NGUYỄN VĂN TUẤN

Tính khoa học và minh bạch đằng sau xét nghiệm doping

Nguyễn Văn Tuấn

Vụ vận động viên Đỗ Thị Ngân Thương có kết quả dương tính do sử dụng thuốc lợi tiểu Furosemide, vi phạm qui ước thi đấu của Thế vận hội Olympic đã gây ra nhiều tranh cãi.  Phần lớn dư luận nhắm vào trách nhiệm của các quan chức thể thao, nhưng hình như chẳng ai chất vấn tính khoa học đằng sau những xét nghiệm doping của cơ quan chức năng thuộc Thế vận hội Olympic.  Trong thực tế, cách làm việc và phương pháp xét nghiệm của họ thiếu tính minh bạch, và thậm chí phản khoa học.

***

Sự nghiệp của một vận động viên có thể được kết thúc chỉ vì một kết quả xét nghiệm.  Hội đồng y khoa của Thế vận hội Olympic công bố một danh mục gồm hơn 200 loại thuốc thuộc 9 nhóm hóa dược bị cấm sử dụng trong các kì thi đấu thể thao.  Nếu kết quả xét nghiệm của một vận động viên cho thấy nồng độ của các hóa dược này trong máu hay nước tiểu vượt quá một giá trị tham chiếu (hay vượt quá “ngưỡng bình thường”) thì sự nghiệp của vận động viên có có thể bị gián đoạn, thậm chí kết thúc.  Nếu vận động viên đã đạt huy chương thì huy chương sẽ bị tước bỏ.  Do đó, diễn giải kết quả xét nghiệm rất quan trọng, vì nó có ảnh hưởng trực tiếp đến sự nghiệp của một vận động viên.

Vấn đề xác suất

Diễn giải kết quả xét nghiệm và phán quyết một vận động viên vi phạm hay không vi phạm sử dụng thuốc cấm (sẽ gọi tắt là “doping”) là một vấn đề xác suất.  Thật vậy, trước một kết quả xét nghiệm của một vận động viên, câu hỏi quan trọng là: với kết quả này, xác suất mà vận động viên này vượt ngưỡng bình thường (tức doping) là bao nhiêu? 

Xác suất này tùy thuộc vào hai thông số: tỉ lệ doping trong cộng đồng vận động viên, và độ chính xác của phương pháp xét nghiệm.  Không ai biết có bao nhiêu vận động viên doping, nhưng các chuyên gia có vẻ nhất trí rằng con số đó thấp hơn 5%.  Độ chính xác của phương pháp xét nghiệm được thể hiện qua hai chỉ số: độ nhạy và độ đặc hiệu.  Độ nhạy là xác suất mà phương pháp xét nghiệm cho ra kết quả dương tính nếu đối tượng thật sự doping.  Độ đặc hiệu là xác suất mà phương pháp xét nghiệm cho ra kết quả âm tính nếu đối tượng thật sự không doping. 

Do đó, nếu độ nhạy là 90%, thì sẽ có 10% sai (tức 10% vận động viên đích thực “phạm tội” doping nhưng kết quả âm tính).  Ngược lại, nếu độ đặc hiệu là 95%, thì vẫn có 5% vận động viên “vô tội” nhưng bị xét nghiệm cho là dương tính.  Trong thực tế và theo kinh nghiệm của người viết bài này, rất hiếm phương pháp xét nghiệm nào có độ nhạy và độ đặc hiệu trên 90%. 

Hãy lấy một ví dụ để minh họa cho vấn đề.  Chẳng hạn trong cộng đồng thể thao có 5% vận động viên doping, và phương pháp xét nghiệm có độ nhạy và đặc hiệu cao đến 95% [1].  Nếu một vận động viên có kết quả dương tính, thì xác suất mà vận động viên này thật sự doping chỉ 50%.  Ngay cả khi độ nhạy và đặc hiệu ở mức 99% (chưa từng thấy trong thực tế) thì xác suất mà vận động viên doping cũng chỉ 84%, tức chưa đủ độ tin cậy để phán quyết.  Chúng ta cần phải có một xác suất 100% hay ít ra là 99.99% mới có thể kết luận doping chính xác. 

