NGUYỄN VĂN TUẤN

Vấn đề sinh tố: kẽm và đồng

Lisa Sanders (*)

1. Triệu chứng

 

Bác sĩ Lisa bước vào phòng khám của bệnh viện, một phòng nhỏ với đèn điện sáng choang, và trong phòng đã có 5 người chào đón bà.  Bệnh nhân là một trung niên với khuôn mặt dễ nhìn đang ngồi trên xe lăn, đưa tay mời bà vào.  Vợ ông ngồi bên cạnh và 3 con ông đang bận rộn với sách vở, có lẽ chúng đang làm bài tập gì đó.  Đối với gia đình này, cũng như bao nhiêu gia đình khác có bệnh nhân mãn tính, việc nằm bệnh viện đã trở thành một … sinh hoạt gia đình bình thường. 

 

Bệnh nhân vươn mình bắt tay bác sĩ Lisa.  Cái bắt tay chặt nịch, và bàn tay ấm áp, không đượm mồ hôi – bác sĩ Lisa thầm ghi nhận.  Ông có vẻ mệt và đau đớn,  Chính ông cũng nói thế.  Ông cho biết khi bị sốt, ông không thể bắt tay.  Cho đến khoảng 10 ngày trước đây, ông luôn khỏe mạnh – “khỏe mạnh” ở đây phải được hiểu theo nghĩa ông đang ở trong tình trạng không mấy gì khỏe khoắn nhưng khá hơn hiện nay.  Khi lên cơn sốt ông đi khám bác sĩ, và bác sĩ đề nghị ông nhập viện.  Sốt mà nhập viện là một điều không mấy bình thường, nhưng bệnh nhân này không chỉ bị sốt bình thường, mà hệ thống miễn dịch trong cơ thể ông bị suy giảm, và việc điều trị bằng thuốc trụ sinh cùng với xét nghiệm theo dõi liên tục là một điều rất cần thiết.  Chính vì thế mà ông nhập viện với cái chẩn đoán “sốt”.

 

Bệnh nhân 47 tuổi.  Bốn năm trước đây, ông trải qua một cuộc giải phẫu dạ dày.  Cuộc giải phẫu thành công, và ông mất khoảng 100 pounds.  Trước khi giải phẫu, ông bị tiểu đường, cholesterol tăng cao, và chứng ngưng thở ngẫu nhiên trong khi ngủ (sleep apnea), nhưng tất cả các bệnh này đều được khống chế khi ông giảm cân sau cuộc phẫu thuật.

 

Hai năm sau khi giải phẫu, ông bị chứng sa ruột (hernia), một biến chứng khá phổ biến xảy ra ở các bệnh nhân sau giải phẫu dạ dày.  Ông lại trải qua một phẫu thuật khác để điều trị chứng sa ruột, và đó cũng chính là thời điểm bắt đầu cho những vấn đề sức khỏe sau này.  Sau cuộc giải phẫu, ông bị nhiễm trùng khá nặng, và phải nhập viện để được tiêm thuốc trụ sinh, và từ đó ông phải sống với hệ quả của cuộc giải phẫu: dấu mổ mà bác sĩ mổ để điều trị chứng sa ruột không lành.  Không ai biết tại sao.  Nhưng đó không phải là điều bí ẩn duy nhất: 6 tháng trước đây, trong một xét nghiệm máu theo định kì, các bác sĩ phát hiện ông mắc chứng thiếu máu (anemia – tức có quá ít tế bào máu đỏ) và chứng thiếu bạch cầu (neutropenia – tức quá ít tế bào máu trắng để chống viêm).  Sau đó ông trải qua hàng chục xét nghiệm khác, nhưng chẳng ai giải thích được tại sao các triệu chứng mới này lại xuất hiện. 

