NGUYỄN VĂN TUẤN

Hiệu quả vắcxin có nghĩa gì?

Nguyễn Văn Tuấn

Nhân đọc bài “Uống vắc-xin ngừa bệnh tả” của Phó giáo sư, Tiến sĩ Đoàn Thị Thủy (Viện vệ sinh dịch tễ trung ương) trên Vietnamnet tôi thấy hình như tác giả có một vài hiểu lầm về hiệu quả của vắcxin phòng chống bệnh tả.

Trong bài viết, giáo sư Thủy giải thích hiệu quả vắcxin như sau: “Tôi muốn giải thích thêm, khi nói hiệu quả bảo vệ của vắc-xin là 66% không chỉ có ý nghĩa 66% số người uống được bảo vệ không mắc bệnh mà số người còn lại nếu bị nhiễm thì mức độ bệnh trên lâm sàng sẽ ít trầm trọng hơn.

Tôi e rằng giải thích như vậy là không đúng.  Con số 66% không nói gì về con số người mắc bệnh sau khi uống vắcxin, mà nói đến nguy cơ mắc bệnh.  Nguy cơ (risk) mắc bệnh là tỉ lệ một quần thể mắc bệnh trong một thời gian nhất định.

Sự thật của con số 66% là như sau: trong nghiên cứu của giáo sư Đặng Đức Trạch và đồng nghiệp [1], có hai nhóm đối tượng: nhóm 1 uống vắcxin (gồm có 51.975 người), và nhóm 2 không uống vắcxin (gồm có 67.058 người).  Họ được theo dõi 8-10 tháng sau khi uống hay từ ngày tham gia nghiên cứu.  Sau thời gian theo dõi, nhóm 1 có 25 ca mắc bệnh tả (tức 0,048%), và nhóm 2 có 92 ca (tức 0,137%).  Do đó, nguy cơ mắc bệnh tả trong nhóm uống vắcxin thấp hơn nhóm không uống vắcxin là 66% (tức 1 – 0,048 / 0,137 = 0,66).  Do đó, 66% hoàn toàn không có nghĩa là 66% số người uống được bảo vệ, bởi vì số người mắc bệnh tả trong cộng đồng rất thấp (thường dưới 3%).

Kết quả sử dụng vắcxin phòng chống bệnh tả ở Huế năm 1993 [1]

 

Đặc tính

Nhóm vắcxin

Nhóm không vắcxin

Tỉ số nguy cơ

Tổng số

25 / 51975

92 / 67058

0,34 (0,21 – 0,54)

Nam

11 / 24283

44 / 32034

0,32 (0,17 – 0,63)

Nữ

14 / 27692

48 / 350240

0,36 (0,19 – 0,66)

Nước sạch

18 / 35696

62 / 46840

0,38 (0,22  – 0,64)

Nước không sạch

6 / 14536

28 / 17725

0,26 (0,10 – 0,72)

Bệnh tả nặng

7 / 51975

37 / 67058

0,24 (0,21 – 0,54)

Bệnh tả không nặng

18 / 51975

54 / 67058

0,42 (0,24 – 0,72)

Chú thích diễn dịch: Tính chung, sau 8 tháng theo dõi, nhóm sử dụng vắcxin có 25 người mắc bệnh tả (chiếm 0,5% trong tổng số 51.975), và nhóm không sử dụng vắcxin có 92 người mắc bệnh tả (tỉ lệ 0,14% trong tổng số 67.058).  Sau khi điều chỉnh các yếu tố nguy cơ khác, nguy cơ mắc bệnh tả trong nhóm vắcxin bằng 34% so với nhóm không sử dụng vắcxin, và do đó hiệu quả là 66%.  Nhìn qua bảng trên, chúng ta thấy hiệu quả vắcxin cao ở những người không có nguồn nước sạch (hiệu quả 74%) và những người có bệnh nặng (76%).

