NGUYỄN VĂN TUẤN

Đo lường hiệu suất khoa học

Nguyễn Văn

Tại các nước Tây phương, trong tình hình nghiên cứu khoa học sinh sôi nẩy nở nhanh chóng và khoa học trở nên một hoạt động tốn kém, các cơ quan tài trợ nghiên cứu phải đi tìm những phương pháp khách quan để đo lường chất lượng khoa bảng và nghiên cứu khoa học. Trong tình hình “gạo châu củi quế” như hiện nay, ai cũng muốn đồng tiền họ bỏ ra phải có hiệu suất cao. Một số nước có cơ chế tài trợ ngân sách tập trung (như Anh và Úc) đã từng sử dụng một hệ thống định giá thành quả khoa học và phân phối tiền bạc dựa theo kết quả định giá này. Ở Mĩ, Quốc hội đang làm áp lực cho Cơ quan Khoa học Quốc gia (National Science Foundation) phải công bố thành quả đầu tư cho nghiên cứu khoa học. Ở nước ta gần đây, người ta cũng đặt vấn đề về chất lượng nghiên cứu và tìm phương pháp khách quan để làm một thước đo cho việc phân phối ngân sách cho nghiên cứu khoa học. Nhưng những thước đo này đều có những ưu điểm và nhược điểm mà người ngoài khoa học hay người mới tập tành vào lĩnh vực nghiên cứu khoa học ít để ý hay biết đến, cho nên họ có những phát biểu rất sai lầm.

Cơ chế bình duyệt bài báo khoa học

Cố nhiên, giới làm nghiên cứu khoa học thì chẳng xa lạ gì với những hệ thống thẩm định các công trình nghiên cứu khoa học. Cơ chế bình duyệt (peer review) là một cơ chế có mục đích chính là đánh giá và kiểm tra các bài báo khoa học trước khi chấp nhận cho công bố trên một tập chí khoa học. Cơ chế này còn được ứng dụng trong việc duyệt những đơn xin tài trợ cho nghiên cứu . Về mặt lí thuyết đây là một cơ chế rất hay, bởi vì người đánh giá công trình nghiên cứu là những người cùng làm trong ngành, có chuyên môn liên quan đến công trình nghiên cứu, họ chính là người có thẩm quyền và khả năng đánh giá chất lượng của công trình nghiên cứu. Nhưng nhà khoa học cũng chỉ là những người có tình cảm và thiên kiến, cũng là những người chịu sự chi phối của các nhu cầu tất yếu, cũng cạnh tranh, cho nên kết quả duyệt bài khoa học không phải lúc nào cũng hoàn toàn khách quan. Rất nhiều người từng trải qua cái cơ chế này cho rằng đó là một hệ thống không hoàn chỉnh và có khi thiếu công bằng. Đối với bất cứ nhà nghiên cứu khoa học nào đã từng kinh qua việc bình duyệt có thể bác bỏ hệ thống đó là một cách làm việc vô bổ và vô giá trị [1]. Nhưng vấn đề thực tế là ngoài hệ thống bình duyệt đó, chưa có hệ thống nào tốt hơn!

Cơ chế duyệt bài thường thành công trong việc ngăn chận những cặn bã, rác rưởi khoa học, và giúp cho tập san hay các cơ quan cung cấp tài trợ đi đến một quyết định công bằng. Tuy nhiên cơ chế kiểm duyệt bài vở không thể (hay ít khi nào) phát hiện những lỗi lầm từ sự cố ý lường gạt (như giả tạo số liệu chẳng hạn), bởi vì chức năng của cơ chế này không làm việc đó. Nhưng cơ chế duyệt bài có nhiều khiếm khuyết mà hiện nay vẫn chưa thể giải quyết được. Bởi vì những người duyệt bài không được phần thưởng vật chất nào, họ không có động cơ để làm việc tốt. Một số người duyệt bài nhận lấy trách nhiệm một cách nghiêm túc, và tiêu ra nhiều thời giờ để kiểm tra, phê bình bài báo như phê bình chính họ; một số người khác thì bác bỏ bài báo ngay từ lúc đọc qua cái tựa đề mà không cần đọc nội dung — có thể vì họ đang có chuyện không vui trong gia đình (kiểu “giận cá chém thớt”), hay vì họ không thích đề tài nghiên cứu, hay họ không ưa tác giả của công trình nghiên cứu, hay họ không thích cách trình bày và ngôn ngữ của tác giả ... Có người ngâm bài báo hàng mấy tháng trời và … bỏ mất bài báo. Một số người khác vì do lòng ghanh tị nên sẵn sàng tìm mọi cách làm khó để cho bài báo công bố sau bài báo của họ. Một số người khác thì ăn cắp ý tưởng từ bài báo mình duyệt và tìm cách “dìm” cho được bài báo để mình công bố trên một tập san khác trước. Có người thậm chí còn vi phạm điều lệ tín cẩn và chuyển giao số liệu và thông tin cho đồng nghiệp đang nghiên cứu cùng đề tài.

