NGUYỄN VĂN TUẤN

Câu chuyện y học: Leptin và béo phì

Nguyễn Văn Tuấn

Một trong những khám phá khoa học quan trọng nhất liên quan đến béo phì trong thế kỉ 20 là vai trò của kích thích tố có tên leptin. Leptin được tiết ra từ các tế bào béo (fat cells). Nếu cơ thể thiếu leptin, bộ não tưởng rằng cơ thể đang đói và ra “lệnh” ăn uống thêm, gây nên tình trạng béo phì. Do đó, điều trị béo phì bằng leptin có thời được xem là một chìa khóa để chinh phục nạn béo phì đang trở nên cực kì phổ biến trong xã hội, nhất là tại các nước Âu Mĩ. Nhưng kết quả nghiên cứu gần đây cho thấy những hi vọng vào leptin chỉ là hi vọng hão huyền …

Tuy nhiên, nhiều người – ngay cả trong giới y khoa – vẫn còn lẫn lộn mối liên hệ giữa leptin và béo phì, vì những thông tin trên mặt báo đại chúng thường thiếu tính hệ thống, thậm chí giật gân. Bài viết ngắn này sẽ thuật lại câu chuyện xung quang việc khám phá ra leptin và hi vọng kích thích bạn đọc trẻ đang dấn thân vào con đường nghiên cứu khoa học có được một bài học hay một vài kinh nghiệm có ích.

Chuột ob

Câu chuyện leptin bắt đầu từ Phòng thí nghiệm Jackson (Jackson Laboratory), một trong những trung tâm nghiên cứu nổi tiếng trên thế giới, tọa lạc tại thành phố Bar Harbor, bang Maine (Mĩ). Phòng thí nghiệm Jackson là nơi sản xuất và nuôi dưỡng hàng chục ngàn chuột chuyên dùng cho thí nghiệm. Những chuột này được lai giống thành 2,500 giống chuột khác nhau. Các nhà nghiên cứu trên thế giới muốn nghiên cứu bất cứ bệnh gì đều có thể đặt đơn đặt hàng tại đây để mua chuột về làm thí nghiệm (với một cái giá không rẻ chút nào). Thí nghiệm trên chuột là một mô hình nghiên cứu rất phổ biến và có ích trong y sinh học, bởi vì chuột và con người khá giống nhau về cấu trúc di gen; một phát hiện mới trên chuột có thể từng bước đem vào ứng dụng trên con người.

Đầu thập niên 1950s các nhà nghiên cứu tại đây chú ý đến một con chuột có một cá tính rất đặc biệt: Nó có nhiều lông lá hơn, và béo nhất so với tất cả chuột khác trong chuồng. Suốt ngày chú chuột cá biệt này chỉ thu mình trong một góc chuồng, và hoạt động duy nhất của nó là … ăn. Ngoài ăn ra nó không làm gì khác. Có người ví von nói chú chuột này được sinh ra chỉ để ăn, chứ chẳng làm gì khác. Ban đầu, các nhà nghiên cứu nghi rằng nó có mang; nhưng khi khám kĩ thì con chuột này là giống đực. Họ đặt tên cho chú chuột này là obese (phì), và sau này viết tắt là ob. (Chữ Anh obese xuất phát từ tiếng Latin, obesus, có nghĩa là ăn hết.

Béo phì và di truyền

Trong cùng thời gian đó, một nhà khoa học người Anh tên Gordon Kennedy tiến hành một loạt thí nghiệm cho thấy các tế bào béo (fat cells) tự chúng có khả năng chi phối đến thói quen ăn uống của loài bọ gặm nhấm (như chuột chẳng hạn). Ông suy luận rằng có một số gen kiểm soát hoạt động của các tế bào béo, và vì thế, béo phì có thể do gen quyết định một phần. Lúc ông cho công bố công trình nghiên cứu này trên một tập san khoa học, giới khoa học tỏ vẻ rất nghi ngờ, bởi vì suy nghĩ “chính thống” thuở đó cho rằng béo phì chủ yếu do các yếu tố tâm lí và môi trường chi phối, chứ các yếu tố di truyền hay gen chẳng có vai trò gì đáng kể.

Nhưng một nghiên cứu trong thập niên 1970s bắt đầu làm cho cán cân nghiên cứu về di truyền trong béo phì trở nên cân bằng hơn. Các nhà nghiên cứu tại Đại học Rockefeller (New York) tiến hành một nghiên cứu trên những người sinh đôi. Họ tìm khoảng 200 cặp sinh đôi, và họ tính chỉ số béo phì body mass index (BMI) bằng cách lấy trọng lượng chia cho chiều cao bình phương. Người có BMI cao cũng có nghĩa là có tỉ lệ chất béo cao; và ngược lại, người có chỉ số BMI thấp cũng có nghĩa là tỉ lệ chất béo trong cơ thể thấp [1].

