NGUYỄN VĂN TUẤN

Ngó trên tay điếu thuốc đã lụi dần:

thuốc lá và tác hại đến sức khỏe

Nguyễn Văn Tuấn

Lời nói đầu: Tôi có nhiều bạn hút thuốc lá, và tôi tôn trọng quyền của họ.  Hồi còn học trung học tôi cũng có lần “thử nghiệm” với cái loại hàng độc hại này, nhưng bị thầy phạt cho một trận nhớ đời, và từ đó không dám làm quen với nó nữa.  Thời đó, hút thuốc lá là một cái mốt, chẳng ai chất vấn độc hại ra sao, nhưng sau này lớn lên chút (và có thêm thông tin) mới biết thuốc lá rất độc hại.  Hút thuốc lá là một sự lựa chọn cá nhân, nhưng phiền một cái là sự lựa chọn đó có ảnh hưởng đến người chung quanh, cho nên mới xảy ra bao nhiêu vấn đề tế nhị, bao nhiêu tranh cãi về quyền tự do hút thuốc và quyền được không ngửi khói thuốc.  Tuần vừa qua có hai nghiên cứu rất quan trọng về tác hại của thuốc lá làm tôi nhớ đến bài viết này vốn đã viết từ 8 năm trước, và muốn chia sẻ cùng các bạn.

 http://a.abcnews.com/images/2020/pd_secondhand_smoke_070502_ms.jpg

            Thuốc lá đối với người Việt chúng ta có thời được xem là một "món hàng" thi vị, một người bạn đồng hành trong những lúc hiu quạnh, hay chờ đón tiển đưa.  Thi sĩ Hồ Dzếnh, tác giả của những vần thơ bất tử đã đi vào tâm khảm của bao thế hệ thanh niên Việt, từng viết: Em cứ hẹn, nhưng em đừng đến nhé / Để lòng buồn tôi dạo khắp trong sân / Ngó trên tay điếu thuốc đã lụi dần / Tôi nói khẽ: gớm, làm sao nhớ thế!  Trong một truyện dài mà tôi đọc từ những năm còn học trung học, nhà văn DA (tên thật là VML) khuyên thanh niên -- qua lời nói của tay học trò Hà Nội sành điệu với một cậu học trò nhà quê mới lên thành phố: "Mày nên tập hút thuốc lá; giờ phút hẹn hò với người yêu nó dài ghê lắm.  Hút thuốc lá là tuyệt nhất.  Khói thuốc tỏa thành hình dáng người yêu, khói thuốc bắt kim đồng hồ chạy nhanh.  Rồi khi ngồi bên em, khói thuốc giúp mày làm thời gian ngừng trôi." 

            Khói thuốc làm cho thời gian ngừng trôi.  Lời khuyên ấn tượng!  Nếu hiểu thời gian ngừng trôi là lúc một cá nhân không còn hiện hữu trên thế giới thì lời khuyên ấn tượng đó cũng có cơ sở. Thật vậy, qua nghiên cứu khoa học trong thời gian qua, thuốc lá không còn là thứ món hàng thi vị nữa, mà là một độc chất có thể gây nên hàng loạt bệnh, kể cả ung thư, và làm ngắn tuổi thọ con người.  Nói một cách ngắn gọn là: thuốc lá giết người.  Và hút thuốc là một hành động tự sát.  Đã đến lúc chúng ta cần phải xem lại món hàng thi vị này, và xếp nó vào loại hàng hóa độc hại.

Vài hàng về lịch sử thuốc lá

            Không ai biết chính xác thuốc lá và hút thuốc được xuất phát từ đâu và tự bao giờ.  Tuy nhiên, giới sử học tin rằng thuốc lá được trồng ở Mĩ vào khoảng 6000 năm trước Công Nguyên.  Ngay vào những năm đầu Công Nguyên, người Mĩ da đỏ đã dùng thuốc lá vào các dịp lễ lạc và chpo các mục đích y khoa.  Họ tin rằng thuốc lá có thể chữa lành bệnh, kể cả cầm máu và làm chóng lành vết thương, cũng như làm thuốc giảm đau. 

            Năm 1542, Christopher Columbus (người khám phá ra Mĩ châu) được vài người Mĩ da đỏ tặng một số thuốc lá khô khi ông ta gặp họ lần đầu.  Sau đó ông mang về lại Tây Ban Nha, và từ đó được trồng khắp Âu châu.  (Có nngười còn cho rằng đó là một hình thức trả thù của người Mĩ da đỏ cho sự xâm nhập của người Âu châu!)  Vì thế, chữ Tobacco (mà ta dịch là thuốc lá ngày nay) có xuất xứ từ tiếng Tây Ban Nha, Tabaco,  tên của một lá cây.  (Thật ra, nguồn gốc sâu xa hơn nữa của Tabaco vẫn còn trong vòng tranh cãi giữa các nhà ngôn ngữ học.) 

Người Âu châu cũng tin rằng thuốc lá có thể chữa bá bệnh, từ ung thư đến hôi miệng!  Năm 1571, một bác sĩ người Tây Ban Nha tên là Nicolas Monardes viết một quyển sách về lịch sử các loại dược thảo; trong sách, ông tuyên bố rằng thuốc lá có thể chữa được 36 loại bệnh khác nhau.  Vì thế, trong những năm thuộc thế kỉ 17, thuốc lá trở thành cực kì thông dụng đến nổi nó được dùng như vàng, như đơn vị tiền tệ trong buôn bán.

            Từ đó, hút thuốc lá nghiễm nhiên trở thành một phong trào, nhất là trong giới đàn ông.  Các công ti sản xuất thuốc lá cũng lần lược ra đời trên khắp Âu châu, và đặc biệt là tại Mĩ.  Năm 1760, Pierre Lorillard thành lập công ti sản xuất thuốc lá tại thành phố New York.  Ngày nay, P. Lorillard là công ty thuốc lá lâu đời nhất ở Mĩ.   Năm 1875, Ông R. J. Reynolds, một nhà kinh doanh thuốc lá có tiếng, cũng thành lập một công ti lấy tên là R. J. Tobacco Company ở Winston Salem thuộc bang Nam Carolina, một vùng sản xuất thuốc lá khét tiếng thế giới.

