NGUYỄN VĂN TUẤN

Chạy đua vũ khí và … dịch cúm

Nguyễn Văn Tuấn

Một trong những câu hỏi và cũng là vấn đề của y tế công cộng hiện nay là tại sao các virút, kể cả virút cúm, phát triển khả năng kháng thuốc rất nhanh.  Sự kháng thuốc của virút là một kết quả của một sự cạnh tranh vì sinh tồn giữa virút và con người, và về lâu dài, con người lại chính là kẻ chiến bại.

Một trong những quan tâm lớn về cúm A/H1N1 hiện nay là tình trạng kháng thuốc của virút H1N1.  Theo những nghiên cứu mới nhất virút H1N1 đang trở nên kháng các thuốc như Tamiflu (oseltamivir) và Relenza (zanamivir), hai trong những thuốc hàng đầu chống virút cúm.  Tỉ lệ kháng thuốc được ghi nhận dao động từ 12% ở Mĩ và 16% trên thế giới.  Nghiên cứu trong phòng thí nghiệm cho thấy tỉ lệ kháng thuốc có thể lên đến 98%. 

Tại sao virút H1N1 hay các virút gây bệnh nói chung có khả năng kháng thuốc?  Có thể xem khả năng kháng thuốc của virút như là một quá trình tiến hóa vì sinh tồn của virút, một cuộc cạnh tranh với con người.  Cuộc cạnh tranh này cũng chẳng khác gì … cuộc chạy đua vũ khí giữa các quốc gia trên thế giới.  Mối quan hệ giữa ki sinh vật và kí chủ cũng là một cuộc chạy đua để sinh tồn.  Kí sinh vật ở đây kể cả những vi rút gây bệnh, và kí chủ là người, chim, heo, v.v… Cuộc chạy đua này rất khốc liệt, tàn nhẫn, và phí phạm, mà chỉ có thể sử dụng ngôn ngữ quân sự và chiến tranh mới có thể minh họa được vấn đề. 

Một cuộc cạnh tranh không công bằng

Cứ mỗi lần một quốc gia hay bộ lạc có một vũ khí mới thì đối phương sẽ tìm cách sản xuất ra một vũ khí mới khác để tự vệ.  Ngày xưa, sự ra đời của kiếm, cung và tên là động cơ để phát triển áo giáp và lá chắn.  Ngày nay, sự có mặt của radar cho ra đời một loại máy bay Stealth có thể tránh radar.  Tương tự, nếu chó sói có khả năng chạy nhanh để săn bắt thỏ thì thỏ cũng có khả năng tiến hóa chạy nhanh hơn chó sói, và chó sói lại tiến hóa để chạy nhanh hơn ...  Đây là những cuộc chạy đua toàn cầu với sự tham gia của hầu hết các sinh vật sống trên hành tinh này, một cuộc chạy đua không có hồi kết.

Nhiều người trong giới khoa học nghĩ rằng kí sinh và kí chủ thường đồng tồn tại với nhau trong tình trạng hợp tác vì hòa bình.  Nhưng giả định này sai và phi thực tế.  Một số cơ chế phòng bệnh của cơ thể con người đã tiến hóa trong thời gian 10.000 năm qua, và trong thời gian đó, có lẽ con người đã trải qua 300 thế hệ.  Nhưng con người đã tiến hóa với khả năng kháng các bệnh truyền nhiễm như bệnh đậu mùa và bệnh lao trong vài thế kỉ qua, với khoảng 12 thế hệ.  Trong khi đó, các virút cúm và vi trùng lao có thể tiến hóa 300 thế hệ trong vòng 1 tuần!  Trong khi chúng ta cần 1000 năm để tiến hóa thì virút và vi trùng có thể tiến hóa trong vòng 1 ngày.  Do đó, trong cuộc chạy đua sinh tồn này, con người ở vào một vị thế bất lợi, chúng ta không thể tiến hóa nhanh để chạy trốn khỏi sự tấn công của virút.

