Truyền thông và khoa học: Qui ước Ingelfinger
Nguyễn Văn Tuấn
(Bài đã đăng trên Vietnamnet)
Trong thời gian gần đây, báo chí nước ta, kể cả báo mạng, đều có chuyên mục “khoa học” hay “sức khỏe” nhằm cung cấp những thông tin khoa học trên thế giới và trong nước đến quần chúng. Một vấn đề đáng quan tâm là có rất nhiều thông tin về thành tựu nghiên cứu khoa học ở trong nước được cung cấp cho công chúng, nhưng các nghiên cứu này chưa bao giờ được công bố trên các tập san khoa học quốc tế hay qua bình duyệt. Bởi vì một khi công trình nghiên cứu chưa qua bình duyệt (hay phản biện) bởi các chuyên gia, công chúng khó mà biết đó là những kết quả đáng tin cậy hay những thành tựu thật. Bài viết này trình bày một qui ước rất phổ biến trong truyền thông khoa học có tên là Qui ước Ingelfinger. Theo đó, giới truyền thông chỉ có quyền cung cấp những thông tin khoa học sau khi những thông tin này đã được công bố trên tập san khoa học
Khoa học là một lĩnh vực hoạt động phức tạp và khá đặc biệt, bởi vì sản phẩm của khoa học là tri thức và thông tin chứ không phải những sản phẩm cụ thể như đồ gia dụng. Chính vì thế mà công chúng thường không có hiểu biết về khoa học. Một cuộc điều tra lớn ở Mĩ (nơi mà trình độ dân trí cao) cho thấy chỉ có khoảng 30% đến 40% người được hỏi trả lời đúng những câu hỏi về kiến thức phổ thông liên quan đến y tế và khoa học. Phần lớn công chúng tiếp cận thông tin khoa học qua hệ thống truyền thông đại chúng, kể cả báo chí, đài phát thanh, đài truyền hình, và internet.
Do đó, chất lượng về hiểu biết khoa học của công chúng tùy thuộc một phần lớn vào chất lượng thông tin khoa học mà hệ thống truyền thông đại chúng chuyển tải. Nhưng chất lượng của thông tin khoa học do truyền thông đại chúng chuyển tải tùy thuộc vào nguồn thông tin, tức là trung tâm thực hiện nghiên cứu và tập san khoa học. Mối tương tác giữa khoa học và truyền thông chịu sự chi phối của các tập san khoa học.
Một khó khăn ở đây là phần lớn nhà báo không phải là nhà khoa học, nên khả năng thẩm định thông tin khoa học của họ cũng có nhiều hạn chế. Sự hạn chế này nhiều khi dẫn đến những hiểu lầm, hay diễn giải sai kết quả và ý nghĩa của nghiên cứu khoa học.
Ở nước ngoài, quá trình chuyển tải thông tin khoa học đến công chúng thường tuân thủ theo một qui ước có tên là Qui ước Ingelfinger. Theo Qui ước này, các nhà khoa học chỉ có quyền tiếp xúc giới truyền thông đại chúng về các nghiên cứu khoa học sau khi những thông tin này đã được công bố trên một tập san khoa học. Cách làm việc này cũng là một trong những tiêu chuẩn về đạo đức khoa học.
Tin nhanh khoa học, tác hại khó lường…
Việc công bố kết quả nghiên cứu một cách hấp tấp trên hệ thống truyền thông đại chúng có khi dẫn đến hệ quả nghiêm trọng, vì nó tạo nên một sự hi vọng hão huyền hay gây tác hại cho nền kinh tế nước nhà.
Vào thập niên 1980, báo chí Mỹ rầm rộ đưa tin rằng một nhóm bác sĩ bên Mỹ đã thành công điều trị bệnh Alzheimer (bệnh mất trí nhớ) bằng cách bơm bethanechol chloride vào não. Vì bệnh Alzheimer là bệnh nan y (ông Ronald Reagan từng mắc bệnh này trong thời gian làm tổng thống Mỹ), không có thuật điều trị dứt, cho nên báo chí Mỹ lúc đó ca ngợi đây là “một sự đột phá trong việc điều trị bệnh Alzheimer”, và “các bác sĩ hi vọng rằng bệnh Alzheimer sẽ được chinh phục nay mai”! Nhưng sự thật là họ chỉ điều trị 4 bệnh nhân, và kết quả được đánh giá một cách chủ quan theo cảm nhận của bác sĩ. Đến khi thuật điều trị đó được áp dụng cho vài bệnh nhân khác, kết quả hoàn toàn vô dụng, và bản tin trở thành câu chuyện hài hước trong giới y khoa.