            Hãng Phillip Morris, một công ti được thành lập ở Anh vào năm 1847 chuyên bán thuốc lá Thổ Nhĩ Kì, cũng nhảy vào thị trường Mĩ bằng cách thiết lập một công ti tại thành phố New York vào năm 1902, và bắt đầu sản xuất loại thuốc lá nổi tiếng Marlboro.  Năm 1913, R. J. Reynold phản công bằng loại thuốc mang tên là Camel, một hiệu thuốc lá nổi tiếng khác.  Cho đến năm 1923, Camel chiếm lĩnh hơn 45% thị trường thuốc lá Mĩ!  Năm 1939, American Tobacco Company cho ra đời hiệu thuốc lá danh tiếng Pall Mall và công ti này nhanh chóng trở thành công ty thuốc lá số một của Mĩ.  Để biểu lộ lòng yêu nước của mình, trong thời Đệ Nhị Thế chiến, các công ti thường gửi hàng triệu gói thuốc thuốc lá làm quà tặng cho quân đội Mĩ. 

Mỗi điếu thuốc cướp đi 5 phút tuổi thọ

            Tuy nhiên, cảm nhận về sự thiếu lành mạnh của thuốc lá bắt đầu từ năm 1604, khi vua của Anh Quốc là James Đệ Nhất cho rằng "Thuốc lá Mĩ làm cho con người uể oải và lờ mờ, có thể có hại đến phổi và não."  Ông còn ghi nhận thêm rằng thuốc lá là nguyên nhân làm cho hôi miệng.  Năm 1610, Francis Bacon (nhà khoa học danh tiếng người Anh) đã nhận xét rằng thuốc lá có thể làm cho người ta nghiện, vì theo ông, bỏ hút thuốc là một việc làm hết sức khó khăn.  Năm 1826, Samuel Green ở bang New England (Mĩ) cũng để ý thấy nhựa thuốc lá có thể dùng để diệt cỏ và vì thế nó là một độc chất, thậm chí có thể gây ra tử vong.

            Vào thập niên 1950s, trong khi các công ti thuốc lá kinh doanh khấm khá, một số nhà nghiên cứu đã công bố nhiều bằng chứng cho thấy thuốc lá có tác dụng gây ung thư.  Năm 1952, Tiến sĩ Ernst L. Wynders khám phá rằng nhựa thuốc lá tồn đọng trên lưng chuột gây ra ung thư.  Sau hơn 10 vận động, chính phủ Anh quyết định cấm quảng cáo thuốc lá trên tivi.  Một năm sau đó, chính phủ Mĩ cũng bắt đầu hành động, nhưng nhẹ nhàng hơn Anh: họ bắt buộc các công ti sản xuất thuốc lá phải in trên các bao thuốc những hàng chữ cảnh báo về "tai nạn" mà thuốc lá có thể gây ra.  Và như chúng ta biết, cho đến nay, ở các nước Tây phương, tất cả các sản phẩm thuốc lá đều phải có một lời cảnh báo [thường được ghi lớn và rõ ràng] về sự tai hại của thuốc lá.  Ở một vài nước, thậm chí chính phủ bắt buộc các công ti thuốc lá phải ghi một cách cực kì rõ ràng, không lòng vòng, rằng: “Smoking kills” (tức “hút thuốc giết người”)

            Thế thì câu hỏi cần được đặt ra là: trong thuốc lá có gì mà nguy hiểm như thế?  Theo kết quả của hàng trăm nghiên cứu, thuốc lá chứa khoảng 4.000 hóa chất.  Trong số 4.000 hóa chất này, có 43 độc chất được xem hay nghi ngờ là nguyên nhân gây ra ung thư.  Các hóa chất khác cũng không kém độc hại: ammonia (một loại gas có thể tìm thấy trong các loại hóa chất dùng để lau sàn nhà), acetone (chất dùng để tẩy xóa nước sơn), methanol (nhiên liệu dùng cho hỏa tiển), arsenic (một hóa chất cực kì độc hại, từng được nghi là đã được dùng để giết chết vua Quang Trung), hydrogen cyanide (một loại gas vô cùng độc hại), butane (dùng cho mồi lửa), DDT (thuốc khai hoang dùng để diệt cỏ), carbon monoxide (một loại gas cực kì nguy hiểm xuất phát từ ống khói xe), benzopyrene (một hóa chất có khả năng làm thay đổi cấu trúc của di truyền tố Ras codon), v.v…  Nhưng thành phần hóa học trong thuốc lá quan trọng hơn hết là nicotine, một chất lỏng có màu vàng nhạt.  Tác dụng của nicotine rất đa dạng, song nói một cách ngắn gọn: nicotine là một loại ma túy, ngoài việc làm cho người dùng phải nghiền, nó còn làm cho người dùng cảm thấy run tay, hơi thở tanh hôi, quần áo hôi hám, và ngón tay trở thành màu vàng.

            Khi hít khói thuốc lá, 4000 hóa chất trên, kể cả nicotine, theo nhau vào cuốn phổi và máu.  Chỉ trong vòng 7 giây, nicotine trực chỉ vào bộ não, và theo máu vào tim, làm cho tim có ít oxygen hơn.  Một khi đã vào tới não, nicotine phát tín hiệu cho các cơ quan của não phải làm việc: tăng nhịp đập của tim, tăng áp suất máu, và làm xáo trộn làn sóng não (brain wave).  Đồng thời, nicotine làm hạn chế sự tuần hoàn của máu, giảm nhiệt độ của da, và thay đổi các vận hành quan trọng khác trong cơ thể.  Vì thế, khi hút thuốc, người ta cảm thấy "bất bình thường", có cảm giác lâng lâng, đê mê, chất ngất ... 