 

2.  Điều tra

 

Bác sĩ Lisa không phát hiện một dấu hiệu viêm nào khi bà khám bệnh nhân.  Vết thương do giải phẫu ở bụng dài gần bằng một gang tay.  Các mô chung quanh vết mổ không cung cấp một manh mối hay dấu hiệu nào tại sao vết mổ không lành.  Xét nghiệm máu cho thấy cơ thể có 2,000 tế bào máu trắng (WBC) trên mỗi ml máu — tức không tới 50% so với mức độ bình thường, ngay cả trong tình trạng không bị nhiễm trùng.  Còn neutrophils — tức các tế bào máu trắng phục vụ như là đội quân tiền phong của hệ thống miễn dịch — chỉ 500 tế bào trên mỗi ml, quá ít để chống trả nhiễm trùng. 

 

Bác sĩ Lisa làm thủ tục nhập viện cho bệnh nhân, đề nghị chụp X quang để tìm xem có dấu hiệu nào liên quan đến viêm phổi không, xét nghiệm máu và nước tiểu để tìm xem có bị nhiễm trùng nào khác và giúp cho quyết định sử dụng thuốc trụ sinh.  Bác sĩ Lisa  nghĩ cho dù không có nhiễm trùng, việc điều trị bằng thuốc trụ sinh có thể giúp làm tăng số lượng tế bào máu trắng để tăng cường khả năng miễn dịch. 

 

Sau đó, bác sĩ xem xét kĩ hồ sơ bệnh lí.  Bà cảm thấy tò mò về tình trạng thiếu máu trắng của bệnh nhân.  Bà có nhiều kinh nghiệm với các bệnh nhân sốt do thiếu tế bào máu trắng, nhưng thông thường nguyên nhân cho tình trạng này khá hiển nhiên.  Một bệnh nhân trải qua hóa học trị liệu (chemotherapy) hay sử dụng thuốc điều trị khả năng miễn dịch thường có lượng tế bào máu trắng giảm thấp.  Nhưng với bệnh nhân này, tình trạng thiếu tế bào máu trắng được mô tả là “idiopathic” – tức không rõ nguyên nhân; sau hàng loạt xét nghiệm, các bác sĩ vẫn không biết tại sao.  Tất cả các xét nghiệm để phát hiện bệnh viêm gan, bệnh HIV, và ngay cả các bệnh miễn dịch và bệnh tuyến giáp đều âm tính.  Xét nghiệm bằng sinh thiết cho thấy bệnh nhân thiếu tế bào máu trắng và tế bào máu đỏ.  Bà bắt đầu truy tìm trong y văn về tình trạng thiếu tế bào máu trắng ...  

 

Sau khi xem xét bệnh lí và đọc y văn, bác sĩ Lisa có thể đặt ra một số giả thiết khả dĩ.  Bệnh nhân uống hàng chục loại thuốc.  Có khả năng một trong những loại thuốc này là nguyên nhân làm giảm tế bào máu trắng?  Ngoài ra, trong vài nghiên cứu, tình trạng suy dinh dưỡng sau khi giải phẫu dạ dày có thể liên quan hay ảnh hưởng đến quá trình sản suất tế bào máu trắng.  Nhưng bệnh nhân đã được xét nghiệm rồi: sắt, sinh tố B12, folate.  Tuy nhiên, bệnh nhân chưa được xét nghiệm xem có suy giảm đồng hay không, nhưng suy giảm đồng trong máu là tình huống rất hiếm.  Trong khoảng 1/3 trường hợp thiếu tế bào máu trắng, không ai bị chứng giảm đồng trong máu cả.

