NGUYỄN VĂN TUẤN

DNA không nói dối, nhưng DNA có thể nói … sai

Nguyễn Văn Tuấn

Một tựa đề đầy hứa hẹn (“ADN không biết nói dối") và một tiêu đề đầy tính khẳng định (“Xác định quan hệ huyết thống: đạt chính xác 99,9%”) (1) có lẽ đem lại sự tin cậy tuyệt đối của bạn đọc đối với kĩ thuật phân tích DNA trong việc nhận dạng kẻ tội phạm hay xác định một mối quan hệ huyết thống. Tuy nhiên, trong thực tế, kĩ thuật phân tích DNA – cũng như bất cứ kĩ thuật sinh học nào – cũng có sai sót, và trong một số trường hợp, sự sai sót dẫn đến thảm họa khó lường cho đương sự. Trong bài viết ngắn này, tôi sẽ phân tích tại sao có sai sót trong phân tích DNA và cách diễn dịch kết quả DNA sao cho dễ hiểu hơn.

Từ khi kĩ thuật phân tích DNA được phát triển vào giữa thập niên 1980, xét nghiệm DNA đã được sử dụng rộng rãi trong việc chẩn đoán lâm sàng, nghiên cứu y sinh học. Ngoài lĩnh vực ứng dụng "truyền thống" này, trong khoảng trên dưới 10 năm gần đây, xét nghiệm DNA còn được ứng dụng trong việc xác định mối liên hệ huyết thống và pháp y. Ở Mĩ từ năm 1986 kết quả xét nghiệm DNA đã được chấp nhận là một bằng chứng trước tòa. Sau đó, các tòa án trên thế giới cũng theo bước và chấp nhận xem xét kết quả xét nghiệm DNA trong quá trình xét xử.

Xét nghiệm DNA đã giúp cho các cơ quan thi hành luật pháp truy tìm tội phạm một cách hữu hiệu, và giúp tòa án giải oan cho những trường hợp bị kết tội sai lầm. Ít ai biết rằng chính do xét nghiệm DNA (qua nước bọt trên tem thư) đã giúp cho cơ quan điều tra liên bang Mĩ phát hiện nhân vật "Unabomber", tức Tiến sĩ toán học Theodore Kaczynski, người từng gây kinh hoàng cho xã hội Mĩ một thời gian vì ông gửi bom thư (thư có chất nổ) đến các nhân vật lãnh đạo thuộc các công ti kĩ nghệ mà ông không ưa thích. Cũng chính qua so sánh DNA từ một bộ xương khai quật từ Brazil và vài người thân trong gia đình mà các nhà sử học đã xác định được hài cốt đó là của Josef Mengele, một nhân vật tội phạm chiến tranh khét tiếng thời Nazi ở Đức.

Những thành công ngoạn mục về ứng dụng xét nghiệm DNA trong pháp luật trong một thập niên gần đây đã làm nên một cuộc "cách mạng" pháp đình. Có thể nói không ngoa rằng phân tích DNA là một phát triển quan trọng nhất trong lịch sử pháp y trong thời đại chúng ta, thậm chí trong lịch sử con người.

Trong thời gian qua, kết quả xét nghiệm DNA được giới báo chí, luật sư, thậm chí quan tòa ca ngợi là bằng chứng chính xác nhất, khách quan nhất so với các loại bằng chứng như lời khai của nhân chứng (có độ tin cậy thấp nhất) và di chứng từ hiện trường. Trong việc thẩm định quan hệ huyết thống, kết quả DNA cũng thường được xem là một phán quyết sau cùng, và đã gây ra vô số thảm cảnh cho gia đình. Niềm tin tuyệt đối vào kết quả xét nghiệm DNA được khẳng định vì các nhà khoa học liên quan thường phát biểu trước tòa án và báo chí đại chúng bằng những ngôn từ khẳng định như “theo kinh nghiệm 30 năm của tôi, kết quả DNA chính xác 100%”, hay “tôi xác định đây là DNA của bị can", v.v...