            Vì chứa nhiều chất độc hại như thế, nên ảnh hưởng của thuốc lá trong sức khỏe con người rất ư là ghê gớm.  Hầu như tất cả các cơ quan trong cơ thể của người hút thuốc, không ít thì nhiều, đều bị ảnh hưởng bởi khói thuốc.  Ngoài tác hại tăng mỡ trong máu, thuốc lá là nguyên nhân gây ra các chứng bệnh tim, bệnh nhồi máu cơ tim, đau thắt ngực, phình mạch máu não, sơ vữa động mạch, đột quị, viêm phế quản, khí thủng, các bệnh đường hô hấp, ung thư phổi, ung thư miệng, ung thư cuốn họng, ung thư thanh quản, ung thư thực quản, ung thư bàng quang, ung thư tụy, và ung thư thận.  Thực ra, danh sách này còn dài nữa, nhưng vì giới hạn của bài viết, tôi chỉ muốn giới hạn trong những căn bệnh thông thường. 

            Ngoài các chứng bệnh được liệt kê trên, ở phụ nữ, hút thuốc lá còn gây ra nhiều tác hại cực kì nguy hiểm, như làm hại đến não của bào thai, sảy thai, và có thể gây ra dị tật bẩm sinh cho con.  Phụ nữ hút thuốc còn có nguy cơ bị bệnh loãng xương, vì họ có mật độ xương thấp hơn các bà không hút thuốc đến 15%.  Bệnh viêm khớp xương cũng rất thường thấy ở phụ nữ hút thuốc lá.  Nhưng có lẽ tác hại đáng sợ đối với giới phụ nữ là thuốc lá còn làm cho da chóng nhăn nheo, và vì thế làm cho người phụ nữ mau già trước tuổi.

            Hệ quả cuối cùng của thuốc lá là tử vong.  Nói chính xác hơn là chết sớm.  Tính trung bình, trong độ tuổi trung niên, tỉ lệ tử vong ở những người hút thuốc cao hơn khoảng 70% so với những người không hút thuốc.  Và vì thế, người hút thuốc lá có tuổi thọ ngắn hơn người không hút thuốc khoảng 15 năm.  Tính ra, mỗi điếu thuốc làm giảm đi khoảng 5 phút tuổi thọ! 

Trong y tế cộng đồng, người ta chia các tử vong thành hai nhóm: nhóm thứ nhất là những cái chết không thể tránh khỏi được (như chết vì tuổi già yếu, chết đột ngột), và nhóm hai là những cái chết có thể ngăn ngừa được.  Ví dụ như chết vì những nguyên nhân như hút thuốc lá, uống rượu quá độ, nhảy dù, đâm chém, v.v... là những tử vong có thể ngăn ngừa được.  Thuốc lá là nguyên nhân số một gây ra những tử vong có thể phòng ngừa được.  Trên bình diện toàn cầu, theo tài liệu nghiên cứu thuộc Tổ chức Y tế Thế giới của Liên Hiệp Quốc (World Health Organisation) thì trên thế giới hàng năm có khoảng 6 triệu người chết sớm hơn tuổi thọ trung bình vì thuốc lá.  Con số này được phỏng đoán sẽ gia tăng lên 10 triệu người vào năm 2020.  Các chuyên gia y tế thế giới còn ước tính rằng đến năm 2020, thuốc lá sẽ là nguyên nhân số 1 trực tiếp gây ra tử vong.  Vì thế, chúng ta không ngạc nhiên là ngày nay, thuốc lá được xem là kẻ thù số một của giới làm công tác y tế.

Ảnh hưởng thuốc lá ở Việt Nam

            Trong vài tuần qua có hai nghiên cứu công bố trên hai tập san y học quốc tế có ý nghĩa và liên quan đến thuốc lá ở nước ta: đó là công trình nghiên cứu về ảnh hưởng của hút thuốc lá đến ung thư, và tác hại của thuốc lá đến ngân sách y tế ở Việt Nam. 

Nghiên cứu thứ nhất tổng kết các nghiên cứu trong thời gian trên 40 năm qua (tính từ 1961 đến 2003) về mối liên liên hệ giữa hút thuốc lá và ung thư.  Kết quả phân tích cho thấy so với những người không hút thuốc lá, người hút thuốc có nguy cơ mắc bệnh ung thư phổi cao gấp 9 lần, ung thư họng 7 lần, ung thư thanh quản 7 lần.  Nguy cơ mắc bệnh ung thư gan, bao tử, và thận ở những người hút thuốc lá cũng tăng từ 50% đến 100% so với những người không hút thuốc.

Đây là những kết quả rất đáng chú ý, bởi vì từ trước đến nay chúng ta vẫn biết tác hại của hút thuốc lá đến ung thư, nhưng không biết mức độ ảnh hưởng cao cỡ nào.  Nghiên cứu này cho thấy một lần nữa, hút thuốc lá là yếu tố chính (nếu không muốn nói là nguyên nhân) gây bệnh ung thư phổi. 

Dựa vào các dữ liệu này và tỉ lệ phát sinh ung thư hàng năm, tôi ước tính rằng mỗi năm có khoảng 11.500 thanh niên và đàn ông trên 20 tuổi mắc bệnh ung thư phổi; trong số này 85% (hay 9.800 trường hợp) là có liên quan đến hút thuốc lá.  Hút thuốc lá cũng là yếu tố nguy cơ có liên quan đến 85% trường hợp ung thư họng, nhưng số lượng bệnh nhân ít hơn ung thư phổi (xem chi tiết trong bảnh dưới đây). 

 

Ước tính số ca ung thư hàng năm ở nam giới và số ca có liên quan đến hút thuốc lá

 

Ung thư

Số ca hàng năm (nam)

Số ca có liên quan đến hay do thuốc lá

Phổi

11.500

9.800

Họng

2.800

2.300

Ruột

4.000

1.700

Bao tử

10.300

3.500

Gan

5.100

1.500

 

Nhưng ung thư không phải là hệ quả duy nhất của thói quen hút thuốc lá, một phần lớn các bệnh hô hấp như hen, tắc nghẽn mãn tính (COPD) cũng có liên quan đến hay do hút thuốc lá gây ra. 

Nghiên cứu thứ hai các nhà khoa học Mĩ – Việt phân tích chi phí liên quan đến thuốc lá, và ước tính rằng chi phí điều trị trong bệnh viện liên quan đến hút thuốc lá ở nước ta (thời giá ăm 2005) là 1.161.829 triệu đồng (tức khoảng 78 triệu USD); trong số này, 80% liên quan đến bệnh COPD và khoảng 8% liên quan đến ung thư phổi.  Con số 78 triệu USD chiếm khoảng 0,2% GDP và 4,3% ngân sách y tế quốc gia.  Trong số chi phí điều trị các bệnh liên quan đến thuốc lá, 51% là do Nhà nước chi, 34% do dân, và 15% là bảo hiểm.