Đánh giá hiệu suất khoa học giữa các quốc gia

Các trường đại học Tây phương thường đếm số lượng bài báo khoa học mà các nhà khoa học của trường công bố trên các tập chí khoa học. So sánh giữa các trường cũng thường dựa vào con số này. Nhưng ít ai chất vấn cách so sánh này nó có ý nghĩa gì hay không. Không nói ra chắc ai cũng biết rằng trong bất cứ lĩnh vực nghiên cứu nào, Mĩ là nước sản xuất ra nhiều bài báo khoa học nhất. Đặc biệt trong các bộ môn như thần kinh học và tâm lí học, sinh học phân tử, di truyền học, và sinh hóa học. Một số nước khác cũng có thế mạnh trong vài lĩnh vực hẹp như Nhật với sinh hóa học, công nghệ sinh học và ứng dụng vi sinh học; còn Đức thì mạnh về vật lí; và Anh có thế mạnh về sinh học phân tử, di truyền học, và vi sinh học.

Tất cả các so sánh này đều đúng, nhưng cũng cần phải ghi thêm vài cái ghi chú để diễn dịch chúng thích hợp hơn. Các so sánh này xác nhận Mĩ dẫn đầu thế giới trong các lĩnh vực vừa kể, nhưng chúng không có nghĩa là Mĩ là nước có hiệu suất khoa học cao nhất thế giới. Có lẽ so sánh trên đầu người (per capita) thì thích hợp hơn. Và nếu chúng ta điều chỉnh số lượng nhà khoa học thì Thụy Sĩ, Thụy Điển, Do Thái, và Đan Mạch là những nước có hiệu suất khoa học cao nhất thế giới (cao hơn Mĩ). Ngay cả Anh và Canada cũng có hiệu suất khoa học cao hơn Mĩ.

Giới làm nghiên cứu khoa học nói chung nhất trí rằng cái chỉ tiêu chính để đánh giá thành quả nghiên cứu khoa học là số lượng bài báo khoa học và sản phẩm thương mại hình thành từ các công trình nghiên cứu. Nhưng ở đây có hai câu hỏi cần đặt ra: Thứ nhất, có nên dùng số lượng bài báo khoa học và số lần trích dẫn để đánh giá chất lượng khoa học; và thứ hai, có nên dùng cái chỉ tiêu đó để so sánh hiệu suất khoa học giữa các trường đại học, hay giữa các phân khoa, hay giữa các nhà khoa học?

Số lượng khác với phẩm chất. Công bố nhiều bài báo khoa học trên các tạp chí khoa học không đồng nghĩa với nghiên cứu tốt (tức vấn đề chất lượng). Phần lớn những định giá về chất lượng nghiên cứu dựa vào cảm nhận về phẩm chất của bài báo, hay sách, hay tạp chí, hay nhà xuất bản ấn hành bài báo và sách. Dĩ nhiên, nói đến cảm nhận là nói đến chủ quan. Chỉ số trích dẫn (citation index hay impact factor) có thể cung cấp cho chúng ta một con số khách quan để đánh giá chất lượng nghiên cứu. Nói cách khác, nếu bài bào được nhiều người nhắc đến và trích dẫn là một thước đo về mức độ cống hiến vào kho tàng tri thức khoa học của bài báo.

Nhưng ngay cả chỉ số trích dẫn cũng không phải là hoàn chỉnh. Những công trình nghiên cứu tồi, sai lầm vẫn được nhiều người nhắc đến và trích dẫn (để làm gương cho người khác). Trích dẫn cũng chỉ là một hình thức chiếu lệ. Phần lớn những bài báo được trích dẫn nhiều lần là những bài báo liên quan đến phương pháp, hay thuộc loại review (điểm báo). Nhiều nghiên cứu “tốt”, có chất lượng thường đi trước thời gian, và người ta chỉ hiểu rõ giá trị của chúng sau nhiều năm sau khi công bố. (Các chỉ số trích dẫn chỉ tính đến số trích dẫn trong vòng 2 năm sau khi công bố). Ngoài ra, phương pháp tính toán chỉ số trích dẫn trong hệ thống Science Citation Index có rất nhiều vấn đề về kĩ thuật và giả định. Tất cả những vấn đề này đã từng được giới khoa học đem ra mổ xẻ từ lâu [2].