 

Chiều hôm đó, vợ bệnh nhân đến gặp bác sĩ, và cho bà xem một danh sách sinh tố mà bệnh nhân đang dùng.  Bà dặn bác sĩ “Bác sĩ nhớ cho ông ấy uống mấy sinh tố này nhé, vì ông ấy rất cần chúng.”  Bác sĩ Lisa nhìn qua danh sách sinh tố: sắt, can-xi, và đa sinh tố (multivitamin) — những loại “thuốc” phổ biến thường được cho bệnh nhân dùng sau khi phẫu thuật dạ dày, để hạn chế khả năng của cơ thể hấp thụ một số chất dinh dưỡng.  Nhưng rồi bác sĩ Lisa để ý đến hai loại sinh bổ sung mà bà ít thấy: sinh tố A và kẽm.  Có thể các chất dinh dưỡng bổ sung này dính dáng đến tình trạng thiếu tế bào máu trắng của bệnh nhân? 

 

Sinh tố A nếu dùng ở liều lượng cao có thể độc hại.  Ấy thế mà bệnh nhân đang dùng liều lượng cao gấp 10 lần cho phép.  Truy tìm trong y văn chẳng thấy tài liệu nào nói đến ảnh hưởng của sinh tố A đến tế bào máu trắng.  

 

Thế còn kẽm?  Bác sĩ Lisa không biết nhiều về chất khoáng này, nhưng bệnh nhân đang dùng với liều lượng cao gấp 15 lần so với liều lượng cho phép.  Bác sĩ Lisa lại truy tìm trong y văn và … đây rồi!  Gần chục báo cáo trong y văn cho biết dùng kẽm ở liều lượng cao làm suy giảm tế bào máu trắng trong máu và thỉnh thoảng gây ra tình trạng thiếu máu.  Tìm hiểu thêm thì biết rằng kẽm tự nó không phải là vấn đề; vấn đề là khi cơ thể hấp thụ kẽm và đồng qua thụ bào (receptor).  Nếu một cá nhân dùng quá nhiều chất kẽm, cơ thể sẽ giảm khả năng hấp thụ chất đồng.  Đồng là một chất khoáng đóng vai trò quan trọng để điều chế máu và mô.  Vậy thì bệnh nhân có thể có quá ít chất đồng trong máu và đây chính là nguyên nhân cho tình trạng thiếu tế bào máu trắng?  

 

3. Liệu pháp

 

Bác sĩ đề nghị bệnh nhân ngưng sử dụng tất cả các sinh tố và xét nghiệm máu để đo nồng độ đồng trong máu.  Trước khi nhận được kết quả, hiệu quả đã khá hiển nhiên.  Trong vòng vài ngày ngưng sử dụng sinh tố, tế bào máu trắng trở lại mức độ bình thường.  Bệnh nhân được cho xuất viện, với một toa thuốc duy nhất: tăng cường chất đồng trong vòng 6 tháng.  Khi xét nghiệm đồng xong, kết quả xác định tiên đoán của bác sĩ Lisa là đúng: bệnh nhân thiếu chất đồng trong máu.  Vài tháng sau đó, tình trạng thiếu máu cũng được giải quyết xong.  Và, quan trọng hơn, vết thương giải phẫu cũng lành lại.

 

Tại sao bệnh nhân dùng liều lượng sinh tố quá cao?  Bác sĩ giải phẫu cho bệnh nhân dùng sau phẫu thuật điều trị chứng sa ruột để làm rút ngắn thời gian lành vết mổ; và suy nghĩ này cũng phù hợp với y văn, nhưng chỉ trong thời gian đầu sau giải phẫu mà thôi.  Tuy nhiên, vết mổ chưa lành, và bệnh nhân tiếp tục dùng các sinh tố này.  Ngoài ra, bệnh nhân đã từng ra vào bệnh viện nhiều lần sau giải phẫu.  Mỗi lần ông nhập viện, bác sĩ bệnh viện lại tiếp tục cho ông uống sinh tố.  Cả hai phía, bác sĩ và bệnh nhân, đều không biết được hệ quả của việc uống sinh tố quá nhiều.