Giáo sư Thủy viết: “Sau khi uống vắc-xin 3-5 năm, hiệu quả bảo vệ vẫn còn 50% (tạp chí VACCINE 24 (2000) 4297-4303)”.  Có hai sai sót ở đây.  Thứ nhất, bài báo đó công bố vào năm 2006, chứ không phải năm 2000 [2].  Thứ hai, hiệu quả bảo vệ 50% cũng không hẳn đúng (dù các tác giả bài báo sử dụng thuật ngữ “vaccine effectiveness” trong bài báo).  Sự thật là đằng sau con số này khá phức tạp, nhưng có thể tóm lược trong bảng số liệu sau:

 

Bệnh tả

Nhóm chứng

Từng được uống vắcxin

29

137

Không uống vắcxin

18

55

Tổng số

48

192

 

Bảng tóm tắt số liệu từ công trình nghiên cứu [2].  Các số liệu này trích từ biểu đồ 2 của bải báo vừa đề cập.  Xem giải thích dưới đây.  Bạn đọc nào thích làm phân tích số liệu trên có thể tham khảo cách làm mà tôi mô tả trong bài “Lâm sàng thống kê 15”.

 

  • Tháng 3-4/1998, họ cho cư dân 13 xã/thôn ở Huế uống vắcxin phòng bệnh tả.  Đến tháng 8/2000 họ cho cư dân 12 xã/thôn khác cũng ở Huế uống vắcxin phòng bệnh tả. 

  • Năm 2003 họ ghi nhận 89 ca bệnh tả từ 25 thôn/xã trên, trong số này 62 ca thật sự bệnh tả lâm sàng (còn lại 27 ca là “nghi ngờ” bệnh tả).  Trong số 62 ca bệnh tả thật sự, chỉ có số liệu 48 người.  Trong số 48 người, có 29 người (tức 60%) từng được uống vắcxin. 

  • Họ tìm được 192 người không mắc bệnh tả (nhưng có cùng tuổi và cùng sống trong xã/thôn với 48 bệnh nhân tả).  Đây còn gọi là “nghiên cứu bệnh chứng”.  Trong số này có 137 người (hay 71%) từng uống vắcxin.

  • Qua các số liệu này, có thể thấy tỉ số odds (odds ratio) mắc bệnh tả ở những người uống vắcxin là 0,61. 

Vì đây là đơn vị odds, nên chúng ta không thể phát biểu gì về hiệu quả của vắcxin.  Chúng ta chỉ có thể nói rằng trong số những người không mắc bệnh tả, có nhiều người (71%) từng uống vắcxin so với nhóm người mắc bệnh tả (có 60% từng uống vắcxin). Từ dữ liệu này, có thể suy ra rằng vắcxin có hiệu quả phòng chống bệnh tả.  Còn mức độ hiệu quả là bao nhiêu thì mô hình nghiên cứu này không cho phép chúng ta ước tính.

Hi vọng giải thích trên làm sáng tỏ vấn đề hiệu quả của vắcxin mà các giới chức y tế có vẻ hiểu lầm trong thời gian qua [3]. 

Tuy nhiên, trong tình huống hiện nay, như tôi phân tích [4] và phát biểu trước đây [5], tôi thấy quyết định triển khai vắcxin phòng chống bệnh tả cho đồng bào miền Trung đang bị lũ lụt là rất đúng.

Chú thích:

[1] Trach DD, Clemens JD, Ke NT, Thuy HT, Son ND, Canh DG, Hang PV, Rao MR. Field trial of a locally produced, killed, oral cholera vaccine in Vietnam. Lancet. 1997 Jan 25;349(9047):231-5.

[2] Thiem VD, Deen JL, von Seidlein L, Canh do G, Anh DD, Park JK, Ali M, Danovaro-Holliday MC, Son ND, Hoa NT, Holmgren J, Clemens JD. Long-term effectiveness against cholera of oral killed whole-cell vaccine produced in Vietnam. Vaccine. 2006 May 15;24(20):4297-303.