Tuy nhiên, trong thực tế, xét nghiệm DNA, cũng như bất cứ phân tích khoa học nào, đều có phần bất định, không chắc chắn. Không bao giờ có chuyện chính xác 100%. Mà câu nói "chính xác 100%" có nghĩa gì thì cũng chẳng ai giải thích tường tận. Thật ra, có khi chính người phát biểu câu đó cũng chỉ lặp lại từ người khác, chứ không biết mình nói gì! Không phải bất cứ bằng chứng DNA nào cũng được xem là kết quả cuối cùng và bằng chứng duy nhất để kết tội một người nào đó, hay để kết luận mối quan hệ huyết thống.

Sai lầm từ bằng chứng DNA

Thật vậy, bên cạnh những thành công ngoạn mục đó, xét nghiệm DNA đã góp phần gây nên những phán quyết sai lầm nghiêm trọng. Năm 2004, Brandon Mayfield, một luật sư hành nghề tại thành phố Portland (Mĩ), bị cảnh sát liên bang Mĩ bắt giam 2 tuần vì bị tình nghi là thủ phạm đánh bom trên xe diện ở Madrid (Tây Ban Nha) vài tháng trước đó. Lí do tình nghi rất đơn giản: cảnh sát Mĩ phát hiện hồ sơ DNA của ông trùng hợp với hồ sơ DNA lấy từ hiện trường ở Madrid. Một chuyên gia pháp y chứng nhận rằng sự trùng hợp là sự thật vì xác suất trùng hợp chỉ xảy ra 1 trên 200 triệu lần. Tuy nhiên, cảnh sát Tây Ban Nha thì nhất định cho rằng Brandon không phải là thủ phạm và kết quả DNA có thể sai. Cảnh sát Tây Ban Nha tiếp tục điều tra và phát hiện một đàn ông khác có hồ sơ DNA trùng hợp với hồ sơ DNA lấy từ hiện trường, và qua thẩm vấn, người này đã thú nhận là thủ phạm. Mayfield được thả, cảnh sát Mĩ thú nhận nhầm lẫn trong phân tích DNA và xin lỗi Mayfield (2).

Trường hợp của Brandon Mayfield không phải là một trường hợp hiếm hoi hay cá biệt. Trong một phân tích 86 trường hợp bị hàm oan ở Mĩ, các nhà nghiên cứu phát hiện có 54 trường hợp (tức 63%) là do sai lầm từ xét nghiệm DNA (3).

Tại sao có sai sót trong xét nghiệm DNA? Để hiểu tại sao có sai sót và tình trạng bất định trong việc diễn dịch kết quả xét nghiệm DNA, cần phải xem xét qua qui trình ứng dụng bằng chứng DNA vào pháp đình.

Bước một, phát hiện sự trùng hợp hồ sơ DNA (DNA profile). Trong bước này, nhà chức trách phải chứng minh được rằng kết quả xét nghiệm DNA lấy từ hiện trường trùng hợp với kết quả xét nghiệm DNA từ người bị tình nghi;

Bước hai là xác định đó là một sự trùng hợp thật sự, chứ không phải ngẫu nhiên. Có nhiều lí do và khả năng hai mẫu DNA giống nhau (tôi sẽ bàn thêm trong phần sau), do đó, một bước cực kì quan trọng khác là nhà chức trách phải chứng minh được rằng sự trùng hợp hồ sơ DNA trong bước 1 là thật;

Bước ba là xác định nguồn gốc mẫu DNA. Cho dù sự trùng hợp DNA từ hiện trường và DNA từ người bị tình nghi là thật, người bị tình nghi có thể không phải là thủ phạm, mà chỉ là "vô tình" để lại dấu vết tại hiện trường. Do đó, nhà chức trách phải chứng minh được rằng người tình nghi có mặt tại hiện trường;

Bước bốn là phán quyết. Sau khi tất cả các thông tin trên đã được khẳng định, tòa án hay bồi thẩm đoàn mới có lí do để phán quyết người bị tình nghi là thủ phạm hay vô tội.

