NGUYỄN VĂN TUẤN

Phòng chống H1N1 bằng rửa tay và khẩu trang: Biện pháp nào hiệu quả hơn?

Nguyễn Văn Tuấn

Hôm nay (5/8/09) có một nghiên cứu rất quan trọng từ Hồng Kông (công bố trên tập san Annals of Internal Medicine) mà tôi nghĩ các quan y tế trong nước nên tìm đọc để biết rằng những gì tôi viết về khẩu trang trong các bài trước đây là đúng và có cơ sở khoa học. 

Ở đây, vì thiếu thì giờ, nên tôi chỉ tóm lược vài nét chính của nghiên cứu này, và hẹn sẽ quay lại bình luận chi tiết hơn.  Ý tưởng của họ rất đơn giản.  Họ tìm những bệnh nhân bị nhiễm virus H1N1, rồi sau đó phân nhóm theo hộ gia đình.  Họ tìm được 407 bệnh nhân.  Sau đó họ tìm đến nhà của bệnh nhân (tức 407 hộ gia đình).  Bước kế tiếp họ chia ngẫu nhiên thành 3 nhóm:

  • Nhóm A là nhóm chứng, gia đình được tuyên truyền về bệnh cúm A/H1N1 và vài chỉ dẫn về ăn uống và lối sống. 
  • Nhóm B là nhóm được chỉ dẫn cách rửa tay thường xuyên.
  • Nhóm C là nhóm được chỉ dẫn cách rửa tay thường xuyên và đeo khẩu trang.

Kết quả ra sao?  Chỉ số mà họ lấy làm thước đo hiệu quả là tỉ lệ tấn công (attack rate), tức là tỉ lệ người bị nhiễm virus H1N1 trong thời gian theo dõi.  Tính chung, tỉ lệ tấn công của 3 nhóm gộp lại là 8% (tức chỉ có 60 người bị nhiễm trên số 759 cá nhân).  Tỉ lệ tấn công tính trên số hộ là 20% (nói cách khác, trong số 407 hộ, có 20% hộ có người bị nhiễm mới). Cả hai tỉ lệ này cũng tương đương với các nghiên cứu trước.

Khi phân tích theo nhóm, các nhà nghiên cứu thấy tỉ lệ tấn công trong nhóm A (nhóm chứng) là 24%, nhóm B (rửa tay) là 14%, và nhóm C (rửa tay + khẩu trang) là 18%.  Kết quả này cho thấy nhóm rửa tay có tỉ lệ thấp nhất (và khác biệt với nhóm chứng có ý nghĩa thống kê).  Còn nhóm rửa tay + khẩu trang không có hiệu quả so với nhóm rửa tay và nhóm chứng.  Họ còn làm nhiều phân tích khác nữa, nhưng kết quả không thay đổi bao nhiêu so với những kết quả tôi vừa trình bày. 

Nói cách khác, nghiên cứu này một lần nữa, cho thấy đeo khẩu trang không có hiệu quả phòng chống virus cúm H1N1 trong cộng đồng.  Tuy nhiên, rửa tay thường xuyên có thể giảm nguy cơ lây nhiễm từ 24% xuống còn 14% (tức giảm 42%).  Kết quả này có ý nghĩa đối với Việt Nam, nơi mà cơn sốt khẩu trang đang làm hao tổn ngân sách gia đình của nhiều người. 

Nếu khoa học là một kim chỉ nam, tôi nghĩ những ai khuyên bà con đi mua và đeo khẩu trang nên xem lại khuyến cáo của mình, và những bà con nào đang tính mua khẩu trang cũng nên tiết kiệm số tiền đó cho những chuyện cần thiết hơn.   

