vì cổ phần hóa bệnh viện công
Ung thư vú và vấn đề thông tin y khoa
Uống bia hấp dẫn muỗi
Vaccine phòng chống AIDS hiệu quả đến đâu ?
Vaccine phòng chống cúm A/H1N1
Vi khuẩn gây tiêu chảy và ý nghĩa tiêm chủng
Vi khuẩn tả trong chó ?
Viết văn có thể chữa nhiều loại bệnh
Viết văn và trị liệu
Việc ta, ta cứ làm!
Vài nhận xét về 12 điều lệ y đức của Việt Nam
Vài thông tin cần biết về các chương trình truy tìm ung thư vú
Vài đóng góp quan trọng của người Việt khoa học thống kê
Văn hóa khoa học
Văn hóa tranh luận và vấn đề ngụy biện
Vấn đề sinh tố: kẽm và đồng
Vấn đề truy tìm ung thư phổi và hiệu quả 
Vấn đề y đức trong nghiên cứu tế bào mầm (stem cells)
Vấn đề đo lường melamine
Vấn đề đào tạo tiến sĩ: kinh nghiệm từ Australia
Vắc-xin phòng chống ung thư cổ tử cung
Vắcxin ngừa viêm gan B: cẩn thận với “nhiễu thông tin”
Vắcxin ngừa viêm gan B: kinh nghiệm từ nước ngoài
Vắcxin phòng bệnh sởi - quai bị - Rubella: lợi và hại
Vắcxin phòng chống ung thư cổ tử cung: hiệu quả lâm sàng và kinh tế
Vắcxin phòng ngừa bệnh tả: rất cần thiết
Về chấn chỉnh đào tạo tiến sĩ: Công bố bài báo khoa học là một thách thức lớn ?
Về học vị tiến sĩ
Về một sự hiểu lầm thuật ngữ "prospective"
Về phản ứng phụ của bisphosphonates liên quan đến hoại tử xương hàm và rung nhĩ
Vệ sinh như là một loại hàng hóa
Vị thế của nền khoa học Việt Nam
Xung quang xì căng đan về nghiên cứu tế bào mầm
Xã hội hóa và an toàn thực phẩm
Xếp hạng đại học: cần minh bạch hóa phương pháp
Y học hiện đại và những hứa hẹn
Y học thực chứng: vài nét khái quát
Y Khoa và những nhầm lẫn chết người
Y tế dự phòng: nền tảng của y khoa hiện đại
Y đức và nghiên cứu y học
Ói mửa, cao huyết áp và hôn mê
Ăn chay như là một trị liệu
Ăn chay và loãng xương
Điều trị bệnh dựa vào màu da ?
Điều trị đau dây thần kinh tọa bằng phẫu thuật: không có hiệu quả
Đo lường hiệu suất khoa học
Đánh giá đúng tầm quan trọng của ung thư vú 
Đại dịch H1N1
Đại dịch và đại dịch ảo
Đại dịch đã đến ?
Đạo văn trong hoạt động khoa học
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đằng sau những con số hàm lượng đạm trong sữa
Đế quốc Trà
Đề bạt các chức danh khoa bảng: vài kinh nghiệm từ Úc
Đọc lại 12 điều y đức của Việt Nam
Đồi điều về sữa nhiễm melamine
Đừng quên melamine trong các thực phẩm khác!
Ước vọng 200 ?
“Kỹ năng mềm” cho nhà khoa học
“Sẽ” và “có thể”


Trang nhiều tác giả
Trang riêng của Lê Ngọc Dũng
Trang riêng của Lương Lễ Hoàng
Trang riêng của Nguyễn Bảo Trung
Trang riêng của Nguyễn Hoài Nam
Trang riêng của Nguyễn Hữu Đức
Trang riêng của Nguyễn Văn Tuấn
Trang riêng của Nguyễn Ý Đức
Trang riêng của Nguyễn Đình Nguyên
Trang riêng của Phan Xuân Trung
Trang riêng của Đỗ Hồng Ngọc
Trang riêng của Đỗ Minh Tuấn