Chất lượng trường và phân khoa

Một số phân tích gần đây (thường đăng trên tạp chí Scientometrics, một tạp chí chuyên nghiên cứu về hiệu suất khoa học) cho biết các chỉ số trích dẫn là thước đo hợp lí cho chất lượng nghiên cứu khoa học. Giả dụ như chỉ số trích dẫn là một cách đo hợp lí, câu hỏi đặt ra là liệu chỉ số trích dẫn có thể dùng làm thước đo để so sánh hiệu suất khoa học giữa các trường đại học hay giữa các phân khoa hay không? Nói cách khác, nếu trường A có chỉ số trích dẫn cao hơn trường B, chúng ta có thể nói trường B tồi hơn trường A hay không? Có thể lắm, nhưng không thể kết luận chắc chắn được.

Tại sao? Tại vì dựa vào con số bài báo hay chỉ số trích dẫn để so sánh hiệu năng giữa các phân khoa trong một đại học không phải là những con số có ý nghĩa, bởi vì một số bộ môn khoa học có xu hướng (hay truyền thống) sản xuất ra những bài báo ngắn (và nhiều), hay đơn thuần là họ có truyền thống trích dẫn lẫn nhau, thậm chí tự mình trích dẫn mình! Có nhiều nhà khoa học trích dẫn hay liệt kê những bài báo mà họ hoặc là không hay chưa đọc (nhưng chỉ trích dẫn theo sự trích dẫn của người khác). Có người liệt kê một danh sách những bài báo có khi chẳng dính dáng gì nhiều đến công trình nghiên cứu, nhưng chỉ làm dáng để gây ấn tượng cho người duyệt bài hay người đọc! Ngoài ra, những bộ môn nghiên cứu lớn (như y khoa chẳng hạn) có nhiều nhà nghiên cứu và con số bài báo cũng như chỉ số trích dẫn cũng tăng theo. Nói một cách ngắn gọn, con số thống kê bài báo và chỉ số trích dẫn chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố ngoại vi hơn là chất lượng khoa học.

Ngay cả nếu một phân khoa có nhiều bài báo và chỉ số trích dẫn cao đi nữa, thì điều đó cũng không hẳn có nghĩa rằng phân khoa đó có hiệu suất khoa học cao, bởi vì có thể chỉ vài cá nhân trong phân khoa là tích cực nghiên cứu, còn lại chỉ là những người lo giảng dạy. Một phân khoa với nhiều người có hiệu suất khoa học cao chắc chắn phải khá hơn một phân khoa mà trong đó chỉ có một ngôi sao duy nhất.

Năng suất cá nhân

Nếu các tiêu chuẩn so sánh hiệu suất giữa các trường đại học và phân khoa vẫn còn trong vòng tranh cãi, thì đo lường năng suất khoa học của một nhà khoa học còn là vấn đề bất định hơn nữa. Cố nhiên, năng suất khoa học của các giáo sư và nhà khoa học thường được kiểm tra và đánh giá mỗi năm, và chất lượng nghiên cứu được xem là một khâu quan trọng nhất trong quá trình đánh giá này.

Trong quá khứ đã có nhiều nghiên cứu được tiến hành để tìm một cách đo lường khách quan nhất cho việc ước định chất lượng nghiên cứu của một cá nhân. Các nghiên cứu này nói chung đi đến kết luận là phải dựa vào số lượng bài báo khoa học, chất lượng nghiên cứu, tổng số tiền tài trợ thu về cho trường, khả năng giảng dạy, v.v… Khi xem xét đánh giá năng suất cá nhân, một vấn đề cơ bản với chỉ số trích dẫn là đại đa số nhà khoa học có chỉ số trích dẫn rất thấp. Nhưng không có lí do gì để cho rằng một nhà khoa học với 3 trích dẫn tài giỏi hơn nhà khoa học với 1 trích dẫn. Do đó, các nhà nghiên cứu cũng thú nhận là ngay cả các tiêu chí này cũng chưa hoàn chỉnh và công bằng cho mọi cá nhân, bởi vì [chẳng hạn như] phụ nữ, hay người thiểu số có những hoàn cảnh cá biệt và họ phải có những tiêu chí riêng.