Ghi thêm:

Có một bạn đọc viết thư hỏi: “Xin vui lòng cho biết đường link đến báo cáo trên. Môt vài công bố của Annals of Internal Medicine cho thấy mang mask sớm khi người nhà bị nhiễm cúm giúp giảm nguy cơ mắc bệnh.

http://edition.cnn.com/2009/HEALTH/08/03/face.mask.flu/index.html”.  Tôi xin trả lời như sau:

1. Thật ra thì Annals of Internal Medicine chỉ công bố một bài báo về khẩu trang và vệ sinh tay mà thôi.  Trước đó, có hai nghiên cứu khác nhưng công bố trên các tập san chuyên về bệnh truyền nhiễm.  Tập san Annals of Internal Medicine thuộc vào hàng “danh giá” và đề tài nghiên cứu thời sự, nên bài báo gây được chú ý của dư luận công chúng.

Bài báo đó chưa đăng trên báo giấy mà chỉ online thôi.  Địa chỉ là:

http://www.annals.org/cgi/content/full/0000605-200910060-00142v1

2.  Đúng là bài báo trên website CNN có tiêu đề “Study: Face masks seem to protect against flu” (nghiên cứu: khẩu trang có vẻ phòng chống cúm), nhưng cũng như bao vấn đề khác, giới báo chí đã không diễn giải đúng kết quả nghiên cứu đó.  Trong nghiên cứu, các tác giả kết luận như sau: “Hand hygiene and facemasks seemed to prevent household transmission of influenza virus when implemented within 36 hours of index patient symptom onset.” (tạm dịch: vệ sinh tay và khẩu trang có vẻ phòng chống lan truyền virus cúm khi được triển khai trong vòng 36 giờ sau khi triệu chứng bắt đầu).  Tôi sẽ quay lại kết luận này dưới đây, nhưng chúng ta thấy rằng tác giả nói “vệ sinh tay và khẩu trang” chứ không phải chỉ “khẩu trang” như tiêu đề của CNN viết.  Các tác giả cũng cẩn thận dùng động từ “seem” chứ không dám khẳng định (tại sao thì tôi sẽ nói sau).  Điều thứ 3 là thời gian 36 giờ, chứ không phải là toàn bộ thời gian nghiên cứu.  Do đó, bài báo trên CNN không phản ảnh đúng những kết quả của nghiên cứu.

3.  Thật ra, ngay cả các tác giả của công trình nghiên cứu cũng tỏ ra thiếu khách quan và rất “lựa chọn” dữ liệu trong câu văn phần kết luận.  Tại sao vậy?  Chúng ta phải xem xét đến số liệu trong bài báo cụ thể, và số liệu thật có thể tóm lược trong bảng sau đây.  Theo kết quả này, mặc dù nhóm rửa tay có tỉ lệ thấp hơn nhóm chứng, và nhóm rửa tay, nhưng sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê.  Thật ra, tất cả các khác biệt đều không có ý nghĩa thống kê. 

Tỉ lệ tấn công tính trên cá nhân

 

 

Nhóm chứng

Nhóm rửa tay

Nhóm rửa tay và khẩu trang

Trị số P

Số ca xác định bởi RT-PCR

10 (6-14)

5 (3-9)

7 (4-11)

0.22

Ca lâm sàng 1

19 (14-24)

16 (2-21)

21 (16-27)

0.40

Ca lâm sàng 2

5 (2-8)

4 (2-6)

7 (4-11)

0.28

 

Chú thích: Số ngoài ngoặc là tỉ lệ (%), số trong ngoặc là khoảng tin cậy 95%.  Ca theo tiêu chuẩn lâm sàng 1 là những ca có ít nhất 2 triệu chứng sau đây: >37.7 độ C, ho, nhức đầu, đau cổ họng, đau cơ bắp. Ca theo tiêu chuẩn lâm sàng 2 là những ca >37.7 độ C và ho (hoặc đau cổ họng).