Kích thước nhỏ của virút là một lợi thế của chúng: chúng có thể tồn tại với một số lượng cực kì đông đảo.  Kích thước của virút H1N1 chỉ bằng khoảng 1 phần 10.000 mm.  Một giọt nước cũng có thể hàm chứa 1 tỉ virút.  Mỗi chúng ta mang trong người khoảng 5 tỉ tế bào virút, phần lớn là ở trong hệ thống tiêu hóa và hô hấp.  Với số lượng khổng lồ này, ngay cả với một tỉ lệ tiến hóa rất thấp, các virút có thể biến hóa khôn lường mà chúng ta không thể nào tiên lượng một cách chính xác được. 

            Ngày nay, virút H1N1 đang hoành hành ở Bắc Mĩ thật ra không phải là một virút cúm heo, cũng không phải là virút đã gây đại dịch Tây Ban Nha năm 1918.  Các nhà khoa học mới phát hiện rằng virút hiện hành chỉ mới tiến hóa trong vòng 6 đến 11 tháng trước đây.  Một số cấu trúc DNA của chúng có nguồn gốc từ virút cúm tìm thấy ở Bắc Mĩ, một mảng DNA có nguồn từ Âu châu và Á châu, và một mảng DNA có nguồn gốc từ chim và virút cúm mùa. 

Kháng thuốc

Thuốc kháng sinh có lẽ là một trong những phát minh có ích nhất trong thế kỉ 20, và thể hiện một đóng góp ngoạn mục của khoa học cho y khoa.  Dù arsenic đã được sử dụng cho điều trị bệnh giang mai từ những năm đầu thập niên 1910, nhưng thời đại kháng sinh chỉ thật sự hình thành khi Alexander Fleming phát hiện rằng vi khuẩn trong các đĩa thí nghiệm không thể tăng trưởng khi đặt gần các nơi có mốc penicillium.  Tại sao thuốc kháng sinh hiệu quả nhất lại xuất phát từ mốc?  Có thể nói thuốc kháng sinh là một loại vũ khí hóa học được tiến hóa trong nấm và vi khuẩn để các sinh vật này có thể phòng chống lại các vi khuẩn gây bệnh.  Chúng đã được tiến hóa qua hàng triệu năm với những quá trình sửa sai (trial and error) để khai thác thế yếu của vi khuẩn mà không gây độc hại cho nấm.

Một số lượng nấm và sản phẩm từ vi khuẩn mà con người sử dụng ngày nay tương đối an toàn và có khả năng tiêu diệt các vi khuẩn gây bệnh lao, hô hấp, và một số bệnh truyền nhiễm khác.  Trong nhiều thập niên qua, thuốc kháng sinh là một phương tiện y tế quan trọng của các nước đã phát triển để phòng chống các bệnh truyền nhiễm.  Qua những biện pháp y tế công cộng và thuốc kháng sinh, các nước đã phát triển nói chung đã thành công một cách ngoạn mục trong việc chinh phục bệnh truyền nhiễm.  Trước thành công này, năm 1969, Bộ trưởng Y tế Mĩ tuyên bố đầy tự hào rằng “đã đến lúc chúng ta đóng sổ bệnh truyền nhiễm”.

Nhưng cũng như bất cứ thời đại vàng son khác, thời đại vàng son chống bệnh nhiễm cũng có thời gian ngắn ngũi.  Ngày nay, chúng ta biết rằng những vi khuẩn gây bệnh lao và bệnh lậu rất khó kiểm soát và khống chế hơn là những vi khuẩn gây bệnh này trong quá khứ.  Các vi khuẩn đã tiến hóa chống lại các thuốc kháng sinh như là chúng đã tiến hóa để chống lại các vũ khí tự nhiên của con người và nấm trong suốt lịch sử tiến hóa.