Cả hai chỉ số độ nhạy và đặc hiệu phải được phát triển từ các thử nghiệm lâm sàng với một số lượng đối tượng lớn.  Nhưng trong thực tế, không ai biết cơ quan chức năng có thử nghiệm lâm sàng hay không và kết quả ra sao.  Thật vậy, cho đến nay chúng ta vẫn không biết độ chính xác của các phương pháp xét nghiệm mà cơ quan chức năng của Thế vận hội Olympic sử dụng là bao nhiêu.  Đã có nhiều người chất vấn, nhưng Cục chống doping thế giới (World Anti-doping Agency, còn gọi là WADA) vẫn không chịu công bố các dữ liệu này.  Luật sư Howard Jacob (Mĩ), người biện hộ cho một vận động viên Mĩ bị kết tội sử dụng thuốc trái qui ước Thế vận hội, nhận xét về cách làm việc của WADA như sau: “Giống như là một qui trình bí mật do họ dựng lên.  Họ nói nếu ai đó có kết quả vượt một ngưỡng nào đó, xác suất dương tính giả là 1 phần tỉ, nhưng chúng ta chẳng bao giờ thấy dữ liệu nào làm cơ sở cho phán quyết đó.” [2]

Dao động sinh học và gien

Tất cả các hormones và chỉ số sinh hóa trong cơ thể chúng ta dao động hàng ngày, hàng giờ, thậm chí hàng phút.  Nghiên cứu của người viết bài này vừa công bố tháng qua cho thấy nồng độ hormones dao động rất lớn ở mỗi cá nhân và giữa các cá nhân.  Chẳng hạn như hormone tăng trưởng (IGF1) trong máu của tôi hôm nay có thể là 100 ng/L, nhưng ngày mai có thể là 80 hay 130 ng/L, mặc dù tôi chẳng sử dụng thuốc kích thích nào.  Đó là dao động sinh học bình thường trong mỗi cá nhân. 

Ngoài ra, nồng độ IGF1 của tôi có thể rất khác với một người khác cùng độ tuổi đến 2 hay 3 lần, dù cả hai đều không sử dụng thuốc nào có ảnh hưởng đến IGF1.  Đó là dao động gữa các cá nhân trong một cộng đồng.  Điều này cho thấy việc xác định giá trị tham chiếu hay ngưỡng để phán quyết một kết quả xét nghiệm là bình thường hay bất bình thường cần phải điều chỉnh cho độ dao động của chính cá nhân đó và độ khác biệt tự nhiên giữa các cá nhân trong một cộng đồng.  Không có giá trị tham chiếu, kết quả xét nghiệm chỉ là những con số vô nghĩa.

Nồng độ chu chuyển và bài tiết của các chỉ số sinh hóa chịu sự ảnh hưởng của gien.  Trong một nghiên cứu vừa công bố, các nhà nghiên cứu Thụy Điển cho một nhóm đàn ông bình thường uống một liều lượng 500 mg testosterone, và sau đó vài ngày, họ xét nghiệm nồng độ testosterone trong nước tiểu.  Kết quả cho thấy có đến 40% không có dấu hiện gia tăng testosterone, nhưng trong số 60% còn lại thì nồng độ testosterone tăng đến 2 lần.  Tại sao có sự khác biệt lớn như thế giữa các đối tượng?  Tại vì số 40% đàn ông không tăng testosterone do họ mang trong người biến thể của gien UGT2B17.  Phát hiện này cho thấy nếu không xét đến gien, kết quả xét nghiệm và diễn giải kết quả có thể rất sai lầm.

Trường hợp của Ngân Thương

Câu chuyện của Ngân Thương quả là một trường hợp đáng tiếc.  Rất có thể Ngân Thương thiếu thông tin hay có cố vấn sai, nên đã sử dụng thuốc này làm giảm cân một cách không cần thiết, vì thí nghiệm trên ngựa cho thấy Furosemide chỉ giảm cân khoảng 3-5%.  Furosemide là một loại thuốc dùng để điều trị bệnh suy tim và phù, có chức năng bài đẩy mạnh bài tiết muối và nước từ thận.  Từ năm 1988, Furosemide nằm trong danh sách cấm sử dụng trong các cuộc thi đấu tại Thế vận hội Olympic.  Thật ra, Ngân Thương không phải là người đầu tiên bị phạt vì sử dụng furosemide; trước đây (tính từ Thế vận hội Hán Thành 1988) đã có 6 vận động viên vi phạm qui ước này.  