Nếu dựa vào tiêu chuẩn lâm sàng 1 hay 2, thì nhóm rửa tay và đeo khẩu trang thậm chí có tỉ lệ tấn công còn cao hơn nhóm chứng!  Vì không có sự khác biệt nào đáng kể (hay thậm chí khẩu trang làm tăng nguy cơ nhiễm virus cúm), nên các nhà nghiên cứu bắt đầu hành trình “data fishing” (câu cá).  Họ đặt câu hỏi: nếu biện pháp can thiệp được triển khai sau 36 giờ có người mắc bệnh, thì các biện pháp này có hiệu quả hay không?  Câu trả lời nằm ở bảng sau đây:

Tỉ lệ tấn công tính trên cá nhân ở những hộ mà biện pháp can thiệp được triểu khai trong vòng 36 giờ sau khi có người mắc bệnh

 

 

Nhóm chứng

Nhóm rửa tay

Nhóm rửa tay và khẩu trang

Trị số P

Số ca xác định bởi RT-PCR

12 (7-18)

5 (1-11)

4 (1-7)

0.04

Ca lâm sàng 1

23 (16-30)

11 (5-17)

18 (12-24)

0.03

Ca lâm sàng 2

7 (3-11)

4 (1-7)

7 (3-12)

0.52

 

Chú thích: Số ngoài ngoặc là tỉ lệ (%), số trong ngoặc là khoảng tin cậy 95%.  Ca theo tiêu chuẩn lâm sàng 1 là những ca có ít nhất 2 triệu chứng sau đây: >37.7 độ C, ho, nhức đầu, đau cổ họng, đau cơ bắp. Ca theo tiêu chuẩn lâm sàng 2 là những ca >37.7 độ C và ho (hoặc đau cổ họng).

Như có thể thấy trong bảng trên, nếu lấy tiêu chuẩn số ca được xác định bằng RT-PCR thì 12% người trong nhóm chứng bị nhiễm, còn nhóm rửa tay là 5%, và nhóm rửa tay + khẩu trang là 4%.  Hai nhóm can thiệp (rửa tay và rửa tay + khẩu trang) có tỉ lệ thấp hơn nhóm chứng, với trị số P = 0.04.  Nếu lấy tiêu chuẩn lâm sàng 1, hai nhóm can thiệp cũng có tỉ lệ thấp hơn nhóm chứng.  

Nhưng không có sự khác biệt nào giữa nhóm rửa tay và nhóm rửa tay + khẩu trang.  Thật ra, có tín hiệu cho thấy nhóm rửa tay + khẩu trang có tỉ lệ tấn công cao hơn nhóm rửa tay!  Nói cách khác, khẩu trang không có hiệu quả phòng chống virus cúm hơn rửa tay. 

Thế nhưng các nhà nghiên cứu bỏ qua kết quả chính, mà chỉ nói đến kết quả 36 giờ.  HỌ cũng bỏ qua kết quả của nhóm rửa tay mà chỉ nói đến nhóm rửa tay + khẩu trang!  Họ viết “vệ sinh tay và khẩu trang có vẻ phòng chống lan truyền virus cúm khi được triển khai trong vòng 36 giờ sau khi triệu chứng bắt đầu”, nhưng đáng lẽ họ phải viết thêm rằng “vệ sinh tay có vẻ phòng chống lan truyền virus cúm, nhưng đeo khẩu trang không đem thêm lợi ích phòng chống cúm so với rửa tay.  Tuy nhiên hiệu quả chỉ quan sát được trong vòng 36 giờ sau khi triệu chứng bắt đầu, chứ không phải toàn thời gian nghiên cứu.”