 

Trong y khoa, có thông lệ rằng những chẩn đoán khó nhất thường do các bác sĩ ít kinh nghiệm nhất và các bác sĩ kinh nghiệm lâu năm tìm ra.  Bác sĩ kinh nghiệm lâu năm có thể chẩn đoán nhanh vì họ đã quá “quen” với các trường hợp tương tự, cũng giống như thám tử Sherlock Holmes.  Bác sĩ trẻ ít kinh nghiệm có thể chẩn đoán các bệnh khó khăn nhất vì họ mới ra khỏi sách vở và có thể theo dõi các đầu mối mà không có một định kiến chủ quan nào, cũng giống như một nhà khoa học trẻ trên hành trình khám phá, không vướng bận với “trường phái” và “lập trường”. 

 

Bác sĩ Lisa nghĩ trong trường hợp này thật là không công bằng cho bệnh nhân chút nào vì bệnh nhân cố gắng làm tất cả những gì ông được khuyên nên làm để chóng hết bệnh, nhưng những gì ông được bác sĩ khuyên lại làm hại ông.  Đơn giản là vì chúng ta không nghĩ rằng sinh tố có khi cũng gây tác hại. 

 

(*) Nguyễn Văn Tuấn lược dịch từ bài viết “The Healing Problem” của Lisa Sanders đăng trên New York Times ngày 12/11/2006.