Mới đây, công trình nghiên cứu về một loại thuốc điều trị bệnh đái tháo đường được công bố, chỉ 3 tháng sau doanh thu của công ty từ thuốc này giảm 40% so với trước đó, và trị giá của công ty trên thị trường chứng khoán giảm 13%. Chúng ta còn nhớ năm ngoái khi thông tin về bưởi và ung thư được báo chí đưa tin, giá bưởi ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long giảm đáng kể, dẫn đến những mất mát lớn về kinh tế cho các hộ kinh doanh bưởi.
Ở nước ta trong thời gian gần đây, có quá nhiều thông tin khoa học được báo chí đưa tin nhưng chưa bao giờ được công bố trên các tập san quốc tế, và chưa bao giờ qua bình duyệt bởi giới chuyên môn.
Vài tuần qua, giới khoa học trong và ngoài nước xôn xao về bản tin cho biết các nhà khoa học Việt Nam đã thành công trong việc ứng dụng kĩ thuật tế bào gốc để điều trị một bệnh nhân bị hỏng mắt (hội chứng Stevens – Johnson). Nhưng theo dõi tin tức thì thấy một số chuyên gia trong hội đồng nghiệm thu đề án nghiên cứu tỏ ra dè dặt trước kết quả này vì họ cho rằng có thể các nhà nghiên cứu do hiểu lầm về thành quả của mình và hiểu lầm này có thể xuất phát từ vấn nạn thiếu thông tin khoa học.
Thật ra, vì nghiên cứu này chưa bao giờ được công bố trên một tập san khoa học quốc tế, nên rất khó mà đánh giá thành tựu của công trình nghiên cứu này.
Tôi thấy ý kiến của GS. Nguyễn Văn Thuận là hoàn toàn hợp lí khi ông nói “Mọi công trình nghiên cứu phải được đánh giá thông qua các tạp chí khoa học thế giới. Như vậy, không cần phải có hội đồng nghiệm thu làm mất thời gian mà lại tranh thủ được sự góp ý của các nhà khoa học trên thế giới trong nghiên cứu của mình".
Để tiếp theo ý này của GS. Thuận, tôi xin trích lại câu nói nổi tiếng của giáo sư Frank Davidoff, cựu tổng biên tập tập san Annals of Internal Medicine (một tập san y học hàng đầu trên thế giới) rằng “khoa học chỉ tồn tại sau khi kết quả của nghiên cứu khoa học được công bố trên các tập san quốc tế".
Cũng cần nói thêm rằng vì năng suất khoa học nước ta (tính theo số lượng bài báo khoa học trên các tập san quốc tế) còn quá khiêm tốn. Tôi đã làm phân tích và thấy số lượng bài báo khoa học Việt Nam chỉ bằng 1/10 của Singapore và 1/5 của Thái Lan. Do đó, vấn đề công bố quốc tế cần phải được xem là một chuẩn mực trong hoạt động khoa học ở nước ta. Thực hiện chuẩn mực này sẽ đảm bảo chất lượng thông tin khoa học tốt hơn trong tương lai.
Nên chăng ở nước ta cũng đã đến lúc cần thực hiện “Qui ước Ingelfinger" trong công bố thông tin khoa học ? Vậy "Qui ước Ingelfinger" là gì?
Truyền thông Việt Nam nên áp dụng “Qui ước Ingelfinger“
Năm 1969, bác sĩ Franz J. Ingelfinger được bổ nhiệm làm tổng biên tập tập san New England Journal of Medicine (NEJM), một tập san có lịch sử trên 100 năm và cho đến nay vẫn là tập san số 1 trong ngành y. Khi mới nhậm chức, ông phát hiện một số công trình nghiên cứu khoa học đang được xem xét cho in hay sắp in trên tập san NEJM đã được hệ thống truyền thông đại chúng công bố trước! Không hài lòng trước tình trạng “cầm đèn chạy trước ôtô” này, ông đề ra một qui ước mà sau này được biết đến là Qui ước Ingelfinger. Theo Qui ước Ingelfinger, NEJM sẽ không công bố bất cứ bài báo nào nếu kết quả bài báo đó đã được các cơ sở truyền thông đại chúng đưa tin.
Thoạt đầu, Qui ước này bị giới báo chí phản đối dữ dội, và ngay cả giới y khoa cũng không đồng tình. Nhưng ngày nay tất cả các tập san khoa học đều chấp nhận đây là một biện pháp để đảm bảo chất lượng thông tin y khoa đến công chúng.
Để hiểu tầm quan trọng và ý nghĩa của Qui ước Ingelfinger, có lẽ cần phải điểm qua vài nét chính trong qui trình nghiên cứu khoa học. Xin nói thêm rằng tôi chỉ nói đến nghiên cứu khoa học thực nghiệm, như y sinh học, vốn có truyền thống tương tác với truyền thông, chứ không nói đến các ngành “khoa học cơ bản” như toán học.