So sánh giữa các đại học

So sánh giữa các đại học không phải là chuyện dễ dàng chút nào, bởi vì có đại học chủ trương nghiên cứu là chính, lại có đại học chủ trương giảng dạy là chính. Do đó, so sánh số lượng bài báo khoa học, và nhất là chỉ số trích dẫn giữa hai nhóm trường này không thể nào công bằng được. Cho đến nay, chưa có ai nhất trí cách so sánh nào là tốt nhất và khách quan nhất.

Thế nhưng hàng năm, có nhiều nhóm nghiên cứu giáo dục chịu khó làm thống kê và cho ra những danh sách đại loại như “N trường đại học tốt nhất trên thế giới năm T”. Mấy năm trước, N thường là 10 hay 100. Năm nay (T=2004), N lên đến 500, như báo chí trong nước đưa tin từ hai tháng trước. Nhưng giá trị thực tế của danh sách này không phải ai cũng nhất trí; điều mà ai cũng đồng ý là danh sách này mang nặng tính tuyên truyền và thương mại. Nó là sản phẩm của một suy nghĩ chiến lược của các trung tâm giáo dục Tây phương nhằm thu hút tài trợ và sinh viên từ các nước nghèo hơn. Có thêm sinh viên tức là có thêm tiền. Có thêm tiền, trường đại học sẽ củng cố thêm vị trí của mình trên trường quốc tế để cạnh tranh thu hút người tài.

Tuy nhiên, có người than thở rằng không biết ngày nào đại học Việt Nam ta mới có trong danh sách này. Từ than thở, đến thất vọng, rồi quay sang tìm đối tượng để đổ thừa. Đó là một tâm lí thông thường của người thất vọng. Nhưng một thất vọng (hay “nguyện vọng” ?) như thế là không thực tế chút nào. Để hiểu tại sao, có lẽ chúng ta cần phải điểm của những trường “top N” này là gì?

Thứ nhất, các trường này thường là những trung tâm nghiên cứu (research university). Đại học ở các nước Tây phương thường là những “đại học tổng hợp” mà trong đó có nhiều phân khoa, và họ đều có hai chức năng chính và vừa là trung tâm đào tạo, vừa là trung tâm nghiên cứu. Một số trường loại “elite” trong nhóm “Top 10” phần lớn là những trung tâm nghiên cứu, như Harvard, Yale, Princeton, UC Berkeley, MIT, Columbia, CalTech, Oxford, Cambridge, v.v… chứ không phải các trường chỉ đào tạo.

Thứ hai, vì là trung tâm nghiên cứu, các trường Top 10 thường có ít sinh viên. Những trường hàng đầu thế giới như Harvard, Yale, Oxford, Cambridge, v.v… số lượng sinh viên không quá con số 10 ngàn, thậm chí dưới 5000. Có trường như CalTech số lượng sinh viên có khi không lên đến con số 1000. Phần lớn những sinh viên này là nghiên cứu viên thạc sĩ và tiến sĩ, tức cũng là những người làm nghiên cứu. Tuy con số sinh viên ít, nhưng đội ngũ giáo sư (hay nói đúng hơn là nhà nghiên cứu) thì lớn gấp hai, gấp 3 lần, và họ thường là những nhà khoa học được tuyển chọn qua một qui trình rất khắc khe. Với đội ngũ làm nghiên cứu lớn như thế và chẳng tiêu nhiều thời gian cho giảng dạy, họ có cơ hội và thời gian làm nghiên cứu nhiều hơn các trường đại học to lớn khác.

Thứ ba, các trường Top 10 là những đại học “giàu”. Những trường như Harvard, Yale, Stanford, v.v… trên thực tế là những đại học tư, và họ có những liên hệ mật thiết với giới thương gia kĩ nghệ và chính khách, những người cũng xuất thân từ các lò đào tạo này, cho nên khả năng tranh thủ tài trợ của các trường này rất cao. Thêm vào đó là các nhà nghiên cứu và giáo sư trong các trường này là những người có ảnh hưởng lớn trong hệ thống phân phối tài trợ của chính phủ. Cứ nhìn qua danh sách những chủ nhiệm các chương trình cung cấp ngân sách nghiên cứu cho các đại học (do chính phủ quản lí) ai cũng thấy họ là những người thuộc các cụm đại học Top 10. Có thể nói, ngân sách nghiên cứu khoa học, dù trên danh nghĩa là do chính phủ quản lí, nhưng trên thực tế nằm trong tay các trường này vì chính họ là những người quyết định phân phối tiền bạc cho ai và cho trường nào.