200 năm Darwin
Agent Orange: collateral damage
Alexandre Yersin và Việt Nam
Bàn về hiệu quả vắcxin: lâm sàng và kinh tế
Bàn về vấn đề dịch thuật và đánh giá năng suất khoa học
Béo phì ở người Á châu
Béo phì ở trẻ em và virus
Bình luận từ Dr. Yến
Bưởi không gây ung thư vú
Bảo hiểm y tế cộng đồng
Bảo tồn môi sinh: Chiến tranh giữa hai thế giới
Bằng chứng khoa học thay vì lên lớp
Bệnh tả: không để Việt Nam thành Bangladesh thứ hai
Bệnh tật nhìn từ quan điểm của thuyết tiến hóa
Bệnh xơ hóa cơ delta qua y văn thế giới
Bổ sung kẽm và điều trị bệnh tả
Bộ gen trong cây lúa và triển vọng
Bộ Y tế phản ứng chậm với rét đậm
Chiều cao của người Việt
Chiều cao và tổng thống Mĩ
Cholesterol và bệnh Tim
Cholesterol: hung thần hay bạn?
Chuột và... các nhà khoa học
Chính sách y tế cần dựa vào bằng chứng khoa học
Chạy đua vũ khí và … dịch cúm
Chất béo, cholesterol, bệnh tim và statins: xét lại bằng chứng
Chất keo xã hội: hormones
Chất lượng nghiên cứu dịch tễ học và y tế cộng đồng của Việt Nam qua chỉ số H
Chất lượng nghiên cứu khoa học ở Việt Nam qua chỉ số trích dẫn
Chất vấn chuẩn chẩn đoán béo phì
Chế độ ăn uống với nhiều thịt động vật và nguy cơ tử vong
Chủng vi khuẩn tả hiện nay ở nước ta có phải mới xuất hiện?
Cuộc chiến hóa học phi pháp lớn nhất trong lịch sử chiến tranh
Câu chuyện y học: Leptin và béo phì
Có bao nhiêu bác sĩ viết chữ khó đọc
Có nên tập trung vào vi khuẩn E. coli ?
Có thể xảy ra đại dịch cúm gia cầm?
Công cụ đơn giản để chẩn đoán tiểu đường ở người Đông Nam Á
Cúm gia cầm và nhiễu thông tin
Cúm H1N1: biết và chưa biết
Cơ hội để khép lại một chương lịch sử đau lòng
Cần hiểu đúng về Ung thư và nguy cơ ung thư
Cần qui ước đạo đức cho kĩ nghệ thực phẩm
Cần tiêm chủng ngừa bệnh tả vùng có nguy cơ cao
Cần điều tra về chất lượng bệnh viện
Cổ phần hóa bệnh viện công và chất lượng
Cổ phần hóa: chưa phải cách duy nhất
DDT và vấn đề cân đối giữa lợi ích và nguy hiểm
Dinh dưỡng: một nguồn thuốc quí giá
DNA không nói dối, nhưng DNA có thể nói … sai
Dịch cúm gà: hoang mang và sự thật khoa học
Dịch cúm heo và tác hại kinh tế
Dịch tay-chân-miệng
Dịch tả: gọi đúng tên để phòng ngừa
Dựa vào khoa học, đừng dựa vào niềm tin!
E. coli – vài câu hỏi thông thường
Gen và bệnh tật
Ghen tuông dưới cái nhìn của tâm lí y khoa
Gian lận trong nghiên cứu khoa học: áp lực kinh tế và cơ chế bình duyệt
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC: KHƠI DẬY VÀ NUÔI DƯỠNG TÍNH HAM HỌC
Giải nobel y học hay sinh lí học 2007 và lợi ích cho người bệnh
Giải Nobel Y sinh học 2008 và những tranh chấp khoa học
Giải Nobel y sinh học 2010 vinh danh người đem niềm vui cho người vô sinh
Giải Nobel y sinh học năm 2005: Một cõi đi về với vi khuẩn
Giải Nobel y sinh học: Nhìn lại quãng đường 100 năm
Giải phẫu ghép mặt và vấn đề y đức
Gout ở xương sống
Gãy xương và tử vong: một vấn nạn y tế cộng đồng
Hiệu quả vắcxin có nghĩa gì?
Hoa vàng mấy độc
Hàm lượng đạm trong sữa “siêu thấp” hay “siêu cao”?
Hóa chất khai hoang trong cuộc chiến Viện Nam: Qui mô và tầm ảnh hưởng
Hướng đi nào để giải quyết vấn đề chất độc da cam ở Việt Nam
Hậu “mắm tôm được minh oan”: bằng chứng khoa học, nhà xí và nghiên cứu
Hệ Thống Học Vị Và Học Hàm Khoa Học Ở Vài Nước Tây Phương
Hợp tác khoa học kiểu nhảy dù - Nguyễn Văn Tuấn
Khi bác sĩ trẻ “khoe” quá nhiều
Khoa học và ngụy khoa học: một vài đặc điểm và khác biệt cần biết