Chúng ta biết rằng có hai dạng sinh đôi: những anh em sinh đôi dạng MZ (tức monozygotic twins) là những cặp mà gen của họ giống nhau 100%; và những anh em sinh đôi dạng DZ (dizygotic twins) là những cặp sinh đôi mà gen của họ chỉ giống nhau 50%. (Cần phải mở ngoặc ở đây để nói thêm rằng trong anh em cùng cha mẹ, số gen giống nhau cũng 50%). Thành ra, nếu béo phì (hay BMI) thực sự do gen chi phối thì mức độ khác biệt BMI trong những cặp sinh đôi MZ sẽ thấp hơn mức độ khác biệt BMI trong những cặp sinh đôi DZ. Nói theo ngôn ngữ thống kê, nếu BMI do các yếu tố di truyền quyết định, thì hệ số tương quan (correlation coefficient) trong những cặp sinh đôi có cùng gen (MZ) phải cao hơn khoảng 2 lần trong cặp sinh đôi chia xẻ 50% gen (DZ) [2].

Và, kết quả như giả thuyết đặt ra: hệ số độ tương quan của BMI trong những cặp sinh đôi MZ khoảng 0.70, gần gấp hai lần so với những cặp sinh đôi DZ mà hệ số tương quan chỉ 0.37. Các nhà nghiên cứu còn ước tính rằng gen có thể quyết định khoảng 60-70% những khác biệt về BMI trong con người.

Gen ob (hay Lepob) và leptin

Nhưng trong mỗi tế bào có cả 30.000 đến 40.000 gen; vì thế, vấn đề được đặt ra tiếp theo là: gen nào có liên quan đến béo phì? Tìm vài gen trong một quần thể 40.000 gen chẳng khác nào “mò kim đáy biển” vậy. Công việc này cũng giống như đi tìm nhà của người quen, mà chúng ta chỉ biết “địa chỉ nhà bác ấy ở đâu đó bên Việt Nam”. Một công việc cực kì khó khăn và đầy thử thách. Ấy thế mà sau 6 năm trời miệt mài theo đuổi, các nhà nghiên cứu tìm ra 4 gen.

Sau khi tìm ra gen, nghiên cứu kế tiếp là phải xác định các gen này sản xuất protein gì. Cuối cùng, họ tìm ra một phân tử (molecule) có chức năng chuyên sản xuất chất béo, và quá trình sản xuất này do một gen điều khiển. Họ đặt tên cho gen này là gen ob để nhớ đến chú chuột ob tại Phòng thí nghiệm Jackson như đề cập phần trên. Roger Guillemin, Nhà sinh học từng chiếm giải Nobel, đề nghị các nhà nghiên cứu Rockefeller là trong thực tế, gen này nên đặt tên lepto (từ tiếng Hi Lạp Leptos có nghĩa là gầy hay mong manh). Ngày nay, giới khoa học đồng ý đặt tên gen này là Lepob (chữ Lep lũy thừa ob), và phân tử do leptoob sản xuất được gọi là leptin. Danh từ leptin có mặt trong trường khoa học từ đó [3].

Nghiên cứu thêm về leptin cho thấy trong thực tế nó là một loại hormone – kích thích tố. Kích thích tố leptin được sản xuất trong nhiều loại tế bào, nhưng chủ yếu là trong các tế bào béo (fat cells). Các nhà nghiên cứu Đại học Rockefeller khám phá rằng những chuột thiếu leptin là những chuột rất phì. Sau khi được các tế bào béo tiết ra, leptin di chuyển theo đường máu đến bộ não và trú ngụ trong vùng não có tên là hypothalamus. Nhiệm vụ của leptin là giao chuyển tín hiệu (hay hiệu lệnh) của gen ob báo cho não biết là cơ thể đã no rồi, đừng ăn uống thêm nữa. Thành ra, khi chuột không có leptin (và não không nhận được tín hiệu), não tưởng rằng cơ thể vẫn còn đói nên ra lệnh cho cơ thể ăn uống tiếp. Trường hợp chú chuột ob đề cập phần trên là trường hợp thiếu leptin.

Khi những chú chuột béo phì được tiêm leptin chúng trở nên mảnh dẻ và bình thường. Ngay cả chuột có trọng lượng bình thường khi được tiêm leptin, chúng cũng mất cân. Vì thế, leptin được xem là một kích thích tố chống béo phì.

Kể từ đó người ta đặt niềm hi vọng vào leptin như là một “thần dược” có thể cứu lấy nhân loại thoát khỏi cơn đại nạn béo phì. Nắm lấy thời cơ, các nhà nghiên cứu Đại học Rockefeller bèn đăng kí bản quyền (patent). Công ti công nghệ sinh học Amgen thấy có thể làm ra tiền với leptin, họ bỏ ra 20 triệu Mĩ kim để mua bản quyền sản xuất leptin. Có lẽ đây là giá bản quyền cao nhất trong lịch sử nghiên cứu khoa học [4].