Thứ tư, tất cả các trường Top 10 đều có những chương trình hợp tác nghiên cứu ngoài trường. Thời đại ngày nay, không thể nào tiến hành những công trình nghiên cứu lớn mà không cần đến hợp tác với đồng nghiệp từ các trung tâm khác. Hợp tác cũng là một hình thức thu hút ngân sách nghiên cứu và thu hút nhân tài. Bất cứ ai có dịp ghé thăm những trường Top 10 này đều có thể thấy đó là những trung tâm nghiên cứu quốc tế, mà trong đó các nhà nghiên cứu đến từ khắp thế giới.

Nhìn qua những đặc điểm này, chúng ta thấy các đại học Việt Nam chưa thể so sánh nổi với họ. Phải nhìn nhận một thực tế rằng dù cho năm T nào và con số N là 500 hay 1000 đi nữa, thì xác suất mà các trường đại học nước ta nằm trong danh sách đó chắc rất thấp.

Các trường đại học nước ta (và phần lớn đại học tại một số nước Đông Nam Á) vẫn chủ yếu là những trung tâm giảng dạy và đào tạo, chứ chưa là những trung tâm nghiên cứu khoa học. Chúng ta chưa có điều kiện và cơ sở để làm nghiên cứu lớn như các đại học của các nước đã phát triển. Do đó, trong điều kiện hiện nay, đòi hỏi các nhà khoa học Việt Nam phải có những bài báo khoa học trên các tập san quốc tế và có chỉ số trích dẫn như các giáo sư tại các đại học Tây phương là một yêu cầu thiếu thực tế.

Câu hỏi đáng đặt ra là đào tạo bậc đại học của chúng ta có phải nhắm tới mục tiêu để có tên trong danh sách này? Câu trả lời chắc là “không”. Chúng ta không cần phải có tên trong danh sách đó, nhưng chúng ta cần phải chấn chỉnh và phát huy hệ thống giáo dục đại học sao cho có chất lượng cao và đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế của nước nhà. Yếu tố quan trọng nhất trong mục tiêu lâu dài này là con người, tức là sinh viên và đội ngũ giảng dạy. Mục tiêu thực tế và hiện tại của chúng ta là đào tạo một đội ngũ chuyên viên khoa học lành nghề, bén nhạy trong việc giải quyết vấn đề, và nhất là có khả năng hội nhập vào trường khoa học quốc tế. Một khi các sinh viên ta khi ra nước ngoài thực tập hay theo học tiến sĩ có thái độ tự tin, có khả năng xoay xở một cách độc lập, có khả năng tự học dưới sự giám thị tối thiểu của người hướng dẫn luận án thì lúc đó chúng ta đã có cải tiến. Một khi chúng ta đã có những sinh viên tốt và đội ngũ giảng dạy và làm nghiên cứu giỏi, thì những đo lường hiệu suất khoa học chỉ là chuyện phụ.

Tài liệu đọc thêm:

[1] J. Campanario, "Peer review for journals as it stands today, Part 2," Science Communication, 19:277-306, 1998; or S. Cole et al., "Chance and consensus in peer review," Science, 214:881-6, 1981.

[2] T.J. Phelan, "A compendium of issues for citation analysis," Scientometrics, 45:117-36, 1999.

[3] E. Garfield, "Random thoughts on citationology: its theory and practice," Scientometrics, 43:69-76, 1998; or H.A. Zuckerman, Scientific Elite: Nobel Laureates in the United States, Brunswick, N.J., Transaction Publishers, 1996.