Trớ trêu thay, chúng ta thường hay quan tâm (có khi hoảng hốt) trước những “đe dọa cấp tính” như dịch cúm gà, hay thậm chí … mắm tôm, nhưng chưa quan tâm đúng mức đến những nguy cơ lớn hơn và nghiêm trọng hơn như vấn đề hút thuốc lá.

Thuốc lá và môi trường

            Người hút thuốc lá có một thói quen rất xấu: hút xong điếu thuốc họ nghiễm nhiên quăng xuống đường phố.  Có người “tử tế” hơn thì dùng đôi giày chà đạp đến khi điếu thuốc mất lửa rồi thản nhiên bỏ đi!  Hệ quả là tàn thuốc ngay trên đường phố, và làm nghẽn cống rảnh, làm ô nhiễm môi trường.  Ở Úc mới đây chính phủ ra luật phạt 200 đôla những ai bỏ tàn thuốc lá xuống đường. 

            Nhưng một loại ô nhiễm khác đáng nói hơn là khói thuốc.  Khói thuốc lá là một chất ô nhiễm môi trường lớn nhất.  Ở các nước có nền phát triển kĩ nghệ cao, thuốc lá và ethanol là hai nguyên nhân chính dẫn đến tử vong mà đáng lí ra là có thể phòng ngừa được.  Vì thuốc lá là một vấn đề môi trường, những người sống trong môi trường đó, tuy không hút thuốc, nhưng cũng chịu ảnh hưởng lây.  Thực vậy, nghiên cứu trong vòng ba mươi năm nay cho thấy thuốc lá còn gây ra những tai hại sức khỏe cho người không hút, nhưng ở gần người hút thuốc lá.  Hiện tượng này còn được gọi là "hút thuốc thụ động" (passive smoking) hay hút thuốc lây.  Theo nghiên cứu ở Mĩ, hàng năm, hút thuốc thụ động gây ra ung thư cho khoảng 5.000 người.  Cơ quan kiểm tra môi trường (Environmental Protection Agency) của Mĩ cũng ước tính là hàng năm có khoảng 53.000 người bị chết vì hút thuốc thụ động.

            Không có loại thuốc lá nào có thể gọi là "an toàn" hay vô hại cả.  Nhiều công trình nghiên cứu ở Mĩ đã cho thấy rằng các loại thuốc lá mang những nhãn hiệu bịp bợm như "low tar" (ít chất nhựa) hay "low nicotine" (bớt chất nicotine), thực ra có mức độ tác hại y như các loại thuốc lá thông thường. 

            Vì mức độ ảnh hưởng ghê gớm của thuốc lá -- không những đến cá nhân người hút, mà còn trong xã hội -- nên ngày nay ở nhiều nước trên thế giới, hút thuốc lá được xem là một hành động phản xã hội, một hành động mất lịch sự.  Ở các nước Tây phương, trong tất cả các cơ quan thuộc chính phủ, và hầu hết các cơ sở công cộng như nhà hàng, ga xe, cầu xí, v.v… đều cấm hút thuốc lá.  Ở Mĩ vào thập niên 1990, chính phủ có đạo luật cấm những ai hút thuốc lá không được quyền xin con nuôi.  Ở Singapore, trẻ em vị thành niên (dưới 18 tuổi) hút thuốc lá sẽ bị phạt đánh đòn (bằng roi).  Thông thường, trước khi mổ tim, bác sĩ hỏi xem người bệnh có hút thuốc lá hay không.  Nếu bênh nhân là người hút thuốc, bác sĩ sẽ phải dành một thời gian để làm sạch lồng phổi trước khi giải phẫu. 

Tại sao người ta hút thuốc lá?

            Dù thuốc lá độc hại như thế, tại sao lại có đến một phần ba dân số trên thế giới làm bạn với thuốc lá?  Theo các nghiên cứu trong vòng năm thập niên qua, ta có thể lấy ra 5 lí do chính:

  • tâm thần căng thẳng, buồn phiền, hay chán chường, tuyệt vọng;
  • chỉ thuần túy vì muốn "thưởng thức" khói thuốc;
  • do áp lực xã hội, muốn hòa đồng với đám đông;
  • thói quen;
  • và cuối cùng là do nghiện ngập.

            Những tình huống căng thẳng, hồi hộp như tình cảnh của chàng trai trong bài thơ "Ngập Ngừng" [được trích trên đây] của thi sĩ Hồ Dzếnh là một môi trường lí tưởng cho người ta làm bạn với thuốc lá.  Theo thống kê, các sinh viên y khoa cũng là những người hay dùng thuốc lá để tìm cách giảm căng thẳng trong các kì thi cử.  Có người còn hút thuốc vì muốn có sự kích thích trong suy nghĩ; do đó không ngạc nhiên khi chúng ta thấy phần lớn văn nghệ sĩ đều phì phèo thuốc lá trên miệng.

Có người hút thuốc vì họ cho rằng trên tay có điếu thuốc hay trong túi áo có gói thuốc lá là một biểu hiện của sự “trưởng thành”, ma-cô, và đàn ông tính.

            Tuy nhiên, cũng có nhiều người chỉ muốn "thưởng thức" thuốc lá trong những giây phút rảnh rang, và ở trạng thái tâm thần hoàn toàn bình thường.  Những người này thường là người có học, giàu có, trưởng giả và thường hút xì-gà.  Vì thế, trong một thời gian dài, người hút thuốc xì-gà được xem là một giới sành điệu, tinh vi, và thuộc giai cấp quí phái.  Tất nhiên, xì-gà còn là biểu tượng của một sự sexy (gợi tình) và quyền thế.  Cựu tổng thống Mĩ, Bill Clinton, đã chẳng từng dan díu với nàng Monica Lewinsky xinh đẹp qua điếu xì-gà là gì!