Cho đến nay, không ai biết các giá trị tham chiếu mà cơ quan chức năng của Thế vận hội sử dụng trong việc phán quyết rằng Ngân Thương vi phạm doping.  Cũng không ai biết phương pháp xét nghiệm Furosemide của cơ quan chức năng Thế vận hội 2008 chính xác ở độ nào.  Cũng có thể Ngân Thương mang trong người một biến thể gien có liên quan đến quá trình chuyển hóa của Furosemide ảnh hưởng đến kết quả xét nghiệm. 

Viết trên tập san khoa học Nature gần đây, Gs Donald Berry (Đại học Texas) cho rằng qui trình xét nghiệm và phán quyết của cơ quan chức năng về doping Thế vận hội Olympic là một cái hộp đen và phản khoa học.  Ông viết: “Đây là một cái hộp đen, mà trong đó có những người nho nhỏ chạy vòng quanh, và chúng ta không biết họ làm cái gì.  Chúng ta cần một không khí mới.  Chẳng những cách làm việc của họ phản khoa học, mà thái độ của họ càng phản khoa học” [3]. 

Mục tiêu của việc xét nghiệm doping là nhằm đảm bảo tính công bằng trong các cuộc tranh tài thể thao.  Vận động viên cũng có thể đòi hỏi sự công bằng từ cơ quan chức năng của Thế vận hội trong việc xét nghiệm và dữ liệu liên quan đến xét nghiệm.  Không thể nào chấp nhận một phán quyết mà không tìm hiểu cái khoa học đằng sau phương pháp xét nghiệm.  Dù sao đi nữa, để công bằng cho Ngân Thương, chúng ta đòi hỏi cơ quan chức năng phải công bố kết quả và trình bày dữ liệu cho công chúng quốc tế biết qui trình và phương pháp khoa học trong xét nghiệm để vấn đề minh bạch hơn.

Chú thích:

[1] Về cách tính, gọi p là tỉ lệ doping trong cộng đồng, sens là độ nhạy, và spec là độ đặc hiệu, thì xác suất doping nếu có kết quả dương tính là:

.

[2] Xem “Shaky science casts doubt on doping results” của Brian Alexander trên MSNBC News ngày 6/8/2008.

[3] Berry DA. The science of doping. Nature. 2008 Aug 7;454(7205):692-3.

 

 