Hai trường hợp chị em họ cá biệt

Nhưng những phát hiện và hiệu quả của leptin vừa trình bày chỉ trên chuột mà thôi, và chuột thì không thể có thị trường cho leptin; cho nên bước kế tiếp là nghiên cứu trên con người. Câu chuyện leptin và béo phì trong con người bắt đầu từ hai trường hợp rất đặc biệt xảy ra tại Anh vào năm 1998. Các nhà nghiên cứu béo phì thuộc Đại học Cambridge (Anh) được mời khám bệnh cho hai chị em họ (một gái, một trai) người gốc Pakistan nhưng sinh sống tại Anh. Hai chị em này lớn lên trong một đại gia tộc, mà trong đó bà con lấy nhau rất nhiều. Nói cách khác, gen của đại gia tộc này được bảo tồn rất cao.

Người chị lúc đó 8 tuổi, cân nặng 86 kg; và người em trai tuy mới 2 tuổi nhưng cân nặng gần 30 kg. Cả hai chị em đi đứng rất khó. Cả hai chị em có triệu chứng háu ăn (hyperphagia), tức họ rất ham ăn uống bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu. Nếu không cho họ ăn uống, họ sẽ rất giận dữ và gây náo loạn cả nhà. Cha mẹ hai em cho rằng vì ăn nhiều quá nên hai em trở nên béo phì; họ không nghĩ đó là một “bệnh”. Họ cũng không nghĩ thói háu ăn là do gen mà ra.

Khi đo huyết áp thì kết quả bình thường. Các chỉ số sinh hóa khác cũng bình thường. Chiều cao của hai em cũng bình thường. Bởi vì leptin được sản xuất trong các tế bào béo, cho nên các nhà nghiên cứu suy luận rằng vì hai em có trọng lượng quá cao (chất béo nhiều) nên lượng leptin trong máu chắc cũng sẽ rất cao.

Nhưng khi thử máu hai em thì các nhà nghiên cứu mới phát hiện một kết quả hết sức bất ngờ: Cả hai em đều không có leptin trong máu!

Qua kết quả bất ngờ trên, các nhà nghiên cứu suy luận rằng gen sản xuất leptin trong cơ thể hai em có “vấn đề”, hay có đột biến (mutation). Khi so sánh chuỗi DNA trong gen ob của hai em và chuỗi DNA trong gen ob bình thường, các nhà nghiên cứu phát hiện rằng một mảng DNA khá lớn trong gen ob của hai em bị mất, hay nói theo ngôn ngữ di truyền học là bị đột biến [5].

Giải pháp điều trị, do đó, là làm cho gen của hai em bình thường lại, tức là di truyền trị liệu (genetic therapy). Nhưng đây là một việc làm rất khó, cho nên các nhà nghiên cứu quyết định một phương án dễ hơn: tiêm leptin.

Nhưng vì chữa trị béo phì bằng cách tiêm leptin chưa bao giờ được tiến hành trên con người, cho nên Ủy ban y đức Đại học Cambridge chỉ cho phép điều trị thử (trial treatment) trên một em mà thôi. Các nhà nghiên cứu chọn người chị để điều trị trước. Chỉ trong vòng 2 tuần tiêm leptin, em bắt đầu xuống cân, và quan trọng hơn là không thèm ăn như trước đây nữa. Sau 12 tháng tiêm leptin, kết quả thật bất ngờ, ngoài sự kì vọng của những người lạc quan nhất (xem bảng tóm tắt dưới đây).

Tóm lược những thay đổi quan trọng của một trường hợp béo phì được điều trị bằng leptin trên một em bé gái béo phì gốc người Pakistan tại Anh

Lúc bắt đầu điều trị (cuối năm 1998)

Sau 12 tháng điều trị bằng leptin

Tuổi

9 tuổi

10 tuổi

Chiều cao

140 cm

143 cm

Trọng lượng

94,4 kg

78 kg

(Lượng chất béo)

(56 kg)

(40 kg)

Lúc khởi đầu điều trị (lúc đó em đã 9 tuổi) trọng lượng của em là 94,4 kg; sau 12 tháng trọng lượng giảm xuống còn 78 kg. Tính trung bình em giảm 1,3 kg mỗi tháng. Lúc mới điều trị trong cơ thể em có đến 56 kg chất béo (tức 59% trọng lượng), sau 12 tháng điều trị em mất gần 16 kg chất béo [6]. Nói cách khác, leptin làm giảm lượng chất béo trong cơ thể, nhưng không thay đổi xương và phần nạc trong cơ thể (xem bảng tóm tắt sau đây).

Nhưng con người phức tạp hơn nhiều!