[3] Dưới tiêu đề “Không khuyến cáo người dân dùng văcxin tả”, Vnexpress cho biết: “[T]heo tiến sĩ Nguyễn Huy Nga, Phó cục trưởng Cục Y tế dự phòng, Bộ Y tế không khuyến cáo dùng văcxin tả, và hệ thống tiêm chủng Việt Nam cũng không có văcxin tả dịch vụ. Lý do là hiệu quả của loại văcxin này rất thấp, chỉ đạt 60-70% (các văcxin thông thường phải gần 100%), nghĩa là khoảng 1/3 số người dùng văcxin vẫn có thể phát bệnh.”  Nhưng như tôi chỉ ra, đây là một phát biểu sai về hiệu quả của vắcxin.

[4] Xem bài “Bàn về hiệu quả vắcxin: lâm sàng và kinh tế

[5] Xem “Gọi tên đúng bệnh để phòng ngừa hiệu quả” trên Tuổi Trẻ ngày 8/11/07.

 

 


200 năm Darwin
Agent Orange: collateral damage
Alexandre Yersin và Việt Nam
Bàn về hiệu quả vắcxin: lâm sàng và kinh tế
Bàn về vấn đề dịch thuật và đánh giá năng suất khoa học
Béo phì ở người Á châu
Béo phì ở trẻ em và virus
Bình luận từ Dr. Yến
Bưởi không gây ung thư vú
Bảo hiểm y tế cộng đồng
Bảo tồn môi sinh: Chiến tranh giữa hai thế giới
Bằng chứng khoa học thay vì lên lớp
Bệnh tả: không để Việt Nam thành Bangladesh thứ hai
Bệnh tật nhìn từ quan điểm của thuyết tiến hóa
Bệnh xơ hóa cơ delta qua y văn thế giới
Bổ sung kẽm và điều trị bệnh tả
Bộ gen trong cây lúa và triển vọng
Bộ Y tế phản ứng chậm với rét đậm
Chiều cao của người Việt
Chiều cao và tổng thống Mĩ
Cholesterol và bệnh Tim
Cholesterol: hung thần hay bạn?
Chuột và... các nhà khoa học
Chính sách y tế cần dựa vào bằng chứng khoa học
Chạy đua vũ khí và … dịch cúm
Chất béo, cholesterol, bệnh tim và statins: xét lại bằng chứng
Chất keo xã hội: hormones
Chất lượng nghiên cứu dịch tễ học và y tế cộng đồng của Việt Nam qua chỉ số H
Chất lượng nghiên cứu khoa học ở Việt Nam qua chỉ số trích dẫn
Chất vấn chuẩn chẩn đoán béo phì
Chế độ ăn uống với nhiều thịt động vật và nguy cơ tử vong
Chủng vi khuẩn tả hiện nay ở nước ta có phải mới xuất hiện?
Cuộc chiến hóa học phi pháp lớn nhất trong lịch sử chiến tranh
Câu chuyện y học: Leptin và béo phì
Có bao nhiêu bác sĩ viết chữ khó đọc
Có nên tập trung vào vi khuẩn E. coli ?
Có thể xảy ra đại dịch cúm gia cầm?
Công cụ đơn giản để chẩn đoán tiểu đường ở người Đông Nam Á
Cúm gia cầm và nhiễu thông tin
Cúm H1N1: biết và chưa biết
Cơ hội để khép lại một chương lịch sử đau lòng
Cần hiểu đúng về Ung thư và nguy cơ ung thư
Cần qui ước đạo đức cho kĩ nghệ thực phẩm
Cần tiêm chủng ngừa bệnh tả vùng có nguy cơ cao
Cần điều tra về chất lượng bệnh viện
Cổ phần hóa bệnh viện công và chất lượng
Cổ phần hóa: chưa phải cách duy nhất
DDT và vấn đề cân đối giữa lợi ích và nguy hiểm
Dinh dưỡng: một nguồn thuốc quí giá
DNA không nói dối, nhưng DNA có thể nói … sai
Dịch cúm gà: hoang mang và sự thật khoa học