Mỗi bước và mỗi chuỗi liên hệ giữa hai bước trong qui trình trên đều có thể sai sót. Nếu sai sót xảy ra từ bước thứ nhất thì tất cả các kết quả và thông tin hai bước sau trở thành vô nghĩa, và bằng chứng không được chấp nhận trước tòa.

Trong bước một, kết quả xét nghiệm DNA có thể phạm sai sót về kĩ thuật như thất bại của enzim, hoặc mẫu (mẫu máu, tóc, nước bọt …) bị nhiễm hay hư hỏng, hoặc nồng độ muối [dùng cho phân tích DNA] bất bình thường, hoặc do lẫn lộn mẫu máu, hoặc đơn giản do sai sót của kĩ thuật viên. Rất khó biết tỉ lệ sai sót trong bước một là bao nhiêu (vì ít ai chịu công bố sai sót kĩ thuật!), nhưng kinh nghiệm của người viết bài này thì tỉ lệ sai sót có thể dao động từ 1 đến 5%. Qua tái thẩm định 75 báo cáo trùng hợp hồ sơ DNA, người ta phát hiện 3 sai sót trong bước 1, tức tỉ lệ 4% (4).

Sai lầm từ diễn dịch xác suất

Nếu bước một không có sai sót, và nhà chức trách phát hiện một sự trùng hợp, vấn đề đặt ra là xác suất trùng hợp này là bao nhiêu? Để trả lời câu hỏi này, nhà chức trách phải áp dụng lí thuyết xác suất để ước tính xác suất trùng hợp ngẫu nhiên (random match probability – RMP). Để hiểu ý nghĩa xác suất này, cần phải xét qua một trường hợp như sau. Giả sử chuyên gia phân tích DNA lập hồ sơ DNA bằng cách phân tích 6 gen (mỗi gen có nhiều biến thể, tức genotype), và kết quả như sau:

Gen

Kết quả xét nghiệm (biến thể)

Hiện trường

Người bị tình nghi
GYPA

BB

BB

HBGG

AC

AC

LDLR

AA

AA

D7S8

BB

BB

GC

BB

BB

ABO

B

B

Kết quả xét nghiệm trên cho thấy biến thể từ 6 gen phân tích từ mẫu lấy từ hiện trường và mẫu lấy từ máu của người bị tình nghi hoàn toàn giống nhau. Nhưng có thể kết luận rằng người bị tình nghi là người bỏ lại mẫu máu tại hiện trường hay không? Câu trả lời là "không", bởi vì:

có thể có nhiều người khác cũng có biến thể gen giống như người bị tình nghi; hồ sơ DNA chỉ mới phân tích trên 6 gen, mà trong cơ thể con người có hơn ba mươi ngàn gen (không ai biết con người có bao nhiêu gen). Rất dễ thấy là tăng số gen để thiết lập hồ sơ DNA cũng làm tăng độ tin cậy của phán xét.

Giả dụ trong một quần thể người da trắng (vì tần số gen rất khác nhau giữa các sắc dân), có 21,3% người mang biến thể BB thuộc gen GYPA, 0,5% người mang biến thể AC thuộc gen HBGG, v.v… như bảng thống kê sau đây:

Gen

Biến thể

Tần số trong quần thể

GYPA

BB

0,213

HBGG

AC

0,005

LDLR

AA

0,191

D7S8

BB

0,208

GC

BB

0,040

ABO

B

0,070

Các tần số này được ước tính từ nghiên cứu trên một quần thể lớn. Từ bảng trên, có thể ước tính xác suất mà một người có hồ sơ DNA như trên là: 0,213 x 0,005 x 0,191 x 0,208 x 0,040 x 0,070 = 0,0000001185, hay 1 trên 8.441.034. Cách tính này dĩ nhiên là dựa vào giả định phân phối của các biến thể trong 6 gen là hoàn toàn độc lập. (Thật ra, phương pháp tính xác suất này là một đề tài vẫn còn tranh cãi trong giới thống kê và toán học, cách tính mà tôi vừa trình bày là rất đơn giản). Đây chính là xác suất trùng hợp ngẫu nhiên, mà luật sư và tòa án sử dụng để làm bằng chứng cho phán quyết.