Sau khi thành công với trường hợp thứ nhất, các nhà nghiên cứu xin phép Ủy ban Y đức và được chấp nhận cho điều trị người em họ 2 tuổi và kết quả cũng rất khả quan. Tin tức điều trị béo phì thành công này làm chấn động dư luận y học thế giới. Ai cũng nghĩ là các nhà nghiên cứu Anh đã khám phá một chìa khóa trị liệu cho tình trạng béo phì. Có người lạc quan tin rằng béo phì sẽ bị y học hiện đại chinh phục như bệnh lao từng bị khống chế trước đây.

Nhưng thực tế không đơn giản như thế. Thật vậy, hai trường hợp cá biệt trên (mà sau này y khoa gọi là thiếu leptin bẩm sinh, congenital leptin deficiency) rất hiếm trong dân chúng. Chưa ai biết có tỉ lệ thiếu leptin bẩm sinh trong dân số là bao nhiêu, nhưng các chuyên gia ước đoán dưới 0.1 phần trăm.

Trong đại đa số những người béo phì, nguyên nhân chính không phải do thiếu leptin. Rất nhiều nghiên cứu trên con người cho thấy người có tỉ lệ chất béo trong cơ thể càng cao thì leptin trong máu càng cao. Hệ số tương quan giữa lượng leptin trong máu và lượng chất béo (fat mass) thường dao động giữa 0.6 đến 0.8 [7].

Đến đây thì vấn đề trở nên phức tạp. Các trường hợp cá biệt vừa trình bày trên cho thấy thiếu leptin dẫn đến béo phì; nhưng trong phần đông dân số, càng béo phì càng có nhiều leptin! Tại sao lại có tình trạng mâu thuẫn này?

Qua hàng trăm nghiên cứu tiếp theo về vai trò của leptin, chúng ta có nhiều thông tin hữu ích về vai trò của kích thích tố kì diệu này. Xin nhắc lại: lep tin mang tín hiệu đến não để nói cho não biết “đã no rồi”, và não ra lệnh cho cơ thể không ăn uống thêm nữa. Nhưng nếu mọi việc xảy ra như trên thì không có vấn đề gì đáng nói. Vấn đề ở đây mà ngày nay qua nghiên cứu chúng ta biết rằng các tín hiệu của leptin có khi bị nhiễu, thậm chí mất tín hiệu. Khi não không nhận được tín hiệu từ leptin, não ra lệnh cho cơ thể ăn tiếp và gây nên tình trạng béo phì. Cái khó khăn là không ai biết tín hiệu leptin lúc nào bị nhiễu và lúc nào là không bị nhiễu.

Ngoài ra, rất có thể cơ thể chúng ta cần một liều lượng leptin nào đó để duy trì một lượng béo cần thiết (cơ thể cần chất béo để vận hành); khi leptin quá thấp hơn hay quá cao so với liều lượng lí tưởng này đều có thể gây ra béo phì. Nhưng không ai biết được cái liều lượng lí tưởng này, nếu thực sự nó hiện hữu.

Thành ra, thành công của các nhà nghiên cứu thuộc Đại học Rockefeller và Cambridge tuy rất ngoạn mục nhưng chẳng giải quyết được vấn đề béo phì cho một quần thể lớn. Những bản tin giật gân, những tuyên bố hồ hởi, những tiên đoán lạc quan ban đầu đều bị thời gian chứng minh là sai, quá hấp tấp, và chỉ là hoang tưởng. Cho đến nay, chúng ta vẫn chưa hiểu nhiều về nguyên nhân béo phì trong phần đông con người. Cái “nguyên nhân” mà chúng ta chỉ có thể nói [chung chung] là “béo phì là hệ quả của nhiều yếu tố di truyền, môi trường, và tâm lí”, nhưng không ai biết cái nào là quan trọng và quan trọng cỡ nào.

Bài học leptin

Qua thành công ngoạn mục này, nghiên cứu béo phì trở thành một đề tài khoa học nóng, một cục nam châm thu hút nhiều nhà khoa học trẻ tuổi tài ba nhất và tham vọng nhất dấn thân vào nghiên cứu. Lí do đơn giản là vì béo phì là một thị trường thuốc khổng lồ, chỉ một khám phá nhỏ cũng có thể đưa nhà khoa học lên đài danh vọng và giàu có trong chốc lát. Nghiên cứu béo phì là một mỏ vàng để các nhà khoa học khai thác. Dù công cuộc chinh phục béo phì vẫn chưa đến đâu, nhưng các nhà khoa học trên thế giới vẫn chưa đầu hàng.

Chúng ta có thể rút ra một số bài học quan trọng chung quanh việc phát hiện và phát triển leptin. Thứ nhất, muốn nhanh chóng thành công trong khám phá khoa học, nhất là y học, đối tượng nghiên cứu cần phải là những trường hợp đặc biệt, như trường hợp hai chị em họ đề cập trên, hay những trường hợp sinh đôi mà một người bình thường và một người đặc biệt. Những trường hợp như thế rất có khả năng cung cấp cho chúng ta những manh mối quan trọng và thích hợp.