            Khi được hỏi tại sao những người trẻ hút thuốc lá, câu trả lời thường là áp lực xã hội và môi trường chung quanh; tức là thấy bạn bè mời/ép/thách thức hút, và vì tình bạn hay vì tự ái cá nhân, nên không muốn từ chối.  Ảnh hưởng của “thần tượng” cũng là một động cơ dẫn đến hút thuốc.  Có người còn thích chỉ ra những thần tượng của họ như Winston Churchill, Franklin Rooservelt, Đặng Tiểu Bình, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Charles de Gaulle, Albert Einstein, John Wayne, Clint Eastwood, v.v… là những người từng hút thuốc lá. 

YKN-Phạm Xuân Ẩn, nhà tình báo tài ba, là người ghiền thuốc lá.

            Thói quen cũng là một lí do quan trọng.  Có người hút thuốc trong khi làm việc.  Nhất là đối với những người năng động, trong khi làm việc gì đó, họ cảm thấy cần có một “đối tượng” để bận bịu với.  Một điếu thuốc trên tay là một trong những đối tượng này.

            Lí do sau cùng và đơn giản nhất là nghiện.  Thế nào là " nghiện "?  Giới tâm lí học định nghĩa một chất " nghiện" bằng ba đặc tính cụ thể như sau: một là người dùng khó có khả năng ngưng dùng cho dù cũng có cố gắng; hai là người dùng vẫn cứ dùng mặc dù biết rõ chất đó có tai hại; và ba là dù ngưng dùng, nhưng chất đó có gây ra vài hậu quả như triệu chứng bồn chồn, khó ngủ, khó chịu và khó tập trung vào việc gì một cách lâu dài.  Căn cứ theo ba đặc tính này, nhiều cuộc nghiên cứu lâm sàng trong vòng 50 năm qua đã khẳng định rằng chất nicotine trong thuốc lá là thủ phạm chính làm cho người hút thuốc phải nghiện.

Có bao nhiêu người hút thuốc lá ở Việt Nam ?

Theo một nghiên cứu được công bố vào năm 1997 trên tập san y học Journal of the American Medical Association (JAMA), khoảng 73% đàn ông và thanh niên (tuổi từ 18 trở lên) hút thuốc lá.  Đây là một tỉ lệ cao nhất thế giới mà các nhà nghiên cứu Việt-Mĩ đã ghi nhận.  Cao hơn cả Trung Quốc và Nhật!  Nếu tính theo dân số hiện hành, nước ta có 18,24 triệu thanh niên và đàn ông trên 20 tuổi hút thuốc lá!

            Hiện nay, ở các nước đã phát triển như Mĩ, Âu châu, Canada, Úc, v.v..., cứ 10 người đàn ông, có khoảng 3 người hút thuốc lá.  Điều đáng chú ý là trong vài năm gần đây, tỉ lệ phụ nữ hút thuốc lá đã tăng liên tục, và cho tới nay, đã cao hơn tỉ lệ trong đàn ông. 

            Ở Úc, theo một cuộc khảo cứu ngẫu nhiên trong khoảng 400 đàn ông gốc Việt cư ngụ tại Sydney vào năm 1993, cứ 10 người được hỏi thì có 4 người hút thuốc lá (tức 40%).  Mười năm sau (2003), tỉ lệ này giảm xuống còn 35%, tức tương đương với tỉ lệ hút thuốc lá của dân địa phương. 

            Trong thực tế, số người và bệnh bị ảnh hưởng bởi thuốc lá còn cao hơn trong thực tế.  Nếu 18,24 triệu đàn ông thanh niên hút thuốc lá thì số người bị phơi nhiễm khói thuốc còn cao hơn 18,24 triệu nhiều.  Thuật ngữ y khoa gọi đây là tình trạng “hút thuốc thụ động” (passive smoking).  Đã có nhiều nghiên cứu cho thấy những người hút thuốc thụ động này cũng có nguy cơ mắc bệnh cao hơn trung bình.

Có lối nào ra ?

            Mặc dù ma lực cám dỗ của thuốc lá rất lớn, nhưng điều đáng vui mừng là người hút thuốc lá hoàn toàn có thể bỏ thói quen này.  Có rất nhiều phương pháp cai thuốc lá.  Phương pháp thành công nhất là bỏ hút thuốc một cách đột ngột (mà người Mĩ gọi là “cold turkey”); tức là đột nhiên một ngày nào đó người hút quyết định từ bỏ thói quen này một cách dứt khoát.  Ngoài ra, có người chọn một ngày nào đó (như ngày hôm nay chẳng hạn) và tuyệt nhiên ngưng dùng thuốc lá, không thèm ngó đến gói thuốc nữa. 

            Như đã đề cập ở trên, nicotine là chất gây ra ghiền, nên một phương pháp cai thuốc lá hữu hiệu dành cho những người nghiện nặng là dùng một chất “nicotine giả” thay cho chất nicotine thực (phương pháp này được gọi bằng tiếng Anh là "nicotine replacement therapy"). 

            Phương pháp thứ ba là dùng thuốc.  Trong những thuốc dùng để cai nghiện thuốc lá hữu hiệu có lẽ phải kể đến Zyban.  Theo vài nghiên cứu lâm sàng, Zyban không những có khả năng cai nghiện thuốc lá, mà còn làm cho người cai thuốc ăn ngon, bớt béo phì, yêu đời, và thậm chí tăng cảm hứng tình dục (giống như viagra!).  Ngoài Zyban ra, còn có các loại thuốc như Doxepin, Clonidine, Nicotol cũng có công hiệu giúp cai thuốc lá.  "Skin patch" hay “nicotine patch”, một loại thuốc dán lên da, cũng có khả năng giúp cai thuốc lá.