Dịch cúm heo và tác hại kinh tế
Dịch tay-chân-miệng
Dịch tả: gọi đúng tên để phòng ngừa
Dựa vào khoa học, đừng dựa vào niềm tin!
E. coli – vài câu hỏi thông thường
Gen và bệnh tật
Ghen tuông dưới cái nhìn của tâm lí y khoa
Gian lận trong nghiên cứu khoa học: áp lực kinh tế và cơ chế bình duyệt
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC: KHƠI DẬY VÀ NUÔI DƯỠNG TÍNH HAM HỌC
Giải nobel y học hay sinh lí học 2007 và lợi ích cho người bệnh
Giải Nobel Y sinh học 2008 và những tranh chấp khoa học
Giải Nobel y sinh học 2010 vinh danh người đem niềm vui cho người vô sinh
Giải Nobel y sinh học năm 2005: Một cõi đi về với vi khuẩn
Giải Nobel y sinh học: Nhìn lại quãng đường 100 năm
Giải phẫu ghép mặt và vấn đề y đức
Gout ở xương sống
Gãy xương và tử vong: một vấn nạn y tế cộng đồng
Hiệu quả vắcxin có nghĩa gì?
Hoa vàng mấy độc
Hàm lượng đạm trong sữa “siêu thấp” hay “siêu cao”?
Hóa chất khai hoang trong cuộc chiến Viện Nam: Qui mô và tầm ảnh hưởng
Hướng đi nào để giải quyết vấn đề chất độc da cam ở Việt Nam
Hậu “mắm tôm được minh oan”: bằng chứng khoa học, nhà xí và nghiên cứu
Hệ Thống Học Vị Và Học Hàm Khoa Học Ở Vài Nước Tây Phương
Hợp tác khoa học kiểu nhảy dù - Nguyễn Văn Tuấn
Khi bác sĩ trẻ “khoe” quá nhiều
Khoa học và ngụy khoa học: một vài đặc điểm và khác biệt cần biết
Khoa học, xã hội, và rủi ro
Không thể thành Phù Đổng trong 20 năm!
Khẩu trang và phòng chống cúm A/H1N1
Kiểm định giả thuyết mắm tôm và vi khuẩn tả
Liều lượng melamine bao nhiêu là an toàn?
Lí lịch sinh học của heo và dấu vết văn minh nông nghiệp Đông Nam Á
Lượng giá mạng sống con người
Lợi ích của vitamin D
Miệng nhà quan
Mắm tôm có phải là “thủ phạm” gây bệnh tả? Xét lại bằng chứng khoa học
Mắm tôm và chuyện xin lỗi
Mắm tôm và dịch tả: phân biệt yếu tố nguy cơ và nguyên nhân
Mắm tôm vô tội!
Mắm tôm, nguyên nhân và hệ quả
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Một bệnh hiếm X-linked recessive hypoparathyroidism
Một lần đi phỏng vấn
Một năm nhìn lại
Một phán quyết thiếu cơ sở khoa học
Một vài hiểu lầm tai hại
Một vài ngộ nhận về nghiên cứu khoa học
Một vài vấn đề về qui định chức danh giáo sư ở Việt Nam
Một vụ Madoff trong y khoa: Lại một ngôi sao y khoa rơi rụng!
Mỡ trắng, mỡ nâu
Mỡ  trong máu, huyết áp, và  tiểu đường
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nguyên nhân bệnh tiêu chảy
Ngó trên tay điếu thuốc đã lụi dần
Người cao tuổi và sự hạn chế của y khoa
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Nhân chuyện dịch tả nhớ lại John Snow
Nhân câu chuyện điện não đồ xét nghiệm nghiện ma túy:
Nhân năm khỉ_nguồn gốc con người hiện đại
Nhân năm Tý bàn chuyện thí nghiệm trên chuột