Tại sao các tác giả có vẻ khiêm tốn sử dụng động từ “seemed” mà còn dùng thì quá khứ chứ không dám viết “seem”.  Lí do đơn giản là dữ liệu của họ còn “yếu”, và vấn đề tuân thủ theo qui trình nghiên cứu của bệnh nhân cũng kém.  Nhưng điều quan trọng nhất bắt buộc họ phải khiêm tốn là vấn đề kiểm định quá nhiều giả thuyết.  Họ có 3 nhóm can thiệp, 3 chỉ số lâm sàng (RT-PCR, tiêu chuẩn lâm sàng 1, lâm sàng 2), và hai tiêu chí (toàn thời gian và 36 giờ).  Như vậy, họ có thể làm tất cả 27 so sánh!  Theo qui ước thống kê, mỗi so sánh họ có xác suất đúng là 95% (hay 0.95), vậy câu hỏi đặt ra là trong số 27 so sánh này, xác suất có ít nhất là 1 kết quả có ý nghĩa thống kê hoàn toàn ngẫu nhiên là bao nhiêu?  Rất dễ dàng: câu trả lời là 1 – 0.95^27 = 0.75.  Nói cách khác, cái kết quả mà các nhà nghiên cứu cho là có ý nghĩa thống kê (P = 0.04) đó có thể chỉ do ngẫu nhiên, chứ chẳng dính dáng gì đến hiệu quả của khẩu trang + rửa tay cả!  Thật vậy, nếu phân tích một cách nghiêm chỉnh, tất cả những gì mà tác giả trình bày đều không có ý nghĩa thống kê.  Đó chính là lí do tại sao họ phải khiêm tốn khi viết câu kết luận.

Nhưng thái độ khiêm tốn đó bị đánh mất khi họ chọn cách viết kết luận một cách chọn lọc, phi khoa học và thiếu khách quan.  Đây cũng là lí do để chúng ta -- độc giả -- không tin bất cứ kết luận của bất cứ một giáo sư tiến sĩ nào, chúng ta phải đòi hỏi bằng chứng, và phải xem xét dữ liệu thật.  

 