            Cai hút thuốc là một việc làm đầy thách thức, có khi gian nan, và nó đòi hỏi ở "nạn nhân" một quyết tâm cao độ và một kế hoạch đối phó với những phản ứng của cơ thể trong thời kì sau khi cai thuốc.  Những phản ứng mà người cai thuốc có thể gặp phải là:

  • chóng mặt, vì cơ thể đang phải tìm cách thích nghi với "môi trường" không có thuốc lá;
  • nhức đầu có thể xảy ra vì huyết áp đang dần dần trở lại trạng thái bình thường (sau khoảng 30 ngày, huyết áp sẽ trở lại trạng thái bình thường);
  • cảm giác ngứa ngáy, đau bắp thịt, và run tay, thường kéo dài khoảng hai tuần, là những dấu hiệu cho thấy hệ thống tuần hoàn đang trong tình trạng "cải tiến";
  • xáo trộn tiêu hóa, táo bón, tiêu chảy, nôn ói, đau dạ dày, và khô cuốn họng cũng có thể xảy ra, nhưng chỉ kéo dài khoảng vài ba ngày;
  • thường hay ho, vì cuốn phổi cần phải tẩy bỏ đi những chất nhờn do nhựa thuốc lá gây ra;
  • thay đổi tính tình, có thể khó hay dễ tính, vì cảm thấy mất đi một "thú tiêu khiển";
  • ngủ không ngon giấc và đôi khi nằm mơ với ác mộng trong vài ngày đầu sau khi cai thuốc.

            Tuy nhiên, bù lại, về lâu về dài, người cai thuốc sẽ hưởng nhiều lợi ích đáng kể.  Nhiều lợi ích có thể thấy trong vòng vài ngày, thậm chí vài giờ, sau khi cai thuốc.  Nếu một người hút trung bình 20 điếu hàng ngày, và muốn có ý định bỏ hút thuốc, sau đây là những phản ứng của cơ thể:

  • sau 6 đến 8 giờ, chất nicotine sẽ không còn tồn tại trong cơ thể.  Trong vòng hai ngày, các chất có liên quan đến nicotine cũng không còn;
  • sau 24 giờ, chất carbon monoxide cũng sẽ được thải ra.  Phổi làm việc tốt hơn;
  • sau hai ngày, vị giác và khứu giác bắt đầu tinh tế trở lại.  Hơi thở, tóc, ngón tay và răng sẽ sạch sẻ hơn;
  • trong vòng hai tháng bỏ hút thuốc, lưu chuyển máu đến tay và chân bắt đầu đều đặn hơn.  Và vì thế, chân và tay cảm thấy ấm hơn, có năng lượng hơn;
  • sau 12 tháng, nguy cơ bị chết vì các chứng đau tim sẽ giảm còn phân nửa;
  • sau 5 năm bỏ hút thuốc, sức khỏe sẽ trở lại hoàn toàn bình thường như người không hút thuốc.

Để kết thúc bài này tôi muốn quay lại với những câu thơ của thi sĩ Hồ Dzếnh: Em cứ hẹn, nhưng em đừng đến nhé / Để lòng buồn tôi dạo khắp trong sân / Ngó trên tay điếu thuốc đã lụi dần / Tôi nói khẽ: gớm, làm sao nhớ thế!  Những câu thơ có tính cách độc thoại, nhưng nhẹ nhàng và trữ tình đó làm cho người đọc liên tưởng đến một chàng trai ăn mặc bảnh bao đang bồn chồn ngóng đợi người yêu trễ hẹn (có lẽ nàng cố tình làm thế để cho chàng phải đau khổ, và ... nhớ nhung da diết.)  Chàng đi tới đi lui, đi qua đi lại, miệng phì phèo khói thuốc; trong khi trên tay, điếu thuốc lá đang từ từ lụi dần.  Một hình ảnh tội nghiệp.  Mà, đáng thương thật, vì nếu căn cứ theo những gì mà người ta biết về sự tác hại của thuốc lá như tôi vừa trình bày, thì người thanh niên này sắp cống hiến cho thế giới một con số thống kê về tử vong.

            Khi bạn đọc đã đọc xong bài viết này thì trên thế giới đã có khoảng 80 người đang từ giả cõi đời vì khói thuốc.  Bạn có muốn làm một con số thống kê này không?  Tôi tin rằng câu trả lời là "không".  Xã hội, gia đình và bạn bè đang cần bạn. Vắng một người thế giới trở nên hoang vu.  Trịnh Công Sơn từng nói như thế, nhưng cũng chết vì thuốc lá một phần!  Bạn hãy lấy ngày hôm nay để làm cái mốc lịch sử trong đời mình bằng cách bỏ hút thuốc lá.  Và tôi chúc bạn nhiều may mắn.