200 năm Darwin
Agent Orange: collateral damage
Alexandre Yersin và Việt Nam
Bàn về hiệu quả vắcxin: lâm sàng và kinh tế
Bàn về vấn đề dịch thuật và đánh giá năng suất khoa học
Béo phì ở người Á châu
Béo phì ở trẻ em và virus
Bình luận từ Dr. Yến
Bưởi không gây ung thư vú
Bảo hiểm y tế cộng đồng
Bảo tồn môi sinh: Chiến tranh giữa hai thế giới
Bằng chứng khoa học thay vì lên lớp
Bệnh tả: không để Việt Nam thành Bangladesh thứ hai
Bệnh tật nhìn từ quan điểm của thuyết tiến hóa
Bệnh xơ hóa cơ delta qua y văn thế giới
Bổ sung kẽm và điều trị bệnh tả
Bộ gen trong cây lúa và triển vọng
Bộ Y tế phản ứng chậm với rét đậm
Chiều cao của người Việt
Chiều cao và tổng thống Mĩ
Cholesterol và bệnh Tim
Cholesterol: hung thần hay bạn?
Chuột và... các nhà khoa học
Chính sách y tế cần dựa vào bằng chứng khoa học
Chạy đua vũ khí và … dịch cúm
Chất béo, cholesterol, bệnh tim và statins: xét lại bằng chứng
Chất keo xã hội: hormones
Chất lượng nghiên cứu dịch tễ học và y tế cộng đồng của Việt Nam qua chỉ số H
Chất lượng nghiên cứu khoa học ở Việt Nam qua chỉ số trích dẫn
Chất vấn chuẩn chẩn đoán béo phì
Chế độ ăn uống với nhiều thịt động vật và nguy cơ tử vong
Chủng vi khuẩn tả hiện nay ở nước ta có phải mới xuất hiện?
Cuộc chiến hóa học phi pháp lớn nhất trong lịch sử chiến tranh
Câu chuyện y học: Leptin và béo phì
Có bao nhiêu bác sĩ viết chữ khó đọc
Có nên tập trung vào vi khuẩn E. coli ?
Có thể xảy ra đại dịch cúm gia cầm?
Công cụ đơn giản để chẩn đoán tiểu đường ở người Đông Nam Á
Cúm gia cầm và nhiễu thông tin
Cúm H1N1: biết và chưa biết
Cơ hội để khép lại một chương lịch sử đau lòng
Cần hiểu đúng về Ung thư và nguy cơ ung thư
Cần qui ước đạo đức cho kĩ nghệ thực phẩm
Cần tiêm chủng ngừa bệnh tả vùng có nguy cơ cao
Cần điều tra về chất lượng bệnh viện
Cổ phần hóa bệnh viện công và chất lượng
Cổ phần hóa: chưa phải cách duy nhất
DDT và vấn đề cân đối giữa lợi ích và nguy hiểm
Dinh dưỡng: một nguồn thuốc quí giá
DNA không nói dối, nhưng DNA có thể nói … sai
Dịch cúm gà: hoang mang và sự thật khoa học
Dịch cúm heo và tác hại kinh tế
Dịch tay-chân-miệng
Dịch tả: gọi đúng tên để phòng ngừa
Dựa vào khoa học, đừng dựa vào niềm tin!
E. coli – vài câu hỏi thông thường
Gen và bệnh tật
Ghen tuông dưới cái nhìn của tâm lí y khoa
Gian lận trong nghiên cứu khoa học: áp lực kinh tế và cơ chế bình duyệt
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC: KHƠI DẬY VÀ NUÔI DƯỠNG TÍNH HAM HỌC
Giải nobel y học hay sinh lí học 2007 và lợi ích cho người bệnh
Giải Nobel Y sinh học 2008 và những tranh chấp khoa học
Giải Nobel y sinh học 2010 vinh danh người đem niềm vui cho người vô sinh
Giải Nobel y sinh học năm 2005: Một cõi đi về với vi khuẩn
Giải Nobel y sinh học: Nhìn lại quãng đường 100 năm
Giải phẫu ghép mặt và vấn đề y đức
Gout ở xương sống
Gãy xương và tử vong: một vấn nạn y tế cộng đồng
Hiệu quả vắcxin có nghĩa gì?
Hoa vàng mấy độc
Hàm lượng đạm trong sữa “siêu thấp” hay “siêu cao”?
Hóa chất khai hoang trong cuộc chiến Viện Nam: Qui mô và tầm ảnh hưởng
Hướng đi nào để giải quyết vấn đề chất độc da cam ở Việt Nam
Hậu “mắm tôm được minh oan”: bằng chứng khoa học, nhà xí và nghiên cứu
Hệ Thống Học Vị Và Học Hàm Khoa Học Ở Vài Nước Tây Phương
Hợp tác khoa học kiểu nhảy dù - Nguyễn Văn Tuấn
Khi bác sĩ trẻ “khoe” quá nhiều
Khoa học và ngụy khoa học: một vài đặc điểm và khác biệt cần biết