Khoa học đương nhiên là dựa vào sự thật (facts), nhưng sự thật phải được quan sát hay thu thập bằng những phương pháp khách quan. Điều quan trọng và cần thiết trong khoa học là không chỉ sự thật, mà là sự thật có liên quan đến vấn đề đang được điều tra. Trong câu chuyện về leptin và béo phì, sự thật là những trường hợp (chuột và người) béo phì và đó chính là những trường hợp không chỉ cần thiết nhưng còn có liên quan đến việc nghiên cứu béo phì, bởi vì nếu là những người – chẳng hạn như – có nhiều tóc thì chắc chẳng dẫn đến khám phá gì mới cho béo phì.

Thứ hai, việc ứng dụng những khám phá từ những trường hợp đặc biệt thường rất hạn chế. Những bệnh khá phổ biến như béo phì, loãng xương, viêm khớp xương, bệnh tim mạch, v.v… thường là hệ quả của một loạt bất bình thường từ gen và môi trường. Nhưng gen và môi trường thường tương tác với nhau; vì thế một khám phá gen hay một khám phá kích thích tố riêng biệt không bao giờ là câu giải đáp cho một số đông mà chỉ giới hạn trong một số nhỏ bệnh nhân mà thôi.

Gần đây, có một trường phái mới mà những người theo thuyết này tự gọi là Y học tiến hóa (Evolutionary Medicine) cho rằng tình trạng béo phì ngày nay là hệ quả của sự mất tương đồng giữa tiến hóa gen trong con người và môi trường sống. Thuyết y học tiến hóa giải thích rằng chúng ta vẫn còn mang trong người những gen từ cấu trúc cho môi trường săn bắt và hái lượm (môi trường mà tổ tiên chúng ta phải lao động rất cực nhọc để có miếng ăn), nhưng nay lại sống trong môi trường thụ động (như ít đi bộ, không phải săn bắt thú vật như ngày xưa), và cơ thể chưa tiến hóa kịp để thích nghi với môi trường mới; do đó, chúng ta trở nên béo phì. Đây là một thuyết rất thú vị và đáng chú ý, nhưng người viết sẽ trở lại trong một bài viết khác.

Thứ ba, cần phải kiên nhẫn theo đuổi một ý tưởng nghiên cứu tới cùng. Trong trường hợp câu chuyện leptin, các nhà nghiên cứu bỏ ra 6 năm trời lần dò, truy tìm những gen liên hệ đến béo phì. Một khi tìm ra gen, họ bỏ thêm hàng chục năm nữa để tìm hiểu sản phẩm của các gen (gene products) và phát triển thành thuốc để chữa bệnh béo phì. Thành công trong nghiên cứu khoa học ít khi nào đến với chúng ta một sớm một chiều.

Nói tóm lại, khám phá leptin dù không đem đến cho con người một viên thuốc thần diệu nào, nhưng nó làm cho chúng ta phải suy nghĩ lại vai trò của gen và tâm lí trong vấn đề thèm ăn, nó giải thích tại sao một số người dù với bất cứ biện pháp giảm cân nào cũng chỉ đem đến thất bại. Đối với khoa học, khám phá leptin mở ra một kỉ nguyên mới cho nghiên cứu về béo phì và đem đến cho y học một luồng sinh khí mới.

Tài liệu tham khảo và đọc thêm:

[1] Xin xem bài bình luận “Tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì cho người Việt” của Nguyễn Văn Tuấn, đăng trên www.ykhoa.net.

[2] Về nghiên cứu những cặp sinh đôi và béo phì, xin xem bài báo của tôi trong: Nguyen TV, et al. Bone mass, lean mass and fat mass: same genes or same environments. American Journal of Epidemiology 1998; 147:3-16.

[3] Zhang Y, et al. Positional cloning of the mouse obese gene and its human homologue. Nature 1994; 372:425-32; và bài đính chính đăng trên Nature 1995; 374:479.

[4] Về câu chuyện mua bán bản quyền gen lepto, có thể đọc Chương 3 trong cuốn “The Hungry Gene: The Science of Fat and the Future of Thin”, của tác giả Ellen Ruppel Shell. Nhà xuất bản Atlantic (Mĩ).

[5] Montague CT, et al. Congenital leptin deficiency is associated with severe early onset obesity in humans. Nature 1997; 387:903-908.

[6] Farooqi S, et al. Effects of recombinant leptin therapy in a child with congenital leptin deficiency. New England Journal of Medicine 1999; 341:879-884.