200 năm Darwin
Agent Orange: collateral damage
Alexandre Yersin và Việt Nam
Bàn về hiệu quả vắcxin: lâm sàng và kinh tế
Bàn về vấn đề dịch thuật và đánh giá năng suất khoa học
Béo phì ở người Á châu
Béo phì ở trẻ em và virus
Bình luận từ Dr. Yến
Bưởi không gây ung thư vú
Bảo hiểm y tế cộng đồng
Bảo tồn môi sinh: Chiến tranh giữa hai thế giới
Bằng chứng khoa học thay vì lên lớp
Bệnh tả: không để Việt Nam thành Bangladesh thứ hai
Bệnh tật nhìn từ quan điểm của thuyết tiến hóa
Bệnh xơ hóa cơ delta qua y văn thế giới
Bổ sung kẽm và điều trị bệnh tả
Bộ gen trong cây lúa và triển vọng
Bộ Y tế phản ứng chậm với rét đậm
Chiều cao của người Việt
Chiều cao và tổng thống Mĩ
Cholesterol và bệnh Tim
Cholesterol: hung thần hay bạn?
Chuột và... các nhà khoa học
Chính sách y tế cần dựa vào bằng chứng khoa học
Chạy đua vũ khí và … dịch cúm
Chất béo, cholesterol, bệnh tim và statins: xét lại bằng chứng
Chất keo xã hội: hormones
Chất lượng nghiên cứu dịch tễ học và y tế cộng đồng của Việt Nam qua chỉ số H
Chất lượng nghiên cứu khoa học ở Việt Nam qua chỉ số trích dẫn
Chất vấn chuẩn chẩn đoán béo phì
Chế độ ăn uống với nhiều thịt động vật và nguy cơ tử vong
Chủng vi khuẩn tả hiện nay ở nước ta có phải mới xuất hiện?
Cuộc chiến hóa học phi pháp lớn nhất trong lịch sử chiến tranh
Câu chuyện y học: Leptin và béo phì
Có bao nhiêu bác sĩ viết chữ khó đọc
Có nên tập trung vào vi khuẩn E. coli ?
Có thể xảy ra đại dịch cúm gia cầm?
Công cụ đơn giản để chẩn đoán tiểu đường ở người Đông Nam Á
Cúm gia cầm và nhiễu thông tin
Cúm H1N1: biết và chưa biết
Cơ hội để khép lại một chương lịch sử đau lòng
Cần hiểu đúng về Ung thư và nguy cơ ung thư
Cần qui ước đạo đức cho kĩ nghệ thực phẩm
Cần tiêm chủng ngừa bệnh tả vùng có nguy cơ cao
Cần điều tra về chất lượng bệnh viện
Cổ phần hóa bệnh viện công và chất lượng
Cổ phần hóa: chưa phải cách duy nhất
DDT và vấn đề cân đối giữa lợi ích và nguy hiểm
Dinh dưỡng: một nguồn thuốc quí giá
DNA không nói dối, nhưng DNA có thể nói … sai
Dịch cúm gà: hoang mang và sự thật khoa học
Dịch cúm heo và tác hại kinh tế
Dịch tay-chân-miệng
Dịch tả: gọi đúng tên để phòng ngừa
Dựa vào khoa học, đừng dựa vào niềm tin!
E. coli – vài câu hỏi thông thường
Gen và bệnh tật
Ghen tuông dưới cái nhìn của tâm lí y khoa
Gian lận trong nghiên cứu khoa học: áp lực kinh tế và cơ chế bình duyệt
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC: KHƠI DẬY VÀ NUÔI DƯỠNG TÍNH HAM HỌC
Giải nobel y học hay sinh lí học 2007 và lợi ích cho người bệnh
Giải Nobel Y sinh học 2008 và những tranh chấp khoa học
Giải Nobel y sinh học 2010 vinh danh người đem niềm vui cho người vô sinh
Giải Nobel y sinh học năm 2005: Một cõi đi về với vi khuẩn
Giải Nobel y sinh học: Nhìn lại quãng đường 100 năm
Giải phẫu ghép mặt và vấn đề y đức
Gout ở xương sống
Gãy xương và tử vong: một vấn nạn y tế cộng đồng
Hiệu quả vắcxin có nghĩa gì?
Hoa vàng mấy độc
Hàm lượng đạm trong sữa “siêu thấp” hay “siêu cao”?
Hóa chất khai hoang trong cuộc chiến Viện Nam: Qui mô và tầm ảnh hưởng
Hướng đi nào để giải quyết vấn đề chất độc da cam ở Việt Nam
Hậu “mắm tôm được minh oan”: bằng chứng khoa học, nhà xí và nghiên cứu
Hệ Thống Học Vị Và Học Hàm Khoa Học Ở Vài Nước Tây Phương
Hợp tác khoa học kiểu nhảy dù - Nguyễn Văn Tuấn
Khi bác sĩ trẻ “khoe” quá nhiều
Khoa học và ngụy khoa học: một vài đặc điểm và khác biệt cần biết