Nhìn lại khoa học Việt Nam năm 2008 qua công bố quốc tế
Nhầm lẫn trong y khoa: Khá phổ biến, nhưng ít ai biết!
Những câu hỏi và trả lời về dịch gia cầm
Những sai sót khó tin nhưng có thật
Những sai sót nguy hiểm trong toa thuốc
Những điều khó tin về “Bảy điều khó tin nhất trong y học”
Năm lí do cho mắm tôm “vô tội”
Phán quyết sau cùng: Chất béo không ảnh hưởng đến ung thư và bệnh tim
Phát hiện gien kiểm soát ráy tai: vài bài học về mò kim đáy biển
Phòng chống bệnh phải dựa vào bằng chứng khoa học!
Phòng chống H1N1 bằng rửa tay và khẩu trang: Biện pháp nào hiệu quả hơn?
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao và cân nặng: thiếu cơ sở khoa học và kì thị giới tính
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao: vấn đề giả định và bằng chứng khoa học
Quyền phê phán và trí thức
Quyền được tiếp cận hồ sơ bệnh án
Quản lý chất lượng: Thuốc phòng "tai nạn y khoa"
Rửa tay bằng xà phòng và tiêu chảy
Serotonin có liên quan đến chứng đột tử
Suy dinh dưỡng ở trẻ em: vấn đề của kinh tế
Sàng lọc trẻ sơ sinh trên phạm vi toàn quốc
Tai nạn y khoa trong bệnh viện
Thế nào là một "bài báo khoa học"
Thế nào là “Cơ sở khoa học” ?
Thịt chó là nguyên nhân của bệnh tiêu chảy cấp tính?
Thịt chó và bệnh tả: nguyên nhân và yếu tố nguy cơ
Tiên lượng bệnh Alzheimer bằng protein expression ?
Tiêu chuẩn chất lượng giáo dục đại học
Tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì cho người Việt - Nguyễn Văn Tuấn
Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh đái tháo đường (diabetes mellitus)
Tiêu chuẩn đề bạt giáo sư: Có nên căn cứ vào số lượng bài báo ?
Tiêu chảy cấp tính và bệnh tả: Định danh cho đúng
Truy tìm ung thư bằng mammography từ tuổi 50
Truyền thông và khoa học: Qui ước Ingelfinger
Truyền thông và y tế
Truyền thông, khoa học và … doanh nghiệp
Trà xanh và sức khỏe
Trách nhiệm và nhân đạo trong vấn đề chất độc da cam
Trái chanh và phòng chống bệnh tả
Trả lời những câu hỏi liên quan đến loãng xương
Trọng lượng cơ thể và tử vong ở người Trung Quốc: Ý nghĩa về việc xác định tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì
Tuổi thọ của người dân giảm 10 năm ?
Tác dụng Placebo trong y học: Tâm lí và ý nghĩa
Tình yêu, sắc đẹp nhìn dưới quan điểm di truyền học
Tín hiệu môi trường từ những “làng ung thư”
Tính khoa học và minh bạch đằng sau xét nghiệm doping
Tại sao không phát biểu về nguyên nhân và hệ quả ?
Tại sao uống rượu gây đỏ mặt và nguy cơ ung thư thực quản
Tạo sinh vô tính và cái chết của Thượng đế
Tạo sinh vô tính và vấn đề sinh đạo đức
Tản mạn về SARS
Tỉ lệ tử vong do cúm heo là bao nhiêu ?
Tự trị, chất lượng và y đức thay vì cổ phần hóa bệnh viện công