Ý nghĩa thật của xác suất trùng hợp ngẫu nhiên 1 trên 8.441.034 là như sau: nếu người bị tình nghi vô tội (không phải "chủ nhân" mẫu DNA tại hiện trường) thì trong một quần thể xác suất một người có hồ sơ DNA trùng hợp với DNA tại hiện trường là 0,0000001185. Nói theo ngôn ngữ xác suất, đây chính là P(trùng hợp | vô tội).

Xin nhấn mạnh, xác suất này không có nghĩa là P(vô tội | trùng hợp). Thế nhưng tiếc thay, rất nhiều người hiểu sai như thế. Và cũng chính vì hiểu sai, mà trong nhiều trường hợp, chỉ vì một con số này, và chỉ xác suất này, mà bao nhiêu người đã vào tù ra khám!

Hãy xem qua một phát biểu sau cùng (trước khi bồi thẩm đoàn họp và quyết định) của công tố viên và luật sư bào chữa trong một phiên tòa ở London như sau (5):

Công tố viên: "Hồ sơ DNA tìm thấy từ hiện trường và bị can cực kì hiếm, chỉ xảy ra với tần số 1 trên 10 triệu người. Đây là một xác suất cực kì thấp, và chúng ta phải kết luận rằng với một xác suất như thế, bị can là người có tội. Quí vị bồi thẩm đoàn không còn lựa chọn nào khác, mà chỉ phải kết luận bị can chính là thủ phạm."

Luật sư cho bị can: "Trong một quần thể 30 triệu người, bất cứ ai cũng có thể là thủ phạm. Một trong những người này thực sự là kẻ phạm tội. Số còn lại vô tội, và mỗi người có xác suất 1/10 triệu mà hồ sơ DNA sẽ trùng hợp với hồ sơ DNA tại hiện trường. Thành ra, có 3 người vô tội nhưng có hồ sơ DNA giống như hồ sơ DNA lấy từ hiện trường. Chúng ta biết rằng bị can có DNA trùng hợp, nhưng ông ta có thể bất cứ ai trong 3 người vô tội kia. Do đó, xác suất mà ông ta có tội là 1/4. Xác suất này không thể xem là ‘ngoài vòng nghi vấn’ được. Quí vị bồi thẩm đoàn không còn lựa chọn nào khác hơn là kết luận rằng khách hàng của tôi vô tội!"

Ở đây, lí giải của công tố viên rất sai lầm! Và sai lầm này cũng rất phổ biến trong luật pháp mà giới logic học đặt tên là "prosecutor fallacy" (ngụy biện công tố viên). Công tố viên (nhầm lẫn) cho rằng xác suất trùng hợp ngẫu nhiên là xác suất mà bị can vô tội. Lí giải của luật sư biện hộ thì khá dài dòng, khó theo dõi, và không hợp lí.

Xác suất trùng hợp ngẫu nhiên 1 trên 10.000.000 có nghĩa là: nếu bị can vô tội (tức không phải là "thân chủ" của mẫu DNA lấy từ hiện tường), thì xác suất mà một người được chọn ngẫu nhiên từ một quần thể dân số có hồ sơ DNA giống như hồ sơ DNA từ hiện trường là 1 trên 10 triệu người.

Điều quan trọng cần nhấn mạnh là: xác suất trùng hợp ngẫu nhiên không có nghĩa là xác suất bị can vô tội là 0,0000001 (1 trên 10 triệu), và cũng không có nghĩa là xác suất mà bị can có tội là 0,9999999. Ấy thế mà đại đa số bồi thẩm đoàn đều nghĩ và diễn dịch như thế (6)!