Khoa học, xã hội, và rủi ro
Không thể thành Phù Đổng trong 20 năm!
Khẩu trang và phòng chống cúm A/H1N1
Kiểm định giả thuyết mắm tôm và vi khuẩn tả
Liều lượng melamine bao nhiêu là an toàn?
Lí lịch sinh học của heo và dấu vết văn minh nông nghiệp Đông Nam Á
Lượng giá mạng sống con người
Lợi ích của vitamin D
Miệng nhà quan
Mắm tôm có phải là “thủ phạm” gây bệnh tả? Xét lại bằng chứng khoa học
Mắm tôm và chuyện xin lỗi
Mắm tôm và dịch tả: phân biệt yếu tố nguy cơ và nguyên nhân
Mắm tôm vô tội!
Mắm tôm, nguyên nhân và hệ quả
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Một bệnh hiếm X-linked recessive hypoparathyroidism
Một lần đi phỏng vấn
Một năm nhìn lại
Một phán quyết thiếu cơ sở khoa học
Một vài hiểu lầm tai hại
Một vài ngộ nhận về nghiên cứu khoa học
Một vài vấn đề về qui định chức danh giáo sư ở Việt Nam
Một vụ Madoff trong y khoa: Lại một ngôi sao y khoa rơi rụng!
Mỡ trắng, mỡ nâu
Mỡ  trong máu, huyết áp, và  tiểu đường
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nguyên nhân bệnh tiêu chảy
Ngó trên tay điếu thuốc đã lụi dần
Người cao tuổi và sự hạn chế của y khoa
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Nhân chuyện dịch tả nhớ lại John Snow
Nhân câu chuyện điện não đồ xét nghiệm nghiện ma túy:
Nhân năm khỉ_nguồn gốc con người hiện đại
Nhân năm Tý bàn chuyện thí nghiệm trên chuột
Nhìn lại khoa học Việt Nam năm 2008 qua công bố quốc tế
Nhầm lẫn trong y khoa: Khá phổ biến, nhưng ít ai biết!
Những câu hỏi và trả lời về dịch gia cầm
Những sai sót khó tin nhưng có thật
Những sai sót nguy hiểm trong toa thuốc
Những điều khó tin về “Bảy điều khó tin nhất trong y học”
Năm lí do cho mắm tôm “vô tội”
Phán quyết sau cùng: Chất béo không ảnh hưởng đến ung thư và bệnh tim
Phát hiện gien kiểm soát ráy tai: vài bài học về mò kim đáy biển
Phòng chống bệnh phải dựa vào bằng chứng khoa học!
Phòng chống H1N1 bằng rửa tay và khẩu trang: Biện pháp nào hiệu quả hơn?
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao và cân nặng: thiếu cơ sở khoa học và kì thị giới tính
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao: vấn đề giả định và bằng chứng khoa học
Quyền phê phán và trí thức
Quyền được tiếp cận hồ sơ bệnh án
Quản lý chất lượng: Thuốc phòng "tai nạn y khoa"
Rửa tay bằng xà phòng và tiêu chảy
Serotonin có liên quan đến chứng đột tử
Suy dinh dưỡng ở trẻ em: vấn đề của kinh tế
Sàng lọc trẻ sơ sinh trên phạm vi toàn quốc
Tai nạn y khoa trong bệnh viện
Thế nào là một "bài báo khoa học"
Thế nào là “Cơ sở khoa học” ?
Thịt chó là nguyên nhân của bệnh tiêu chảy cấp tính?
Thịt chó và bệnh tả: nguyên nhân và yếu tố nguy cơ
Tiên lượng bệnh Alzheimer bằng protein expression ?
Tiêu chuẩn chất lượng giáo dục đại học
Tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì cho người Việt - Nguyễn Văn Tuấn
Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh đái tháo đường (diabetes mellitus)
Tiêu chuẩn đề bạt giáo sư: Có nên căn cứ vào số lượng bài báo ?
Tiêu chảy cấp tính và bệnh tả: Định danh cho đúng
Truy tìm ung thư bằng mammography từ tuổi 50
Truyền thông và khoa học: Qui ước Ingelfinger
Truyền thông và y tế
Truyền thông, khoa học và … doanh nghiệp
Trà xanh và sức khỏe
Trách nhiệm và nhân đạo trong vấn đề chất độc da cam
Trái chanh và phòng chống bệnh tả
Trả lời những câu hỏi liên quan đến loãng xương