Khoa học, xã hội, và rủi ro
Không thể thành Phù Đổng trong 20 năm!
Khẩu trang và phòng chống cúm A/H1N1
Kiểm định giả thuyết mắm tôm và vi khuẩn tả
Liều lượng melamine bao nhiêu là an toàn?
Lí lịch sinh học của heo và dấu vết văn minh nông nghiệp Đông Nam Á
Lượng giá mạng sống con người
Lợi ích của vitamin D
Miệng nhà quan
Mắm tôm có phải là “thủ phạm” gây bệnh tả? Xét lại bằng chứng khoa học
Mắm tôm và chuyện xin lỗi
Mắm tôm và dịch tả: phân biệt yếu tố nguy cơ và nguyên nhân
Mắm tôm vô tội!
Mắm tôm, nguyên nhân và hệ quả
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Một bệnh hiếm X-linked recessive hypoparathyroidism
Một lần đi phỏng vấn
Một năm nhìn lại
Một phán quyết thiếu cơ sở khoa học
Một vài hiểu lầm tai hại
Một vài ngộ nhận về nghiên cứu khoa học
Một vài vấn đề về qui định chức danh giáo sư ở Việt Nam
Một vụ Madoff trong y khoa: Lại một ngôi sao y khoa rơi rụng!
Mỡ trắng, mỡ nâu
Mỡ  trong máu, huyết áp, và  tiểu đường
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nguyên nhân bệnh tiêu chảy
Ngó trên tay điếu thuốc đã lụi dần
Người cao tuổi và sự hạn chế của y khoa
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Nhân chuyện dịch tả nhớ lại John Snow
Nhân câu chuyện điện não đồ xét nghiệm nghiện ma túy:
Nhân năm khỉ_nguồn gốc con người hiện đại
Nhân năm Tý bàn chuyện thí nghiệm trên chuột
Nhìn lại khoa học Việt Nam năm 2008 qua công bố quốc tế
Nhầm lẫn trong y khoa: Khá phổ biến, nhưng ít ai biết!
Những câu hỏi và trả lời về dịch gia cầm
Những sai sót khó tin nhưng có thật
Những sai sót nguy hiểm trong toa thuốc
Những điều khó tin về “Bảy điều khó tin nhất trong y học”
Năm lí do cho mắm tôm “vô tội”
Phán quyết sau cùng: Chất béo không ảnh hưởng đến ung thư và bệnh tim
Phát hiện gien kiểm soát ráy tai: vài bài học về mò kim đáy biển
Phòng chống bệnh phải dựa vào bằng chứng khoa học!
Phòng chống H1N1 bằng rửa tay và khẩu trang: Biện pháp nào hiệu quả hơn?
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao và cân nặng: thiếu cơ sở khoa học và kì thị giới tính
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao: vấn đề giả định và bằng chứng khoa học
Quyền phê phán và trí thức
Quyền được tiếp cận hồ sơ bệnh án
Quản lý chất lượng: Thuốc phòng "tai nạn y khoa"
Rửa tay bằng xà phòng và tiêu chảy
Serotonin có liên quan đến chứng đột tử
Suy dinh dưỡng ở trẻ em: vấn đề của kinh tế
Sàng lọc trẻ sơ sinh trên phạm vi toàn quốc
Tai nạn y khoa trong bệnh viện
Thế nào là một "bài báo khoa học"
Thế nào là “Cơ sở khoa học” ?
Thịt chó là nguyên nhân của bệnh tiêu chảy cấp tính?
Thịt chó và bệnh tả: nguyên nhân và yếu tố nguy cơ
Tiên lượng bệnh Alzheimer bằng protein expression ?
Tiêu chuẩn chất lượng giáo dục đại học
Tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì cho người Việt - Nguyễn Văn Tuấn
Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh đái tháo đường (diabetes mellitus)
Tiêu chuẩn đề bạt giáo sư: Có nên căn cứ vào số lượng bài báo ?
Tiêu chảy cấp tính và bệnh tả: Định danh cho đúng
Truy tìm ung thư bằng mammography từ tuổi 50
Truyền thông và khoa học: Qui ước Ingelfinger
Truyền thông và y tế
Truyền thông, khoa học và … doanh nghiệp
Trà xanh và sức khỏe
Trách nhiệm và nhân đạo trong vấn đề chất độc da cam
Trái chanh và phòng chống bệnh tả
Trả lời những câu hỏi liên quan đến loãng xương