200 năm Darwin
Agent Orange: collateral damage
Alexandre Yersin và Việt Nam
Bàn về hiệu quả vắcxin: lâm sàng và kinh tế
Bàn về vấn đề dịch thuật và đánh giá năng suất khoa học
Béo phì ở người Á châu
Béo phì ở trẻ em và virus
Bình luận từ Dr. Yến
Bưởi không gây ung thư vú
Bảo hiểm y tế cộng đồng
Bảo tồn môi sinh: Chiến tranh giữa hai thế giới
Bằng chứng khoa học thay vì lên lớp
Bệnh tả: không để Việt Nam thành Bangladesh thứ hai
Bệnh tật nhìn từ quan điểm của thuyết tiến hóa
Bệnh xơ hóa cơ delta qua y văn thế giới
Bổ sung kẽm và điều trị bệnh tả
Bộ gen trong cây lúa và triển vọng
Bộ Y tế phản ứng chậm với rét đậm
Chiều cao của người Việt
Chiều cao và tổng thống Mĩ
Cholesterol và bệnh Tim
Cholesterol: hung thần hay bạn?
Chuột và... các nhà khoa học
Chính sách y tế cần dựa vào bằng chứng khoa học
Chạy đua vũ khí và … dịch cúm
Chất béo, cholesterol, bệnh tim và statins: xét lại bằng chứng
Chất keo xã hội: hormones
Chất lượng nghiên cứu dịch tễ học và y tế cộng đồng của Việt Nam qua chỉ số H
Chất lượng nghiên cứu khoa học ở Việt Nam qua chỉ số trích dẫn
Chất vấn chuẩn chẩn đoán béo phì
Chế độ ăn uống với nhiều thịt động vật và nguy cơ tử vong
Chủng vi khuẩn tả hiện nay ở nước ta có phải mới xuất hiện?
Cuộc chiến hóa học phi pháp lớn nhất trong lịch sử chiến tranh
Câu chuyện y học: Leptin và béo phì
Có bao nhiêu bác sĩ viết chữ khó đọc
Có nên tập trung vào vi khuẩn E. coli ?
Có thể xảy ra đại dịch cúm gia cầm?
Công cụ đơn giản để chẩn đoán tiểu đường ở người Đông Nam Á
Cúm gia cầm và nhiễu thông tin
Cúm H1N1: biết và chưa biết
Cơ hội để khép lại một chương lịch sử đau lòng
Cần hiểu đúng về Ung thư và nguy cơ ung thư
Cần qui ước đạo đức cho kĩ nghệ thực phẩm
Cần tiêm chủng ngừa bệnh tả vùng có nguy cơ cao
Cần điều tra về chất lượng bệnh viện
Cổ phần hóa bệnh viện công và chất lượng
Cổ phần hóa: chưa phải cách duy nhất
DDT và vấn đề cân đối giữa lợi ích và nguy hiểm
Dinh dưỡng: một nguồn thuốc quí giá
DNA không nói dối, nhưng DNA có thể nói … sai
Dịch cúm gà: hoang mang và sự thật khoa học
Dịch cúm heo và tác hại kinh tế
Dịch tay-chân-miệng
Dịch tả: gọi đúng tên để phòng ngừa
Dựa vào khoa học, đừng dựa vào niềm tin!
E. coli – vài câu hỏi thông thường
Gen và bệnh tật
Ghen tuông dưới cái nhìn của tâm lí y khoa
Gian lận trong nghiên cứu khoa học: áp lực kinh tế và cơ chế bình duyệt
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC: KHƠI DẬY VÀ NUÔI DƯỠNG TÍNH HAM HỌC
Giải nobel y học hay sinh lí học 2007 và lợi ích cho người bệnh
Giải Nobel Y sinh học 2008 và những tranh chấp khoa học
Giải Nobel y sinh học 2010 vinh danh người đem niềm vui cho người vô sinh
Giải Nobel y sinh học năm 2005: Một cõi đi về với vi khuẩn
Giải Nobel y sinh học: Nhìn lại quãng đường 100 năm
Giải phẫu ghép mặt và vấn đề y đức
Gout ở xương sống
Gãy xương và tử vong: một vấn nạn y tế cộng đồng
Hiệu quả vắcxin có nghĩa gì?
Hoa vàng mấy độc
Hàm lượng đạm trong sữa “siêu thấp” hay “siêu cao”?
Hóa chất khai hoang trong cuộc chiến Viện Nam: Qui mô và tầm ảnh hưởng
Hướng đi nào để giải quyết vấn đề chất độc da cam ở Việt Nam
Hậu “mắm tôm được minh oan”: bằng chứng khoa học, nhà xí và nghiên cứu
Hệ Thống Học Vị Và Học Hàm Khoa Học Ở Vài Nước Tây Phương
Hợp tác khoa học kiểu nhảy dù - Nguyễn Văn Tuấn
Khi bác sĩ trẻ “khoe” quá nhiều
Khoa học và ngụy khoa học: một vài đặc điểm và khác biệt cần biết