Sau khi một công trình nghiên cứu được hoàn tất, nhà nghiên cứu thường trình bày kết quả trong một (hay vài) hội nghị chuyên ngành cấp quốc tế hay quốc gia dưới hình thức một bài báo ngắn. Mục đích chính của việc trình bày kết quả trong hội nghị là xin ý kiến phản biện của các đồng nghiệp. Sau khi đã có những ý kiến phản biện, nhà khoa học soạn một báo cáo đầy đủ hơn và đệ trình cho một tập san chuyên ngành để được bình duyệt (hay phản biện) nghiêm chỉnh hơn. Qua bình duyệt, bài báo có thể được chấp nhận hay từ chối cho công bố.
Theo Qui ước Ingelfinger, chỉ khi nào bài báo được công bố trên một website hay báo giấy của tập san thì nhà nghiên cứu mới có quyền được tiếp xúc với giới truyền thông đại chúng để nói về thành quả nghiên cứu của mình. Trong thời gian bài báo còn được bình duyệt, hay ngay cả sau khi đã được chấp nhận cho công bố nhưng chưa đưa lên website, nhà nghiên cứu vẫn không có quyền tiếp xúc với truyền thông.
Do đó, một khi bản tin được chuyển tải đến công chúng, thì các chi tiết về ý tưởng, phương pháp, kết quả, và diễn giải của công trình nghiên cứu được phê bình và duyệt qua bởi những chuyên gia trong ngành, và đảm bảo chất lượng của thông tin. Nếu không qua khâu “nội bộ” này thì công chúng không thể biết công trình nghiên cứu đó có giá trị khoa học ra sao, phương pháp đúng hay sai, cách suy luận có quá đà hay không, v.v…
Nhưng trong thực tế vẫn có một số nhà khoa học vì lý do nào đó vi phạm qui ước này. Năm ngoái, một chuyên gia về bệnh tim mạch, giáo sư Martin Leon, tiết lộ với báo chí về kết quả của một công trình nghiên cứu mà ông bình duyệt cho tập san NEJM, nhưng công trình chưa được công bố. Hệ quả là ông bị tập san “kỉ luật”, không cho công bố bài báo trên tập san trong vòng 5 năm, và cũng tước luôn vai trò chuyên gia bình duyệt cho tập san.
Vài tuần qua, một chuyên gia bệnh đái tháo đường thuộc Đại học Texas (ở Mĩ) cũng tiết lộ thông tin về một bài báo (mà ông bình duyệt cho tập san NEJM) đến một công ti dược. Sự việc còn đang trong vòng điều tra, thậm chí Quốc hội Mĩ cũng vào cuộc, vì đây là một vi phạm nghiêm trọng trong khoa học.
***
Có thể xem các bài báo trên các tập san khoa học như là những viên gạch để xây dựng kho tàng tri thức con người. Trong thời kỳ hội nhập quốc tế, thiết tưởng đã đến lúc giới truyền thông Việt Nam nên áp dụng Qui ước Ingelfinger để đảm bảo chất lượng thông tin khoa học cho công chúng. Giới truyền thông chỉ nên công bố những thành quả khoa học nào đã qua bình duyệt bởi chuyên gia, hay đã được công bố trên một tập san khoa học quốc tế.
Thế nào là tập san khoa học quốc tế ? |
Thật ra, cụm từ “tập san khoa học quốc tế” là cách gọi của các nhà khoa học nước ta, và cách gọi này có thể gây ra vài hiểu lầm, thậm chí tranh luận. Chẳng hạn như có người lý giải rằng các tập san khoa học của Thái Lan, Lào, hay Myanmar cũng có thể xem là “quốc tế”! Tuy nhiên, cụm từ “tập san khoa học quốc tế” ở đây dùng để chỉ các tập san có tên trong danh bạ của Viện Thông tin Khoa học (Institute of Scientific Information - ISI). Để có tên trong danh bạ của ISI, tập san phải đáp ứng một số yêu cầu và tiêu chuẩn cụ thể về chất lượng bài báo khoa học, thành viên ban biên tập, cơ chế bình duyệt (peer-review), tính quốc tế của ban biên tập và tác giả bài báo khoa học… Mỗi năm, ISI thẩm định khoảng 2.000 tập san trên thế giới, và chỉ 10-12% được công nhận cho vào danh bạ. Tuy nhiên, mỗi năm, một số tập san bị loại ra khỏi danh bạ ISI vì tiêu chuẩn bị xuống cấp hay do gian lận trong việc báo cáo. Hiện nay có khoảng 7.600 tập san khoa học trên thế giới nằm trong danh bạ ISI; phần lớn xuất phát từ Mỹ và Âu châu. Các nước trong vùng như Thái Lan, Malaysia, Singapore… đều có một số tập san được ISI công nhận. Không một tập san khoa học nào của Việt Nam có trong danh bạ của ISI. |