[7] Về vai trò của leptin và mối liên hệ giữa leptin với lượng béo trong cơ thể, xin xem loạt bài đặc biệt về leptin trong Tập san Nutrition Review, số tháng 10 năm 2002.


200 năm Darwin
Agent Orange: collateral damage
Alexandre Yersin và Việt Nam
Bàn về hiệu quả vắcxin: lâm sàng và kinh tế
Bàn về vấn đề dịch thuật và đánh giá năng suất khoa học
Béo phì ở người Á châu
Béo phì ở trẻ em và virus
Bình luận từ Dr. Yến
Bưởi không gây ung thư vú
Bảo hiểm y tế cộng đồng
Bảo tồn môi sinh: Chiến tranh giữa hai thế giới
Bằng chứng khoa học thay vì lên lớp
Bệnh tả: không để Việt Nam thành Bangladesh thứ hai
Bệnh tật nhìn từ quan điểm của thuyết tiến hóa
Bệnh xơ hóa cơ delta qua y văn thế giới
Bổ sung kẽm và điều trị bệnh tả
Bộ gen trong cây lúa và triển vọng
Bộ Y tế phản ứng chậm với rét đậm
Chiều cao của người Việt
Chiều cao và tổng thống Mĩ
Cholesterol và bệnh Tim
Cholesterol: hung thần hay bạn?
Chuột và... các nhà khoa học
Chính sách y tế cần dựa vào bằng chứng khoa học
Chạy đua vũ khí và … dịch cúm
Chất béo, cholesterol, bệnh tim và statins: xét lại bằng chứng
Chất keo xã hội: hormones
Chất lượng nghiên cứu dịch tễ học và y tế cộng đồng của Việt Nam qua chỉ số H
Chất lượng nghiên cứu khoa học ở Việt Nam qua chỉ số trích dẫn
Chất vấn chuẩn chẩn đoán béo phì
Chế độ ăn uống với nhiều thịt động vật và nguy cơ tử vong
Chủng vi khuẩn tả hiện nay ở nước ta có phải mới xuất hiện?
Cuộc chiến hóa học phi pháp lớn nhất trong lịch sử chiến tranh
Câu chuyện y học: Leptin và béo phì
Có bao nhiêu bác sĩ viết chữ khó đọc
Có nên tập trung vào vi khuẩn E. coli ?
Có thể xảy ra đại dịch cúm gia cầm?
Công cụ đơn giản để chẩn đoán tiểu đường ở người Đông Nam Á
Cúm gia cầm và nhiễu thông tin
Cúm H1N1: biết và chưa biết
Cơ hội để khép lại một chương lịch sử đau lòng
Cần hiểu đúng về Ung thư và nguy cơ ung thư
Cần qui ước đạo đức cho kĩ nghệ thực phẩm
Cần tiêm chủng ngừa bệnh tả vùng có nguy cơ cao
Cần điều tra về chất lượng bệnh viện
Cổ phần hóa bệnh viện công và chất lượng
Cổ phần hóa: chưa phải cách duy nhất
DDT và vấn đề cân đối giữa lợi ích và nguy hiểm
Dinh dưỡng: một nguồn thuốc quí giá
DNA không nói dối, nhưng DNA có thể nói … sai
Dịch cúm gà: hoang mang và sự thật khoa học
Dịch cúm heo và tác hại kinh tế
Dịch tay-chân-miệng
Dịch tả: gọi đúng tên để phòng ngừa
Dựa vào khoa học, đừng dựa vào niềm tin!
E. coli – vài câu hỏi thông thường
Gen và bệnh tật
Ghen tuông dưới cái nhìn của tâm lí y khoa
Gian lận trong nghiên cứu khoa học: áp lực kinh tế và cơ chế bình duyệt
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC: KHƠI DẬY VÀ NUÔI DƯỠNG TÍNH HAM HỌC
Giải nobel y học hay sinh lí học 2007 và lợi ích cho người bệnh
Giải Nobel Y sinh học 2008 và những tranh chấp khoa học
Giải Nobel y sinh học 2010 vinh danh người đem niềm vui cho người vô sinh
Giải Nobel y sinh học năm 2005: Một cõi đi về với vi khuẩn
Giải Nobel y sinh học: Nhìn lại quãng đường 100 năm
Giải phẫu ghép mặt và vấn đề y đức
Gout ở xương sống
Gãy xương và tử vong: một vấn nạn y tế cộng đồng
Hiệu quả vắcxin có nghĩa gì?
Hoa vàng mấy độc
Hàm lượng đạm trong sữa “siêu thấp” hay “siêu cao”?
Hóa chất khai hoang trong cuộc chiến Viện Nam: Qui mô và tầm ảnh hưởng
Hướng đi nào để giải quyết vấn đề chất độc da cam ở Việt Nam
Hậu “mắm tôm được minh oan”: bằng chứng khoa học, nhà xí và nghiên cứu
Hệ Thống Học Vị Và Học Hàm Khoa Học Ở Vài Nước Tây Phương