Trọng lượng cơ thể và tử vong ở người Trung Quốc: Ý nghĩa về việc xác định tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì
Tuổi thọ của người dân giảm 10 năm ?
Tác dụng Placebo trong y học: Tâm lí và ý nghĩa
Tình yêu, sắc đẹp nhìn dưới quan điểm di truyền học
Tín hiệu môi trường từ những “làng ung thư”
Tính khoa học và minh bạch đằng sau xét nghiệm doping
Tại sao không phát biểu về nguyên nhân và hệ quả ?
Tại sao uống rượu gây đỏ mặt và nguy cơ ung thư thực quản
Tạo sinh vô tính và cái chết của Thượng đế
Tạo sinh vô tính và vấn đề sinh đạo đức
Tản mạn về SARS
Tỉ lệ tử vong do cúm heo là bao nhiêu ?
Tự trị, chất lượng và y đức thay vì cổ phần hóa bệnh viện công
Ung thư vú và vấn đề thông tin y khoa
Uống bia hấp dẫn muỗi
Vaccine phòng chống AIDS hiệu quả đến đâu ?
Vaccine phòng chống cúm A/H1N1
Vi khuẩn gây tiêu chảy và ý nghĩa tiêm chủng
Vi khuẩn tả trong chó ?
Viết văn có thể chữa nhiều loại bệnh
Viết văn và trị liệu
Việc ta, ta cứ làm!
Vài nhận xét về 12 điều lệ y đức của Việt Nam
Vài thông tin cần biết về các chương trình truy tìm ung thư vú
Vài đóng góp quan trọng của người Việt khoa học thống kê
Văn hóa khoa học
Văn hóa tranh luận và vấn đề ngụy biện
Vấn đề sinh tố: kẽm và đồng
Vấn đề truy tìm ung thư phổi và hiệu quả 
Vấn đề y đức trong nghiên cứu tế bào mầm (stem cells)
Vấn đề đo lường melamine
Vấn đề đào tạo tiến sĩ: kinh nghiệm từ Australia
Vắc-xin phòng chống ung thư cổ tử cung
Vắcxin ngừa viêm gan B: cẩn thận với “nhiễu thông tin”
Vắcxin ngừa viêm gan B: kinh nghiệm từ nước ngoài
Vắcxin phòng bệnh sởi - quai bị - Rubella: lợi và hại
Vắcxin phòng chống ung thư cổ tử cung: hiệu quả lâm sàng và kinh tế
Vắcxin phòng ngừa bệnh tả: rất cần thiết
Về chấn chỉnh đào tạo tiến sĩ: Công bố bài báo khoa học là một thách thức lớn ?
Về học vị tiến sĩ
Về một sự hiểu lầm thuật ngữ "prospective"
Về phản ứng phụ của bisphosphonates liên quan đến hoại tử xương hàm và rung nhĩ
Vệ sinh như là một loại hàng hóa
Vị thế của nền khoa học Việt Nam
Xung quang xì căng đan về nghiên cứu tế bào mầm
Xã hội hóa và an toàn thực phẩm
Xếp hạng đại học: cần minh bạch hóa phương pháp
Y học hiện đại và những hứa hẹn
Y học thực chứng: vài nét khái quát
Y Khoa và những nhầm lẫn chết người
Y tế dự phòng: nền tảng của y khoa hiện đại
Y đức và nghiên cứu y học
Ói mửa, cao huyết áp và hôn mê
Ăn chay như là một trị liệu
Ăn chay và loãng xương
Điều trị bệnh dựa vào màu da ?
Điều trị đau dây thần kinh tọa bằng phẫu thuật: không có hiệu quả
Đo lường hiệu suất khoa học
Đánh giá đúng tầm quan trọng của ung thư vú 
Đại dịch H1N1
Đại dịch và đại dịch ảo
Đại dịch đã đến ?
Đạo văn trong hoạt động khoa học
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đằng sau những con số hàm lượng đạm trong sữa
Đế quốc Trà
Đề bạt các chức danh khoa bảng: vài kinh nghiệm từ Úc
Đọc lại 12 điều y đức của Việt Nam
Đồi điều về sữa nhiễm melamine
Đừng quên melamine trong các thực phẩm khác!
Ước vọng 200 ?
“Kỹ năng mềm” cho nhà khoa học
“Sẽ” và “có thể”


Trang nhiều tác giả
Trang riêng của Lê Ngọc Dũng
Trang riêng của Lương Lễ Hoàng
Trang riêng của Nguyễn Bảo Trung
Trang riêng của Nguyễn Hoài Nam
Trang riêng của Nguyễn Hữu Đức
Trang riêng của Nguyễn Văn Tuấn
Trang riêng của Nguyễn Ý Đức
Trang riêng của Nguyễn Đình Nguyên
Trang riêng của Phan Xuân Trung
Trang riêng của Đỗ Hồng Ngọc
Trang riêng của Đỗ Minh Tuấn