Vi khuẩn staphylococcal là một vi khuẩn phổ biến nhất trong các vết thương.  Năm 1941, tất cả vi khuẩn này đều bị thuốc penicillin khống chế.  Đến năm 1944, một số chủng  dòng thuộc vi khuẩn này đã tiến hóa để có thể sản xuất các enzyme có khả năng cắt penicillin ra từng mảnh và vô hiệu hóa penicillin.  Ngày nay, 95% các dòng staphylococcus đều có dấu hiệu hay khả năng kháng penicillin.  Năm 1950, một loại penicillin nhân tạo là methicillin có thể sản xuất để tiêu diệt các vi sinh vật này, nhưng các vi khuẩn này sau đó lại tiến hóa thành những chủng và dòng mới, và thuốc kháng sinh mới cần phải sản xuất.  Năm 1980, thuốc ciprofloxacin cho chúng ta một niềm hi vọng lớn khi mới được giới thiệu trên thị trường, nhưng chỉ vài năm sau, hơn 80% các dòng staphylococcal đã trở nên kháng thuốc. 

Vào thập niên 1960, phần lớn những ca bệnh lậu có thể điều trị dễ dàng với thuốc penicillin, hay nếu có kháng thuốc thì vẫn có thể điều trị bằng ampicillin.  Ngày nay, 75% các dòng vi khuẩn gây bệnh lậu đã có sẵn enzyme để “chặt chém” ampicillin và vô hiệu hóa thuốc này. 

Cơ chế tiến hóa của vi khuẩn khá đơn giản.  Chúng chỉ cần thay đổi một vài khúc DNA trong bộ gen, hay đột biến một số gen cần thiết để đương đầu với “kẻ thù” mới (con người).  Nhưng ngoài ra, vi khuẩn còn có thể tiến hóa bằng một thủ thuật đơn giản: chúng có thể tự gây nhiễm trùng bằng một khúc nhỏ DNA gọi là plasmid.  Năm 1976, các nhà khoa học phát hiện vi khuẩn gây bệnh lậu mới có một số gen có chức năng tiêu diệt penicillin qua plasmid từ E. coli, một vi khuẩn sống trong đường ruột của con người.  Do đó, khoảng 90% vi khuẩn bệnh lậu ở Thái Lan và Phi Luật Tân trở nên kháng thuốc.

            Hiện nay, virút H1N1 mới phát hiện đã được tiến hóa và có khả năng kháng thuốc tamiflu và relenza.  Trong vòng 6 tháng tới, thế giới sẽ có thuốc mới chống virút H1N1 mới.  Tuy nhiên, theo qui luật tiến hóa của virút và cuộc cạnh tranh sinh tồn giữa virút và con người, chúng ta có thể kì vọng rằng một virút H1N1 mới khác sẽ xuất hiện trong tương lai, một loại thuốc mới khác sẽ ra đời, và một cuộc chạy đua mới giữa kí sinh và kí chủ lại diễn ra.

Chấp nhận sống chung với virút

Tuy nhiên, có một tin mừng.  Đứng trên phương diện miễn nhiễm học, một đại dịch có thể thay đổi sự phân phối gen của một dân số một cách đột ngột.  Những người mắc bệnh và sống sót sẽ có khả năng đề kháng nhiễm trùng trong tương lai, bởi vì họ tích tụ trong cơ thể một hàm lượng lymphocyte có thể sản xuất kháng thể chống lại các virút gây bệnh.

Những đại dịch trong quá khứ cho thấy con người có thể tiến hóa để chống virút trong vòng vài tháng.  Khi người Âu châu đến khai thác Mĩ châu, họ mang theo virút bệnh làm chết cho gần 90% người bản xứ trong một thời gian ngắn.  Nếu kháng sinh chịu ảnh hưởng của gen, người bản xứ không còn sống sót ắt hẳn phải mang trong người những gen tốt chống virút.