Trọng lượng cơ thể và tử vong ở người Trung Quốc: Ý nghĩa về việc xác định tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì
Tuổi thọ của người dân giảm 10 năm ?
Tác dụng Placebo trong y học: Tâm lí và ý nghĩa
Tình yêu, sắc đẹp nhìn dưới quan điểm di truyền học
Tín hiệu môi trường từ những “làng ung thư”
Tính khoa học và minh bạch đằng sau xét nghiệm doping
Tại sao không phát biểu về nguyên nhân và hệ quả ?
Tại sao uống rượu gây đỏ mặt và nguy cơ ung thư thực quản
Tạo sinh vô tính và cái chết của Thượng đế
Tạo sinh vô tính và vấn đề sinh đạo đức
Tản mạn về SARS
Tỉ lệ tử vong do cúm heo là bao nhiêu ?
Tự trị, chất lượng và y đức thay vì cổ phần hóa bệnh viện công
Ung thư vú và vấn đề thông tin y khoa
Uống bia hấp dẫn muỗi
Vaccine phòng chống AIDS hiệu quả đến đâu ?
Vaccine phòng chống cúm A/H1N1
Vi khuẩn gây tiêu chảy và ý nghĩa tiêm chủng
Vi khuẩn tả trong chó ?
Viết văn có thể chữa nhiều loại bệnh
Viết văn và trị liệu
Việc ta, ta cứ làm!
Vài nhận xét về 12 điều lệ y đức của Việt Nam
Vài thông tin cần biết về các chương trình truy tìm ung thư vú
Vài đóng góp quan trọng của người Việt khoa học thống kê
Văn hóa khoa học
Văn hóa tranh luận và vấn đề ngụy biện
Vấn đề sinh tố: kẽm và đồng
Vấn đề truy tìm ung thư phổi và hiệu quả 
Vấn đề y đức trong nghiên cứu tế bào mầm (stem cells)
Vấn đề đo lường melamine
Vấn đề đào tạo tiến sĩ: kinh nghiệm từ Australia
Vắc-xin phòng chống ung thư cổ tử cung
Vắcxin ngừa viêm gan B: cẩn thận với “nhiễu thông tin”
Vắcxin ngừa viêm gan B: kinh nghiệm từ nước ngoài
Vắcxin phòng bệnh sởi - quai bị - Rubella: lợi và hại
Vắcxin phòng chống ung thư cổ tử cung: hiệu quả lâm sàng và kinh tế
Vắcxin phòng ngừa bệnh tả: rất cần thiết
Về chấn chỉnh đào tạo tiến sĩ: Công bố bài báo khoa học là một thách thức lớn ?
Về học vị tiến sĩ
Về một sự hiểu lầm thuật ngữ "prospective"
Về phản ứng phụ của bisphosphonates liên quan đến hoại tử xương hàm và rung nhĩ
Vệ sinh như là một loại hàng hóa
Vị thế của nền khoa học Việt Nam
Xung quang xì căng đan về nghiên cứu tế bào mầm
Xã hội hóa và an toàn thực phẩm
Xếp hạng đại học: cần minh bạch hóa phương pháp
Y học hiện đại và những hứa hẹn
Y học thực chứng: vài nét khái quát
Y Khoa và những nhầm lẫn chết người
Y tế dự phòng: nền tảng của y khoa hiện đại
Y đức và nghiên cứu y học
Ói mửa, cao huyết áp và hôn mê
Ăn chay như là một trị liệu
Ăn chay và loãng xương
Điều trị bệnh dựa vào màu da ?
Điều trị đau dây thần kinh tọa bằng phẫu thuật: không có hiệu quả
Đo lường hiệu suất khoa học
Đánh giá đúng tầm quan trọng của ung thư vú 
Đại dịch H1N1
Đại dịch và đại dịch ảo
Đại dịch đã đến ?
Đạo văn trong hoạt động khoa học
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đằng sau những con số hàm lượng đạm trong sữa
Đế quốc Trà
Đề bạt các chức danh khoa bảng: vài kinh nghiệm từ Úc
Đọc lại 12 điều y đức của Việt Nam
Đồi điều về sữa nhiễm melamine
Đừng quên melamine trong các thực phẩm khác!
Ước vọng 200 ?
“Kỹ năng mềm” cho nhà khoa học
“Sẽ” và “có thể”


Trang nhiều tác giả
Trang riêng của Lê Ngọc Dũng
Trang riêng của Lương Lễ Hoàng
Trang riêng của Nguyễn Bảo Trung
Trang riêng của Nguyễn Hoài Nam
Trang riêng của Nguyễn Hữu Đức
Trang riêng của Nguyễn Văn Tuấn
Trang riêng của Nguyễn Ý Đức
Trang riêng của Nguyễn Đình Nguyên
Trang riêng của Phan Xuân Trung
Trang riêng của Đỗ Hồng Ngọc
Trang riêng của Đỗ Minh Tuấn