Khoa học, xã hội, và rủi ro
Không thể thành Phù Đổng trong 20 năm!
Khẩu trang và phòng chống cúm A/H1N1
Kiểm định giả thuyết mắm tôm và vi khuẩn tả
Liều lượng melamine bao nhiêu là an toàn?
Lí lịch sinh học của heo và dấu vết văn minh nông nghiệp Đông Nam Á
Lượng giá mạng sống con người
Lợi ích của vitamin D
Miệng nhà quan
Mắm tôm có phải là “thủ phạm” gây bệnh tả? Xét lại bằng chứng khoa học
Mắm tôm và chuyện xin lỗi
Mắm tôm và dịch tả: phân biệt yếu tố nguy cơ và nguyên nhân
Mắm tôm vô tội!
Mắm tôm, nguyên nhân và hệ quả
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Một bệnh hiếm X-linked recessive hypoparathyroidism
Một lần đi phỏng vấn
Một năm nhìn lại
Một phán quyết thiếu cơ sở khoa học
Một vài hiểu lầm tai hại
Một vài ngộ nhận về nghiên cứu khoa học
Một vài vấn đề về qui định chức danh giáo sư ở Việt Nam
Một vụ Madoff trong y khoa: Lại một ngôi sao y khoa rơi rụng!
Mỡ trắng, mỡ nâu
Mỡ  trong máu, huyết áp, và  tiểu đường
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nguyên nhân bệnh tiêu chảy
Ngó trên tay điếu thuốc đã lụi dần
Người cao tuổi và sự hạn chế của y khoa
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Nhân chuyện dịch tả nhớ lại John Snow
Nhân câu chuyện điện não đồ xét nghiệm nghiện ma túy:
Nhân năm khỉ_nguồn gốc con người hiện đại
Nhân năm Tý bàn chuyện thí nghiệm trên chuột
Nhìn lại khoa học Việt Nam năm 2008 qua công bố quốc tế
Nhầm lẫn trong y khoa: Khá phổ biến, nhưng ít ai biết!
Những câu hỏi và trả lời về dịch gia cầm
Những sai sót khó tin nhưng có thật
Những sai sót nguy hiểm trong toa thuốc
Những điều khó tin về “Bảy điều khó tin nhất trong y học”
Năm lí do cho mắm tôm “vô tội”
Phán quyết sau cùng: Chất béo không ảnh hưởng đến ung thư và bệnh tim
Phát hiện gien kiểm soát ráy tai: vài bài học về mò kim đáy biển
Phòng chống bệnh phải dựa vào bằng chứng khoa học!
Phòng chống H1N1 bằng rửa tay và khẩu trang: Biện pháp nào hiệu quả hơn?
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao và cân nặng: thiếu cơ sở khoa học và kì thị giới tính
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao: vấn đề giả định và bằng chứng khoa học
Quyền phê phán và trí thức
Quyền được tiếp cận hồ sơ bệnh án
Quản lý chất lượng: Thuốc phòng "tai nạn y khoa"
Rửa tay bằng xà phòng và tiêu chảy
Serotonin có liên quan đến chứng đột tử
Suy dinh dưỡng ở trẻ em: vấn đề của kinh tế
Sàng lọc trẻ sơ sinh trên phạm vi toàn quốc
Tai nạn y khoa trong bệnh viện
Thế nào là một "bài báo khoa học"
Thế nào là “Cơ sở khoa học” ?
Thịt chó là nguyên nhân của bệnh tiêu chảy cấp tính?
Thịt chó và bệnh tả: nguyên nhân và yếu tố nguy cơ
Tiên lượng bệnh Alzheimer bằng protein expression ?
Tiêu chuẩn chất lượng giáo dục đại học
Tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì cho người Việt - Nguyễn Văn Tuấn
Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh đái tháo đường (diabetes mellitus)
Tiêu chuẩn đề bạt giáo sư: Có nên căn cứ vào số lượng bài báo ?
Tiêu chảy cấp tính và bệnh tả: Định danh cho đúng
Truy tìm ung thư bằng mammography từ tuổi 50
Truyền thông và khoa học: Qui ước Ingelfinger
Truyền thông và y tế
Truyền thông, khoa học và … doanh nghiệp
Trà xanh và sức khỏe
Trách nhiệm và nhân đạo trong vấn đề chất độc da cam
Trái chanh và phòng chống bệnh tả
Trả lời những câu hỏi liên quan đến loãng xương