Hợp tác khoa học kiểu nhảy dù - Nguyễn Văn Tuấn
Khi bác sĩ trẻ “khoe” quá nhiều
Khoa học và ngụy khoa học: một vài đặc điểm và khác biệt cần biết
Khoa học, xã hội, và rủi ro
Không thể thành Phù Đổng trong 20 năm!
Khẩu trang và phòng chống cúm A/H1N1
Kiểm định giả thuyết mắm tôm và vi khuẩn tả
Liều lượng melamine bao nhiêu là an toàn?
Lí lịch sinh học của heo và dấu vết văn minh nông nghiệp Đông Nam Á
Lượng giá mạng sống con người
Lợi ích của vitamin D
Miệng nhà quan
Mắm tôm có phải là “thủ phạm” gây bệnh tả? Xét lại bằng chứng khoa học
Mắm tôm và chuyện xin lỗi
Mắm tôm và dịch tả: phân biệt yếu tố nguy cơ và nguyên nhân
Mắm tôm vô tội!
Mắm tôm, nguyên nhân và hệ quả
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Một bệnh hiếm X-linked recessive hypoparathyroidism
Một lần đi phỏng vấn
Một năm nhìn lại
Một phán quyết thiếu cơ sở khoa học
Một vài hiểu lầm tai hại
Một vài ngộ nhận về nghiên cứu khoa học
Một vài vấn đề về qui định chức danh giáo sư ở Việt Nam
Một vụ Madoff trong y khoa: Lại một ngôi sao y khoa rơi rụng!
Mỡ trắng, mỡ nâu
Mỡ  trong máu, huyết áp, và  tiểu đường
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nguyên nhân bệnh tiêu chảy
Ngó trên tay điếu thuốc đã lụi dần
Người cao tuổi và sự hạn chế của y khoa
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Nhân chuyện dịch tả nhớ lại John Snow
Nhân câu chuyện điện não đồ xét nghiệm nghiện ma túy:
Nhân năm khỉ_nguồn gốc con người hiện đại
Nhân năm Tý bàn chuyện thí nghiệm trên chuột
Nhìn lại khoa học Việt Nam năm 2008 qua công bố quốc tế
Nhầm lẫn trong y khoa: Khá phổ biến, nhưng ít ai biết!
Những câu hỏi và trả lời về dịch gia cầm
Những sai sót khó tin nhưng có thật
Những sai sót nguy hiểm trong toa thuốc
Những điều khó tin về “Bảy điều khó tin nhất trong y học”
Năm lí do cho mắm tôm “vô tội”
Phán quyết sau cùng: Chất béo không ảnh hưởng đến ung thư và bệnh tim
Phát hiện gien kiểm soát ráy tai: vài bài học về mò kim đáy biển
Phòng chống bệnh phải dựa vào bằng chứng khoa học!
Phòng chống H1N1 bằng rửa tay và khẩu trang: Biện pháp nào hiệu quả hơn?
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao và cân nặng: thiếu cơ sở khoa học và kì thị giới tính
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao: vấn đề giả định và bằng chứng khoa học
Quyền phê phán và trí thức
Quyền được tiếp cận hồ sơ bệnh án
Quản lý chất lượng: Thuốc phòng "tai nạn y khoa"
Rửa tay bằng xà phòng và tiêu chảy
Serotonin có liên quan đến chứng đột tử
Suy dinh dưỡng ở trẻ em: vấn đề của kinh tế
Sàng lọc trẻ sơ sinh trên phạm vi toàn quốc
Tai nạn y khoa trong bệnh viện
Thế nào là một "bài báo khoa học"
Thế nào là “Cơ sở khoa học” ?
Thịt chó là nguyên nhân của bệnh tiêu chảy cấp tính?
Thịt chó và bệnh tả: nguyên nhân và yếu tố nguy cơ
Tiên lượng bệnh Alzheimer bằng protein expression ?
Tiêu chuẩn chất lượng giáo dục đại học
Tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì cho người Việt - Nguyễn Văn Tuấn
Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh đái tháo đường (diabetes mellitus)
Tiêu chuẩn đề bạt giáo sư: Có nên căn cứ vào số lượng bài báo ?
Tiêu chảy cấp tính và bệnh tả: Định danh cho đúng
Truy tìm ung thư bằng mammography từ tuổi 50
Truyền thông và khoa học: Qui ước Ingelfinger
Truyền thông và y tế
Truyền thông, khoa học và … doanh nghiệp
Trà xanh và sức khỏe
Trách nhiệm và nhân đạo trong vấn đề chất độc da cam
Trái chanh và phòng chống bệnh tả