200 năm Darwin
Agent Orange: collateral damage
Alexandre Yersin và Việt Nam
Bàn về hiệu quả vắcxin: lâm sàng và kinh tế
Bàn về vấn đề dịch thuật và đánh giá năng suất khoa học
Béo phì ở người Á châu
Béo phì ở trẻ em và virus
Bình luận từ Dr. Yến
Bưởi không gây ung thư vú
Bảo hiểm y tế cộng đồng
Bảo tồn môi sinh: Chiến tranh giữa hai thế giới
Bằng chứng khoa học thay vì lên lớp
Bệnh tả: không để Việt Nam thành Bangladesh thứ hai
Bệnh tật nhìn từ quan điểm của thuyết tiến hóa
Bệnh xơ hóa cơ delta qua y văn thế giới
Bổ sung kẽm và điều trị bệnh tả
Bộ gen trong cây lúa và triển vọng
Bộ Y tế phản ứng chậm với rét đậm
Chiều cao của người Việt
Chiều cao và tổng thống Mĩ
Cholesterol và bệnh Tim
Cholesterol: hung thần hay bạn?
Chuột và... các nhà khoa học
Chính sách y tế cần dựa vào bằng chứng khoa học
Chạy đua vũ khí và … dịch cúm
Chất béo, cholesterol, bệnh tim và statins: xét lại bằng chứng
Chất keo xã hội: hormones
Chất lượng nghiên cứu dịch tễ học và y tế cộng đồng của Việt Nam qua chỉ số H
Chất lượng nghiên cứu khoa học ở Việt Nam qua chỉ số trích dẫn
Chất vấn chuẩn chẩn đoán béo phì
Chế độ ăn uống với nhiều thịt động vật và nguy cơ tử vong
Chủng vi khuẩn tả hiện nay ở nước ta có phải mới xuất hiện?
Cuộc chiến hóa học phi pháp lớn nhất trong lịch sử chiến tranh
Câu chuyện y học: Leptin và béo phì
Có bao nhiêu bác sĩ viết chữ khó đọc
Có nên tập trung vào vi khuẩn E. coli ?
Có thể xảy ra đại dịch cúm gia cầm?
Công cụ đơn giản để chẩn đoán tiểu đường ở người Đông Nam Á
Cúm gia cầm và nhiễu thông tin
Cúm H1N1: biết và chưa biết
Cơ hội để khép lại một chương lịch sử đau lòng
Cần hiểu đúng về Ung thư và nguy cơ ung thư
Cần qui ước đạo đức cho kĩ nghệ thực phẩm
Cần tiêm chủng ngừa bệnh tả vùng có nguy cơ cao
Cần điều tra về chất lượng bệnh viện
Cổ phần hóa bệnh viện công và chất lượng
Cổ phần hóa: chưa phải cách duy nhất
DDT và vấn đề cân đối giữa lợi ích và nguy hiểm
Dinh dưỡng: một nguồn thuốc quí giá
DNA không nói dối, nhưng DNA có thể nói … sai
Dịch cúm gà: hoang mang và sự thật khoa học
Dịch cúm heo và tác hại kinh tế
Dịch tay-chân-miệng
Dịch tả: gọi đúng tên để phòng ngừa
Dựa vào khoa học, đừng dựa vào niềm tin!
E. coli – vài câu hỏi thông thường
Gen và bệnh tật
Ghen tuông dưới cái nhìn của tâm lí y khoa
Gian lận trong nghiên cứu khoa học: áp lực kinh tế và cơ chế bình duyệt
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC: KHƠI DẬY VÀ NUÔI DƯỠNG TÍNH HAM HỌC
Giải nobel y học hay sinh lí học 2007 và lợi ích cho người bệnh
Giải Nobel Y sinh học 2008 và những tranh chấp khoa học
Giải Nobel y sinh học 2010 vinh danh người đem niềm vui cho người vô sinh
Giải Nobel y sinh học năm 2005: Một cõi đi về với vi khuẩn
Giải Nobel y sinh học: Nhìn lại quãng đường 100 năm
Giải phẫu ghép mặt và vấn đề y đức
Gout ở xương sống
Gãy xương và tử vong: một vấn nạn y tế cộng đồng
Hiệu quả vắcxin có nghĩa gì?
Hoa vàng mấy độc
Hàm lượng đạm trong sữa “siêu thấp” hay “siêu cao”?
Hóa chất khai hoang trong cuộc chiến Viện Nam: Qui mô và tầm ảnh hưởng
Hướng đi nào để giải quyết vấn đề chất độc da cam ở Việt Nam
Hậu “mắm tôm được minh oan”: bằng chứng khoa học, nhà xí và nghiên cứu
Hệ Thống Học Vị Và Học Hàm Khoa Học Ở Vài Nước Tây Phương
Hợp tác khoa học kiểu nhảy dù - Nguyễn Văn Tuấn
Khi bác sĩ trẻ “khoe” quá nhiều
Khoa học và ngụy khoa học: một vài đặc điểm và khác biệt cần biết
Khoa học, xã hội, và rủi ro
Không thể thành Phù Đổng trong 20 năm!
Khẩu trang và phòng chống cúm A/H1N1
Kiểm định giả thuyết mắm tôm và vi khuẩn tả
Liều lượng melamine bao nhiêu là an toàn?
Lí lịch sinh học của heo và dấu vết văn minh nông nghiệp Đông Nam Á
Lượng giá mạng sống con người
Lợi ích của vitamin D
Miệng nhà quan
Mắm tôm có phải là “thủ phạm” gây bệnh tả? Xét lại bằng chứng khoa học
Mắm tôm và chuyện xin lỗi
Mắm tôm và dịch tả: phân biệt yếu tố nguy cơ và nguyên nhân
Mắm tôm vô tội!
Mắm tôm, nguyên nhân và hệ quả
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Một bệnh hiếm X-linked recessive hypoparathyroidism
Một lần đi phỏng vấn
Một năm nhìn lại
Một phán quyết thiếu cơ sở khoa học
Một vài hiểu lầm tai hại
Một vài ngộ nhận về nghiên cứu khoa học
Một vài vấn đề về qui định chức danh giáo sư ở Việt Nam
Một vụ Madoff trong y khoa: Lại một ngôi sao y khoa rơi rụng!
Mỡ trắng, mỡ nâu
Mỡ  trong máu, huyết áp, và  tiểu đường
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nguyên nhân bệnh tiêu chảy
Ngó trên tay điếu thuốc đã lụi dần
Người cao tuổi và sự hạn chế của y khoa
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Nhân chuyện dịch tả nhớ lại John Snow
Nhân câu chuyện điện não đồ xét nghiệm nghiện ma túy:
Nhân năm khỉ_nguồn gốc con người hiện đại
Nhân năm Tý bàn chuyện thí nghiệm trên chuột
Nhìn lại khoa học Việt Nam năm 2008 qua công bố quốc tế
Nhầm lẫn trong y khoa: Khá phổ biến, nhưng ít ai biết!
Những câu hỏi và trả lời về dịch gia cầm
Những sai sót khó tin nhưng có thật
Những sai sót nguy hiểm trong toa thuốc
Những điều khó tin về “Bảy điều khó tin nhất trong y học”
Năm lí do cho mắm tôm “vô tội”