Khoa học, xã hội, và rủi ro
Không thể thành Phù Đổng trong 20 năm!
Khẩu trang và phòng chống cúm A/H1N1
Kiểm định giả thuyết mắm tôm và vi khuẩn tả
Liều lượng melamine bao nhiêu là an toàn?
Lí lịch sinh học của heo và dấu vết văn minh nông nghiệp Đông Nam Á
Lượng giá mạng sống con người
Lợi ích của vitamin D
Miệng nhà quan
Mắm tôm có phải là “thủ phạm” gây bệnh tả? Xét lại bằng chứng khoa học
Mắm tôm và chuyện xin lỗi
Mắm tôm và dịch tả: phân biệt yếu tố nguy cơ và nguyên nhân
Mắm tôm vô tội!
Mắm tôm, nguyên nhân và hệ quả
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Một bệnh hiếm X-linked recessive hypoparathyroidism
Một lần đi phỏng vấn
Một năm nhìn lại
Một phán quyết thiếu cơ sở khoa học
Một vài hiểu lầm tai hại
Một vài ngộ nhận về nghiên cứu khoa học
Một vài vấn đề về qui định chức danh giáo sư ở Việt Nam
Một vụ Madoff trong y khoa: Lại một ngôi sao y khoa rơi rụng!
Mỡ trắng, mỡ nâu
Mỡ  trong máu, huyết áp, và  tiểu đường
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nguyên nhân bệnh tiêu chảy
Ngó trên tay điếu thuốc đã lụi dần
Người cao tuổi và sự hạn chế của y khoa
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Nhân chuyện dịch tả nhớ lại John Snow
Nhân câu chuyện điện não đồ xét nghiệm nghiện ma túy:
Nhân năm khỉ_nguồn gốc con người hiện đại
Nhân năm Tý bàn chuyện thí nghiệm trên chuột
Nhìn lại khoa học Việt Nam năm 2008 qua công bố quốc tế
Nhầm lẫn trong y khoa: Khá phổ biến, nhưng ít ai biết!
Những câu hỏi và trả lời về dịch gia cầm
Những sai sót khó tin nhưng có thật
Những sai sót nguy hiểm trong toa thuốc
Những điều khó tin về “Bảy điều khó tin nhất trong y học”
Năm lí do cho mắm tôm “vô tội”
Phán quyết sau cùng: Chất béo không ảnh hưởng đến ung thư và bệnh tim
Phát hiện gien kiểm soát ráy tai: vài bài học về mò kim đáy biển
Phòng chống bệnh phải dựa vào bằng chứng khoa học!
Phòng chống H1N1 bằng rửa tay và khẩu trang: Biện pháp nào hiệu quả hơn?
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao và cân nặng: thiếu cơ sở khoa học và kì thị giới tính
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao: vấn đề giả định và bằng chứng khoa học
Quyền phê phán và trí thức
Quyền được tiếp cận hồ sơ bệnh án
Quản lý chất lượng: Thuốc phòng "tai nạn y khoa"
Rửa tay bằng xà phòng và tiêu chảy
Serotonin có liên quan đến chứng đột tử
Suy dinh dưỡng ở trẻ em: vấn đề của kinh tế
Sàng lọc trẻ sơ sinh trên phạm vi toàn quốc
Tai nạn y khoa trong bệnh viện
Thế nào là một "bài báo khoa học"
Thế nào là “Cơ sở khoa học” ?
Thịt chó là nguyên nhân của bệnh tiêu chảy cấp tính?
Thịt chó và bệnh tả: nguyên nhân và yếu tố nguy cơ
Tiên lượng bệnh Alzheimer bằng protein expression ?
Tiêu chuẩn chất lượng giáo dục đại học
Tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì cho người Việt - Nguyễn Văn Tuấn
Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh đái tháo đường (diabetes mellitus)
Tiêu chuẩn đề bạt giáo sư: Có nên căn cứ vào số lượng bài báo ?
Tiêu chảy cấp tính và bệnh tả: Định danh cho đúng
Truy tìm ung thư bằng mammography từ tuổi 50
Truyền thông và khoa học: Qui ước Ingelfinger
Truyền thông và y tế
Truyền thông, khoa học và … doanh nghiệp
Trà xanh và sức khỏe
Trách nhiệm và nhân đạo trong vấn đề chất độc da cam
Trái chanh và phòng chống bệnh tả
Trả lời những câu hỏi liên quan đến loãng xương