Trả lời những câu hỏi liên quan đến loãng xương
Trọng lượng cơ thể và tử vong ở người Trung Quốc: Ý nghĩa về việc xác định tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì
Tuổi thọ của người dân giảm 10 năm ?
Tác dụng Placebo trong y học: Tâm lí và ý nghĩa
Tình yêu, sắc đẹp nhìn dưới quan điểm di truyền học
Tín hiệu môi trường từ những “làng ung thư”
Tính khoa học và minh bạch đằng sau xét nghiệm doping
Tại sao không phát biểu về nguyên nhân và hệ quả ?
Tại sao uống rượu gây đỏ mặt và nguy cơ ung thư thực quản
Tạo sinh vô tính và cái chết của Thượng đế
Tạo sinh vô tính và vấn đề sinh đạo đức
Tản mạn về SARS
Tỉ lệ tử vong do cúm heo là bao nhiêu ?
Tự trị, chất lượng và y đức thay vì cổ phần hóa bệnh viện công
Ung thư vú và vấn đề thông tin y khoa
Uống bia hấp dẫn muỗi
Vaccine phòng chống AIDS hiệu quả đến đâu ?
Vaccine phòng chống cúm A/H1N1
Vi khuẩn gây tiêu chảy và ý nghĩa tiêm chủng
Vi khuẩn tả trong chó ?
Viết văn có thể chữa nhiều loại bệnh
Viết văn và trị liệu
Việc ta, ta cứ làm!
Vài nhận xét về 12 điều lệ y đức của Việt Nam
Vài thông tin cần biết về các chương trình truy tìm ung thư vú
Vài đóng góp quan trọng của người Việt khoa học thống kê
Văn hóa khoa học
Văn hóa tranh luận và vấn đề ngụy biện
Vấn đề sinh tố: kẽm và đồng
Vấn đề truy tìm ung thư phổi và hiệu quả 
Vấn đề y đức trong nghiên cứu tế bào mầm (stem cells)
Vấn đề đo lường melamine
Vấn đề đào tạo tiến sĩ: kinh nghiệm từ Australia
Vắc-xin phòng chống ung thư cổ tử cung
Vắcxin ngừa viêm gan B: cẩn thận với “nhiễu thông tin”
Vắcxin ngừa viêm gan B: kinh nghiệm từ nước ngoài
Vắcxin phòng bệnh sởi - quai bị - Rubella: lợi và hại
Vắcxin phòng chống ung thư cổ tử cung: hiệu quả lâm sàng và kinh tế
Vắcxin phòng ngừa bệnh tả: rất cần thiết
Về chấn chỉnh đào tạo tiến sĩ: Công bố bài báo khoa học là một thách thức lớn ?
Về học vị tiến sĩ
Về một sự hiểu lầm thuật ngữ "prospective"
Về phản ứng phụ của bisphosphonates liên quan đến hoại tử xương hàm và rung nhĩ
Vệ sinh như là một loại hàng hóa
Vị thế của nền khoa học Việt Nam
Xung quang xì căng đan về nghiên cứu tế bào mầm
Xã hội hóa và an toàn thực phẩm
Xếp hạng đại học: cần minh bạch hóa phương pháp
Y học hiện đại và những hứa hẹn
Y học thực chứng: vài nét khái quát
Y Khoa và những nhầm lẫn chết người
Y tế dự phòng: nền tảng của y khoa hiện đại
Y đức và nghiên cứu y học
Ói mửa, cao huyết áp và hôn mê
Ăn chay như là một trị liệu
Ăn chay và loãng xương
Điều trị bệnh dựa vào màu da ?
Điều trị đau dây thần kinh tọa bằng phẫu thuật: không có hiệu quả
Đo lường hiệu suất khoa học
Đánh giá đúng tầm quan trọng của ung thư vú 
Đại dịch H1N1
Đại dịch và đại dịch ảo
Đại dịch đã đến ?
Đạo văn trong hoạt động khoa học
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đằng sau những con số hàm lượng đạm trong sữa
Đế quốc Trà
Đề bạt các chức danh khoa bảng: vài kinh nghiệm từ Úc
Đọc lại 12 điều y đức của Việt Nam
Đồi điều về sữa nhiễm melamine
Đừng quên melamine trong các thực phẩm khác!
Ước vọng 200 ?
“Kỹ năng mềm” cho nhà khoa học
“Sẽ” và “có thể”


Trang nhiều tác giả
Trang riêng của Lê Ngọc Dũng
Trang riêng của Lương Lễ Hoàng
Trang riêng của Nguyễn Bảo Trung
Trang riêng của Nguyễn Hoài Nam
Trang riêng của Nguyễn Hữu Đức
Trang riêng của Nguyễn Văn Tuấn
Trang riêng của Nguyễn Ý Đức
Trang riêng của Nguyễn Đình Nguyên
Trang riêng của Phan Xuân Trung
Trang riêng của Đỗ Hồng Ngọc
Trang riêng của Đỗ Minh Tuấn