Ung thư vú và vấn đề thông tin y khoa
Uống bia hấp dẫn muỗi
Vaccine phòng chống AIDS hiệu quả đến đâu ?
Vaccine phòng chống cúm A/H1N1
Vi khuẩn gây tiêu chảy và ý nghĩa tiêm chủng
Vi khuẩn tả trong chó ?
Viết văn có thể chữa nhiều loại bệnh
Viết văn và trị liệu
Việc ta, ta cứ làm!
Vài nhận xét về 12 điều lệ y đức của Việt Nam
Vài thông tin cần biết về các chương trình truy tìm ung thư vú
Vài đóng góp quan trọng của người Việt khoa học thống kê
Văn hóa khoa học
Văn hóa tranh luận và vấn đề ngụy biện
Vấn đề sinh tố: kẽm và đồng
Vấn đề truy tìm ung thư phổi và hiệu quả 
Vấn đề y đức trong nghiên cứu tế bào mầm (stem cells)
Vấn đề đo lường melamine
Vấn đề đào tạo tiến sĩ: kinh nghiệm từ Australia
Vắc-xin phòng chống ung thư cổ tử cung
Vắcxin ngừa viêm gan B: cẩn thận với “nhiễu thông tin”
Vắcxin ngừa viêm gan B: kinh nghiệm từ nước ngoài
Vắcxin phòng bệnh sởi - quai bị - Rubella: lợi và hại
Vắcxin phòng chống ung thư cổ tử cung: hiệu quả lâm sàng và kinh tế
Vắcxin phòng ngừa bệnh tả: rất cần thiết
Về chấn chỉnh đào tạo tiến sĩ: Công bố bài báo khoa học là một thách thức lớn ?
Về học vị tiến sĩ
Về một sự hiểu lầm thuật ngữ "prospective"
Về phản ứng phụ của bisphosphonates liên quan đến hoại tử xương hàm và rung nhĩ
Vệ sinh như là một loại hàng hóa
Vị thế của nền khoa học Việt Nam
Xung quang xì căng đan về nghiên cứu tế bào mầm
Xã hội hóa và an toàn thực phẩm
Xếp hạng đại học: cần minh bạch hóa phương pháp
Y học hiện đại và những hứa hẹn
Y học thực chứng: vài nét khái quát
Y Khoa và những nhầm lẫn chết người
Y tế dự phòng: nền tảng của y khoa hiện đại
Y đức và nghiên cứu y học
Ói mửa, cao huyết áp và hôn mê
Ăn chay như là một trị liệu
Ăn chay và loãng xương
Điều trị bệnh dựa vào màu da ?
Điều trị đau dây thần kinh tọa bằng phẫu thuật: không có hiệu quả
Đo lường hiệu suất khoa học
Đánh giá đúng tầm quan trọng của ung thư vú 
Đại dịch H1N1
Đại dịch và đại dịch ảo
Đại dịch đã đến ?
Đạo văn trong hoạt động khoa học
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đằng sau những con số hàm lượng đạm trong sữa
Đế quốc Trà
Đề bạt các chức danh khoa bảng: vài kinh nghiệm từ Úc
Đọc lại 12 điều y đức của Việt Nam
Đồi điều về sữa nhiễm melamine
Đừng quên melamine trong các thực phẩm khác!
Ước vọng 200 ?
“Kỹ năng mềm” cho nhà khoa học
“Sẽ” và “có thể”


Trang nhiều tác giả
Trang riêng của Lê Ngọc Dũng
Trang riêng của Lương Lễ Hoàng
Trang riêng của Nguyễn Bảo Trung
Trang riêng của Nguyễn Hoài Nam
Trang riêng của Nguyễn Hữu Đức
Trang riêng của Nguyễn Văn Tuấn
Trang riêng của Nguyễn Ý Đức
Trang riêng của Nguyễn Đình Nguyên
Trang riêng của Phan Xuân Trung
Trang riêng của Đỗ Hồng Ngọc
Trang riêng của Đỗ Minh Tuấn