Trọng lượng cơ thể và tử vong ở người Trung Quốc: Ý nghĩa về việc xác định tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì
Tuổi thọ của người dân giảm 10 năm ?
Tác dụng Placebo trong y học: Tâm lí và ý nghĩa
Tình yêu, sắc đẹp nhìn dưới quan điểm di truyền học
Tín hiệu môi trường từ những “làng ung thư”
Tính khoa học và minh bạch đằng sau xét nghiệm doping
Tại sao không phát biểu về nguyên nhân và hệ quả ?
Tại sao uống rượu gây đỏ mặt và nguy cơ ung thư thực quản
Tạo sinh vô tính và cái chết của Thượng đế
Tạo sinh vô tính và vấn đề sinh đạo đức
Tản mạn về SARS
Tỉ lệ tử vong do cúm heo là bao nhiêu ?
Tự trị, chất lượng và y đức thay vì cổ phần hóa bệnh viện công
Ung thư vú và vấn đề thông tin y khoa
Uống bia hấp dẫn muỗi
Vaccine phòng chống AIDS hiệu quả đến đâu ?
Vaccine phòng chống cúm A/H1N1
Vi khuẩn gây tiêu chảy và ý nghĩa tiêm chủng
Vi khuẩn tả trong chó ?
Viết văn có thể chữa nhiều loại bệnh
Viết văn và trị liệu
Việc ta, ta cứ làm!
Vài nhận xét về 12 điều lệ y đức của Việt Nam
Vài thông tin cần biết về các chương trình truy tìm ung thư vú
Vài đóng góp quan trọng của người Việt khoa học thống kê
Văn hóa khoa học
Văn hóa tranh luận và vấn đề ngụy biện
Vấn đề sinh tố: kẽm và đồng
Vấn đề truy tìm ung thư phổi và hiệu quả 
Vấn đề y đức trong nghiên cứu tế bào mầm (stem cells)
Vấn đề đo lường melamine
Vấn đề đào tạo tiến sĩ: kinh nghiệm từ Australia
Vắc-xin phòng chống ung thư cổ tử cung
Vắcxin ngừa viêm gan B: cẩn thận với “nhiễu thông tin”
Vắcxin ngừa viêm gan B: kinh nghiệm từ nước ngoài
Vắcxin phòng bệnh sởi - quai bị - Rubella: lợi và hại
Vắcxin phòng chống ung thư cổ tử cung: hiệu quả lâm sàng và kinh tế
Vắcxin phòng ngừa bệnh tả: rất cần thiết
Về chấn chỉnh đào tạo tiến sĩ: Công bố bài báo khoa học là một thách thức lớn ?
Về học vị tiến sĩ
Về một sự hiểu lầm thuật ngữ "prospective"
Về phản ứng phụ của bisphosphonates liên quan đến hoại tử xương hàm và rung nhĩ
Vệ sinh như là một loại hàng hóa
Vị thế của nền khoa học Việt Nam
Xung quang xì căng đan về nghiên cứu tế bào mầm
Xã hội hóa và an toàn thực phẩm
Xếp hạng đại học: cần minh bạch hóa phương pháp
Y học hiện đại và những hứa hẹn
Y học thực chứng: vài nét khái quát
Y Khoa và những nhầm lẫn chết người
Y tế dự phòng: nền tảng của y khoa hiện đại
Y đức và nghiên cứu y học
Ói mửa, cao huyết áp và hôn mê
Ăn chay như là một trị liệu
Ăn chay và loãng xương
Điều trị bệnh dựa vào màu da ?
Điều trị đau dây thần kinh tọa bằng phẫu thuật: không có hiệu quả
Đo lường hiệu suất khoa học
Đánh giá đúng tầm quan trọng của ung thư vú 
Đại dịch H1N1
Đại dịch và đại dịch ảo
Đại dịch đã đến ?
Đạo văn trong hoạt động khoa học
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đằng sau những con số hàm lượng đạm trong sữa
Đế quốc Trà
Đề bạt các chức danh khoa bảng: vài kinh nghiệm từ Úc
Đọc lại 12 điều y đức của Việt Nam
Đồi điều về sữa nhiễm melamine
Đừng quên melamine trong các thực phẩm khác!
Ước vọng 200 ?
“Kỹ năng mềm” cho nhà khoa học
“Sẽ” và “có thể”


Trang nhiều tác giả
Trang riêng của Lê Ngọc Dũng
Trang riêng của Lương Lễ Hoàng
Trang riêng của Nguyễn Bảo Trung
Trang riêng của Nguyễn Hoài Nam
Trang riêng của Nguyễn Hữu Đức
Trang riêng của Nguyễn Văn Tuấn
Trang riêng của Nguyễn Ý Đức
Trang riêng của Nguyễn Đình Nguyên
Trang riêng của Phan Xuân Trung
Trang riêng của Đỗ Hồng Ngọc
Trang riêng của Đỗ Minh Tuấn