Danh sách những đe dọa mà chúng ta đương đầu với các vi khuẩn kháng thuốc là một danh sách dài và đáng sợ.  Virút đã, đang và sẽ tồn tại cùng chúng ta trong cuộc sống; chúng ta không có cách nào loại trừ chúng hoàn toàn. Vấn đề không phải là tìm cách loại trừ chúng (vì không thể làm được), nhưng phải học cách sống với chúng một cách sáng suốt. Có khi chúng ta phải chấp nhận một mức độ nguy hiểm của cuộc sống đa chiều. Mức độ nguy hiểm có thể chấp nhận được tùy thuộc vào nhận thức của từng cá nhân, và trong trường hợp này, lí trí là một phương tiện không thể thiếu được trong cuộc sống mới. Nhận thức về những rủi ro như dịch cúm gia cầm là một điều cần thiết. Nhưng nhận thức như thế là để chúng ta biết những điều không nên hành động, chứ không phải để hốt hoảng.

Chú thích: Bản ngắn hơn đã đăng trên TTCN (16/5/09)

 

 


200 năm Darwin
Agent Orange: collateral damage
Alexandre Yersin và Việt Nam
Bàn về hiệu quả vắcxin: lâm sàng và kinh tế
Bàn về vấn đề dịch thuật và đánh giá năng suất khoa học
Béo phì ở người Á châu
Béo phì ở trẻ em và virus
Bình luận từ Dr. Yến
Bưởi không gây ung thư vú
Bảo hiểm y tế cộng đồng
Bảo tồn môi sinh: Chiến tranh giữa hai thế giới
Bằng chứng khoa học thay vì lên lớp
Bệnh tả: không để Việt Nam thành Bangladesh thứ hai
Bệnh tật nhìn từ quan điểm của thuyết tiến hóa
Bệnh xơ hóa cơ delta qua y văn thế giới
Bổ sung kẽm và điều trị bệnh tả
Bộ gen trong cây lúa và triển vọng
Bộ Y tế phản ứng chậm với rét đậm
Chiều cao của người Việt
Chiều cao và tổng thống Mĩ
Cholesterol và bệnh Tim
Cholesterol: hung thần hay bạn?
Chuột và... các nhà khoa học
Chính sách y tế cần dựa vào bằng chứng khoa học
Chạy đua vũ khí và … dịch cúm
Chất béo, cholesterol, bệnh tim và statins: xét lại bằng chứng
Chất keo xã hội: hormones
Chất lượng nghiên cứu dịch tễ học và y tế cộng đồng của Việt Nam qua chỉ số H
Chất lượng nghiên cứu khoa học ở Việt Nam qua chỉ số trích dẫn
Chất vấn chuẩn chẩn đoán béo phì
Chế độ ăn uống với nhiều thịt động vật và nguy cơ tử vong
Chủng vi khuẩn tả hiện nay ở nước ta có phải mới xuất hiện?
Cuộc chiến hóa học phi pháp lớn nhất trong lịch sử chiến tranh
Câu chuyện y học: Leptin và béo phì
Có bao nhiêu bác sĩ viết chữ khó đọc
Có nên tập trung vào vi khuẩn E. coli ?
Có thể xảy ra đại dịch cúm gia cầm?
Công cụ đơn giản để chẩn đoán tiểu đường ở người Đông Nam Á
Cúm gia cầm và nhiễu thông tin
Cúm H1N1: biết và chưa biết
Cơ hội để khép lại một chương lịch sử đau lòng
Cần hiểu đúng về Ung thư và nguy cơ ung thư
Cần qui ước đạo đức cho kĩ nghệ thực phẩm
Cần tiêm chủng ngừa bệnh tả vùng có nguy cơ cao
Cần điều tra về chất lượng bệnh viện
Cổ phần hóa bệnh viện công và chất lượng
Cổ phần hóa: chưa phải cách duy nhất