Trọng lượng cơ thể và tử vong ở người Trung Quốc: Ý nghĩa về việc xác định tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì
Tuổi thọ của người dân giảm 10 năm ?
Tác dụng Placebo trong y học: Tâm lí và ý nghĩa
Tình yêu, sắc đẹp nhìn dưới quan điểm di truyền học
Tín hiệu môi trường từ những “làng ung thư”
Tính khoa học và minh bạch đằng sau xét nghiệm doping
Tại sao không phát biểu về nguyên nhân và hệ quả ?
Tại sao uống rượu gây đỏ mặt và nguy cơ ung thư thực quản
Tạo sinh vô tính và cái chết của Thượng đế
Tạo sinh vô tính và vấn đề sinh đạo đức
Tản mạn về SARS
Tỉ lệ tử vong do cúm heo là bao nhiêu ?
Tự trị, chất lượng và y đức thay vì cổ phần hóa bệnh viện công
Ung thư vú và vấn đề thông tin y khoa
Uống bia hấp dẫn muỗi
Vaccine phòng chống AIDS hiệu quả đến đâu ?
Vaccine phòng chống cúm A/H1N1
Vi khuẩn gây tiêu chảy và ý nghĩa tiêm chủng
Vi khuẩn tả trong chó ?
Viết văn có thể chữa nhiều loại bệnh
Viết văn và trị liệu
Việc ta, ta cứ làm!
Vài nhận xét về 12 điều lệ y đức của Việt Nam
Vài thông tin cần biết về các chương trình truy tìm ung thư vú
Vài đóng góp quan trọng của người Việt khoa học thống kê
Văn hóa khoa học
Văn hóa tranh luận và vấn đề ngụy biện
Vấn đề sinh tố: kẽm và đồng
Vấn đề truy tìm ung thư phổi và hiệu quả 
Vấn đề y đức trong nghiên cứu tế bào mầm (stem cells)
Vấn đề đo lường melamine
Vấn đề đào tạo tiến sĩ: kinh nghiệm từ Australia
Vắc-xin phòng chống ung thư cổ tử cung
Vắcxin ngừa viêm gan B: cẩn thận với “nhiễu thông tin”
Vắcxin ngừa viêm gan B: kinh nghiệm từ nước ngoài
Vắcxin phòng bệnh sởi - quai bị - Rubella: lợi và hại
Vắcxin phòng chống ung thư cổ tử cung: hiệu quả lâm sàng và kinh tế
Vắcxin phòng ngừa bệnh tả: rất cần thiết
Về chấn chỉnh đào tạo tiến sĩ: Công bố bài báo khoa học là một thách thức lớn ?
Về học vị tiến sĩ
Về một sự hiểu lầm thuật ngữ "prospective"
Về phản ứng phụ của bisphosphonates liên quan đến hoại tử xương hàm và rung nhĩ
Vệ sinh như là một loại hàng hóa
Vị thế của nền khoa học Việt Nam
Xung quang xì căng đan về nghiên cứu tế bào mầm
Xã hội hóa và an toàn thực phẩm
Xếp hạng đại học: cần minh bạch hóa phương pháp
Y học hiện đại và những hứa hẹn
Y học thực chứng: vài nét khái quát
Y Khoa và những nhầm lẫn chết người
Y tế dự phòng: nền tảng của y khoa hiện đại
Y đức và nghiên cứu y học
Ói mửa, cao huyết áp và hôn mê
Ăn chay như là một trị liệu
Ăn chay và loãng xương
Điều trị bệnh dựa vào màu da ?
Điều trị đau dây thần kinh tọa bằng phẫu thuật: không có hiệu quả
Đo lường hiệu suất khoa học
Đánh giá đúng tầm quan trọng của ung thư vú 
Đại dịch H1N1
Đại dịch và đại dịch ảo
Đại dịch đã đến ?
Đạo văn trong hoạt động khoa học
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đằng sau những con số hàm lượng đạm trong sữa
Đế quốc Trà
Đề bạt các chức danh khoa bảng: vài kinh nghiệm từ Úc
Đọc lại 12 điều y đức của Việt Nam
Đồi điều về sữa nhiễm melamine
Đừng quên melamine trong các thực phẩm khác!
Ước vọng 200 ?
“Kỹ năng mềm” cho nhà khoa học
“Sẽ” và “có thể”


Trang nhiều tác giả
Trang riêng của Lê Ngọc Dũng
Trang riêng của Lương Lễ Hoàng
Trang riêng của Nguyễn Bảo Trung
Trang riêng của Nguyễn Hoài Nam
Trang riêng của Nguyễn Hữu Đức
Trang riêng của Nguyễn Văn Tuấn
Trang riêng của Nguyễn Ý Đức
Trang riêng của Nguyễn Đình Nguyên
Trang riêng của Phan Xuân Trung
Trang riêng của Đỗ Hồng Ngọc
Trang riêng của Đỗ Minh Tuấn