Phán quyết sau cùng: Chất béo không ảnh hưởng đến ung thư và bệnh tim
Phát hiện gien kiểm soát ráy tai: vài bài học về mò kim đáy biển
Phòng chống bệnh phải dựa vào bằng chứng khoa học!
Phòng chống H1N1 bằng rửa tay và khẩu trang: Biện pháp nào hiệu quả hơn?
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao và cân nặng: thiếu cơ sở khoa học và kì thị giới tính
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao: vấn đề giả định và bằng chứng khoa học
Quyền phê phán và trí thức
Quyền được tiếp cận hồ sơ bệnh án
Quản lý chất lượng: Thuốc phòng "tai nạn y khoa"
Rửa tay bằng xà phòng và tiêu chảy
Serotonin có liên quan đến chứng đột tử
Suy dinh dưỡng ở trẻ em: vấn đề của kinh tế
Sàng lọc trẻ sơ sinh trên phạm vi toàn quốc
Tai nạn y khoa trong bệnh viện
Thế nào là một "bài báo khoa học"
Thế nào là “Cơ sở khoa học” ?
Thịt chó là nguyên nhân của bệnh tiêu chảy cấp tính?
Thịt chó và bệnh tả: nguyên nhân và yếu tố nguy cơ
Tiên lượng bệnh Alzheimer bằng protein expression ?
Tiêu chuẩn chất lượng giáo dục đại học
Tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì cho người Việt - Nguyễn Văn Tuấn
Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh đái tháo đường (diabetes mellitus)
Tiêu chuẩn đề bạt giáo sư: Có nên căn cứ vào số lượng bài báo ?
Tiêu chảy cấp tính và bệnh tả: Định danh cho đúng
Truy tìm ung thư bằng mammography từ tuổi 50
Truyền thông và khoa học: Qui ước Ingelfinger
Truyền thông và y tế
Truyền thông, khoa học và … doanh nghiệp
Trà xanh và sức khỏe
Trách nhiệm và nhân đạo trong vấn đề chất độc da cam
Trái chanh và phòng chống bệnh tả
Trả lời những câu hỏi liên quan đến loãng xương
Trọng lượng cơ thể và tử vong ở người Trung Quốc: Ý nghĩa về việc xác định tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì
Tuổi thọ của người dân giảm 10 năm ?
Tác dụng Placebo trong y học: Tâm lí và ý nghĩa
Tình yêu, sắc đẹp nhìn dưới quan điểm di truyền học
Tín hiệu môi trường từ những “làng ung thư”
Tính khoa học và minh bạch đằng sau xét nghiệm doping
Tại sao không phát biểu về nguyên nhân và hệ quả ?
Tại sao uống rượu gây đỏ mặt và nguy cơ ung thư thực quản
Tạo sinh vô tính và cái chết của Thượng đế
Tạo sinh vô tính và vấn đề sinh đạo đức
Tản mạn về SARS
Tỉ lệ tử vong do cúm heo là bao nhiêu ?
Tự trị, chất lượng và y đức thay vì cổ phần hóa bệnh viện công
Ung thư vú và vấn đề thông tin y khoa
Uống bia hấp dẫn muỗi
Vaccine phòng chống AIDS hiệu quả đến đâu ?
Vaccine phòng chống cúm A/H1N1
Vi khuẩn gây tiêu chảy và ý nghĩa tiêm chủng
Vi khuẩn tả trong chó ?
Viết văn có thể chữa nhiều loại bệnh
Viết văn và trị liệu
Việc ta, ta cứ làm!
Vài nhận xét về 12 điều lệ y đức của Việt Nam
Vài thông tin cần biết về các chương trình truy tìm ung thư vú
Vài đóng góp quan trọng của người Việt khoa học thống kê
Văn hóa khoa học
Văn hóa tranh luận và vấn đề ngụy biện
Vấn đề sinh tố: kẽm và đồng
Vấn đề truy tìm ung thư phổi và hiệu quả 
Vấn đề y đức trong nghiên cứu tế bào mầm (stem cells)
Vấn đề đo lường melamine
Vấn đề đào tạo tiến sĩ: kinh nghiệm từ Australia
Vắc-xin phòng chống ung thư cổ tử cung
Vắcxin ngừa viêm gan B: cẩn thận với “nhiễu thông tin”
Vắcxin ngừa viêm gan B: kinh nghiệm từ nước ngoài
Vắcxin phòng bệnh sởi - quai bị - Rubella: lợi và hại
Vắcxin phòng chống ung thư cổ tử cung: hiệu quả lâm sàng và kinh tế
Vắcxin phòng ngừa bệnh tả: rất cần thiết
Về chấn chỉnh đào tạo tiến sĩ: Công bố bài báo khoa học là một thách thức lớn ?
Về học vị tiến sĩ
Về một sự hiểu lầm thuật ngữ "prospective"
Về phản ứng phụ của bisphosphonates liên quan đến hoại tử xương hàm và rung nhĩ
Vệ sinh như là một loại hàng hóa
Vị thế của nền khoa học Việt Nam
Xung quang xì căng đan về nghiên cứu tế bào mầm
Xã hội hóa và an toàn thực phẩm
Xếp hạng đại học: cần minh bạch hóa phương pháp
Y học hiện đại và những hứa hẹn
Y học thực chứng: vài nét khái quát
Y Khoa và những nhầm lẫn chết người
Y tế dự phòng: nền tảng của y khoa hiện đại
Y đức và nghiên cứu y học
Ói mửa, cao huyết áp và hôn mê
Ăn chay như là một trị liệu
Ăn chay và loãng xương
Điều trị bệnh dựa vào màu da ?
Điều trị đau dây thần kinh tọa bằng phẫu thuật: không có hiệu quả
Đo lường hiệu suất khoa học
Đánh giá đúng tầm quan trọng của ung thư vú 
Đại dịch H1N1
Đại dịch và đại dịch ảo
Đại dịch đã đến ?
Đạo văn trong hoạt động khoa học
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đằng sau những con số hàm lượng đạm trong sữa
Đế quốc Trà
Đề bạt các chức danh khoa bảng: vài kinh nghiệm từ Úc
Đọc lại 12 điều y đức của Việt Nam
Đồi điều về sữa nhiễm melamine
Đừng quên melamine trong các thực phẩm khác!
Ước vọng 200 ?
“Kỹ năng mềm” cho nhà khoa học
“Sẽ” và “có thể”


Trang nhiều tác giả
Trang riêng của Lê Ngọc Dũng
Trang riêng của Lương Lễ Hoàng
Trang riêng của Nguyễn Bảo Trung
Trang riêng của Nguyễn Hoài Nam
Trang riêng của Nguyễn Hữu Đức
Trang riêng của Nguyễn Văn Tuấn
Trang riêng của Nguyễn Ý Đức
Trang riêng của Nguyễn Đình Nguyên
Trang riêng của Phan Xuân Trung
Trang riêng của Đỗ Hồng Ngọc
Trang riêng của Đỗ Minh Tuấn