DDT và vấn đề cân đối giữa lợi ích và nguy hiểm
Dinh dưỡng: một nguồn thuốc quí giá
DNA không nói dối, nhưng DNA có thể nói … sai
Dịch cúm gà: hoang mang và sự thật khoa học
Dịch cúm heo và tác hại kinh tế
Dịch tay-chân-miệng
Dịch tả: gọi đúng tên để phòng ngừa
Dựa vào khoa học, đừng dựa vào niềm tin!
E. coli – vài câu hỏi thông thường
Gen và bệnh tật
Ghen tuông dưới cái nhìn của tâm lí y khoa
Gian lận trong nghiên cứu khoa học: áp lực kinh tế và cơ chế bình duyệt
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC: KHƠI DẬY VÀ NUÔI DƯỠNG TÍNH HAM HỌC
Giải nobel y học hay sinh lí học 2007 và lợi ích cho người bệnh
Giải Nobel Y sinh học 2008 và những tranh chấp khoa học
Giải Nobel y sinh học 2010 vinh danh người đem niềm vui cho người vô sinh
Giải Nobel y sinh học năm 2005: Một cõi đi về với vi khuẩn
Giải Nobel y sinh học: Nhìn lại quãng đường 100 năm
Giải phẫu ghép mặt và vấn đề y đức
Gout ở xương sống
Gãy xương và tử vong: một vấn nạn y tế cộng đồng
Hiệu quả vắcxin có nghĩa gì?
Hoa vàng mấy độc
Hàm lượng đạm trong sữa “siêu thấp” hay “siêu cao”?
Hóa chất khai hoang trong cuộc chiến Viện Nam: Qui mô và tầm ảnh hưởng
Hướng đi nào để giải quyết vấn đề chất độc da cam ở Việt Nam
Hậu “mắm tôm được minh oan”: bằng chứng khoa học, nhà xí và nghiên cứu
Hệ Thống Học Vị Và Học Hàm Khoa Học Ở Vài Nước Tây Phương
Hợp tác khoa học kiểu nhảy dù - Nguyễn Văn Tuấn
Khi bác sĩ trẻ “khoe” quá nhiều
Khoa học và ngụy khoa học: một vài đặc điểm và khác biệt cần biết
Khoa học, xã hội, và rủi ro
Không thể thành Phù Đổng trong 20 năm!
Khẩu trang và phòng chống cúm A/H1N1
Kiểm định giả thuyết mắm tôm và vi khuẩn tả
Liều lượng melamine bao nhiêu là an toàn?
Lí lịch sinh học của heo và dấu vết văn minh nông nghiệp Đông Nam Á
Lượng giá mạng sống con người
Lợi ích của vitamin D
Miệng nhà quan
Mắm tôm có phải là “thủ phạm” gây bệnh tả? Xét lại bằng chứng khoa học
Mắm tôm và chuyện xin lỗi
Mắm tôm và dịch tả: phân biệt yếu tố nguy cơ và nguyên nhân
Mắm tôm vô tội!
Mắm tôm, nguyên nhân và hệ quả
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Một bệnh hiếm X-linked recessive hypoparathyroidism
Một lần đi phỏng vấn
Một năm nhìn lại
Một phán quyết thiếu cơ sở khoa học
Một vài hiểu lầm tai hại
Một vài ngộ nhận về nghiên cứu khoa học
Một vài vấn đề về qui định chức danh giáo sư ở Việt Nam
Một vụ Madoff trong y khoa: Lại một ngôi sao y khoa rơi rụng!
Mỡ trắng, mỡ nâu
Mỡ  trong máu, huyết áp, và  tiểu đường
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nguyên nhân bệnh tiêu chảy
Ngó trên tay điếu thuốc đã lụi dần
Người cao tuổi và sự hạn chế của y khoa
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Nhân chuyện dịch tả nhớ lại John Snow
Nhân câu chuyện điện não đồ xét nghiệm nghiện ma túy:
Nhân năm khỉ_nguồn gốc con người hiện đại
Nhân năm Tý bàn chuyện thí nghiệm trên chuột
Nhìn lại khoa học Việt Nam năm 2008 qua công bố quốc tế
Nhầm lẫn trong y khoa: Khá phổ biến, nhưng ít ai biết!
Những câu hỏi và trả lời về dịch gia cầm
Những sai sót khó tin nhưng có thật
Những sai sót nguy hiểm trong toa thuốc
Những điều khó tin về “Bảy điều khó tin nhất trong y học”
Năm lí do cho mắm tôm “vô tội”
Phán quyết sau cùng: Chất béo không ảnh hưởng đến ung thư và bệnh tim
Phát hiện gien kiểm soát ráy tai: vài bài học về mò kim đáy biển
Phòng chống bệnh phải dựa vào bằng chứng khoa học!
Phòng chống H1N1 bằng rửa tay và khẩu trang: Biện pháp nào hiệu quả hơn?
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao và cân nặng: thiếu cơ sở khoa học và kì thị giới tính
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao: vấn đề giả định và bằng chứng khoa học
Quyền phê phán và trí thức
Quyền được tiếp cận hồ sơ bệnh án
Quản lý chất lượng: Thuốc phòng "tai nạn y khoa"
Rửa tay bằng xà phòng và tiêu chảy
Serotonin có liên quan đến chứng đột tử
Suy dinh dưỡng ở trẻ em: vấn đề của kinh tế
Sàng lọc trẻ sơ sinh trên phạm vi toàn quốc
Tai nạn y khoa trong bệnh viện
Thế nào là một "bài báo khoa học"
Thế nào là “Cơ sở khoa học” ?
Thịt chó là nguyên nhân của bệnh tiêu chảy cấp tính?
Thịt chó và bệnh tả: nguyên nhân và yếu tố nguy cơ
Tiên lượng bệnh Alzheimer bằng protein expression ?
Tiêu chuẩn chất lượng giáo dục đại học
Tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì cho người Việt - Nguyễn Văn Tuấn
Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh đái tháo đường (diabetes mellitus)
Tiêu chuẩn đề bạt giáo sư: Có nên căn cứ vào số lượng bài báo ?
Tiêu chảy cấp tính và bệnh tả: Định danh cho đúng
Truy tìm ung thư bằng mammography từ tuổi 50
Truyền thông và khoa học: Qui ước Ingelfinger
Truyền thông và y tế
Truyền thông, khoa học và … doanh nghiệp
Trà xanh và sức khỏe
Trách nhiệm và nhân đạo trong vấn đề chất độc da cam
Trái chanh và phòng chống bệnh tả
Trả lời những câu hỏi liên quan đến loãng xương
Trọng lượng cơ thể và tử vong ở người Trung Quốc: Ý nghĩa về việc xác định tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì
Tuổi thọ của người dân giảm 10 năm ?
Tác dụng Placebo trong y học: Tâm lí và ý nghĩa
Tình yêu, sắc đẹp nhìn dưới quan điểm di truyền học
Tín hiệu môi trường từ những “làng ung thư”
Tính khoa học và minh bạch đằng sau xét nghiệm doping
Tại sao không phát biểu về nguyên nhân và hệ quả ?
Tại sao uống rượu gây đỏ mặt và nguy cơ ung thư thực quản
Tạo sinh vô tính và cái chết của Thượng đế
Tạo sinh vô tính và vấn đề sinh đạo đức
Tản mạn về SARS
Tỉ lệ tử vong do cúm heo là bao nhiêu ?
Tự trị, chất lượng và y đức thay vì cổ phần hóa bệnh viện công
Ung thư vú và vấn đề thông tin y khoa
Uống bia hấp dẫn muỗi
Vaccine phòng chống AIDS hiệu quả đến đâu ?
Vaccine phòng chống cúm A/H1N1
Vi khuẩn gây tiêu chảy và ý nghĩa tiêm chủng
Vi khuẩn tả trong chó ?
Viết văn có thể chữa nhiều loại bệnh
Viết văn và trị liệu
Việc ta, ta cứ làm!
Vài nhận xét về 12 điều lệ y đức của Việt Nam
Vài thông tin cần biết về các chương trình truy tìm ung thư vú
Vài đóng góp quan trọng của người Việt khoa học thống kê
Văn hóa khoa học
Văn hóa tranh luận và vấn đề ngụy biện
Vấn đề sinh tố: kẽm và đồng
Vấn đề truy tìm ung thư phổi và hiệu quả 
Vấn đề y đức trong nghiên cứu tế bào mầm (stem cells)
Vấn đề đo lường melamine
Vấn đề đào tạo tiến sĩ: kinh nghiệm từ Australia
Vắc-xin phòng chống ung thư cổ tử cung
Vắcxin ngừa viêm gan B: cẩn thận với “nhiễu thông tin”
Vắcxin ngừa viêm gan B: kinh nghiệm từ nước ngoài
Vắcxin phòng bệnh sởi - quai bị - Rubella: lợi và hại
Vắcxin phòng chống ung thư cổ tử cung: hiệu quả lâm sàng và kinh tế
Vắcxin phòng ngừa bệnh tả: rất cần thiết
Về chấn chỉnh đào tạo tiến sĩ: Công bố bài báo khoa học là một thách thức lớn ?
Về học vị tiến sĩ
Về một sự hiểu lầm thuật ngữ "prospective"
Về phản ứng phụ của bisphosphonates liên quan đến hoại tử xương hàm và rung nhĩ
Vệ sinh như là một loại hàng hóa
Vị thế của nền khoa học Việt Nam
Xung quang xì căng đan về nghiên cứu tế bào mầm
Xã hội hóa và an toàn thực phẩm
Xếp hạng đại học: cần minh bạch hóa phương pháp
Y học hiện đại và những hứa hẹn
Y học thực chứng: vài nét khái quát
Y Khoa và những nhầm lẫn chết người
Y tế dự phòng: nền tảng của y khoa hiện đại
Y đức và nghiên cứu y học
Ói mửa, cao huyết áp và hôn mê
Ăn chay như là một trị liệu
Ăn chay và loãng xương
Điều trị bệnh dựa vào màu da ?
Điều trị đau dây thần kinh tọa bằng phẫu thuật: không có hiệu quả
Đo lường hiệu suất khoa học
Đánh giá đúng tầm quan trọng của ung thư vú 
Đại dịch H1N1
Đại dịch và đại dịch ảo
Đại dịch đã đến ?
Đạo văn trong hoạt động khoa học
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đằng sau những con số hàm lượng đạm trong sữa
Đế quốc Trà
Đề bạt các chức danh khoa bảng: vài kinh nghiệm từ Úc
Đọc lại 12 điều y đức của Việt Nam
Đồi điều về sữa nhiễm melamine
Đừng quên melamine trong các thực phẩm khác!
Ước vọng 200 ?
“Kỹ năng mềm” cho nhà khoa học
“Sẽ” và “có thể”


Trang nhiều tác giả
Trang riêng của Lê Ngọc Dũng
Trang riêng của Lương Lễ Hoàng
Trang riêng của Nguyễn Bảo Trung
Trang riêng của Nguyễn Hoài Nam
Trang riêng của Nguyễn Hữu Đức
Trang riêng của Nguyễn Văn Tuấn
Trang riêng của Nguyễn Ý Đức
Trang riêng của Nguyễn Đình Nguyên
Trang riêng của Phan Xuân Trung
Trang riêng của Đỗ Hồng Ngọc
Trang riêng của Đỗ Minh Tuấn