Ước tính xác suất phạm tội

Quay lại trường hợp trên, có thể lí giải một cách đơn giản rằng trong một quần thể 30 triệu, có một người thật sự có tội, và số còn lại 29.999.999 người vô tội. Giả định rằng nếu bị can có tội thì kết quả xét nghiệm DNA sẽ cho kết quả dương tính (trùng hợp với DNA lấy từ hiện trường), tức P(T+ | K+) = 1. Trong số 29.999.999 người vô tội, vì P(K+ | T-) = 1/10.000.000, nên sẽ có 3 người có kết quả DNA dương tính. Như vậy, chúng ta kì vọng sẽ có 4 kết quả DNA dương tính, nhưng trong số này chỉ có 1 người là thật sự có tội, cho nên xác suất bị can có tội nếu kết quả DNA dương tính là: 1/4 = 0,25. Có thể theo dõi cách lí giải trên qua biểu đồ sau đây:

Tuy nhiên, cách tính trên tùy thuộc rất lớn vào xác suất ban đầu mà công tố viên (hay luật sự biện hộ) cho rằng bị can có tội. Trong ví dụ trên, xác suất này là 1 trên 30 triệu, và ước số này dựa vào giả định rằng bất cứ ai trong cộng đồng 30 triệu người đều có xác suất mang tội như nhau. Rõ ràng, giả thiết này chỉ có thể chấp nhận được nếu không có bất cứ bằng chứng nào khác để xem xét; nhưng nếu các bằng chứng ngoài DNA có sẵn thì một xác suất như thế không có tính thuyết phục cao. Cách tính vừa diễn giải trên có thể tóm gọn bằng công thức Bayes (7).

Nói tóm lại, việc ứng dụng phân tích DNA trong luật pháp là một phát triển rất quan trọng trong việc giải quyết vấn đề nhận dạng tội phạm và xác định quan hệ huyết thống, nhưng không nên xem kết quả xét nghiệm DNA là một kết quả sau cùng để dựa vào đó mà quyết định. Trong thực tế, như trình bày trên kết quả xét nghiệm DNA có thể sai sót từ khâu kĩ thuật. Tuy mức độ sai sót rất thấp, nhưng nó vẫn là một nguy cơ có thể gây nên những thảm nạn cho nạn nhân. Ngay cả khi kết quả xét nghiệm DNA hoàn toàn chính xác, việc diễn dịch kết quả DNA cũng có thể sai vì người diễn dịch không hiểu kết quả trùng hợp DNA có nghĩa gì. Những xác suất trùng hợp DNA như 1 trên 10 triệu, hay thậm chí 1 trên 57 tỉ (như trường hợp của O. J. Simpson) không có nghĩa là xác suất bị can vô tội. Kết quả xét nghiệm DNA chỉ có thể xem là một nguồn bằng chứng trong nhiều bằng chứng khác, và cần phải được diễn dịch đúng với ý nghĩa mang tính bất định của nó. Diễn dịch đúng một kết quả xét nghiệm DNA như trình bày trên đòi hỏi một kiến thức vững vàng về lí thuyết xác suất và di truyền dân số học.

Chú thích và tài liệu tham khảo

1. Xem "AND không biết nói dối" tại http://vietnamnet.vn/psks/2006/04/564154

2. Study of faulty fingerprints debunks forensic science ‘Zero Error’ claim. Website: http://www.sciencedaily.com/releases/2005/09/050913124509.htm

3. Saks MJ, Koehler JJ. The paradigm shift in forensic identification science. Science 5/8/2005, 309:892-895.

4. Koehler JJ. Error and exaggeration in the presentation of DNA evidence at trial. Jurimetrics 1993; 34:

5. Dawid AP. Bayes’ theorem and weighing evidence by juries. Tài liệu có thể tải tại website sau đây: http://www.ucl.ac.uk/~ucak06d/evidence/1day/ba.pdf.

6. Redmayne M. Appeals to reason. The Modern Law Review 2002;65:19-35.

7. Để đơn giản vấn đề và tiết kiệm từ ngữ, gọi K+ là sự trùng hợp giữa mẫu DNA từ bị can và DNA từ hiện trường; K- là kết quả không trùng hợp. Gọi T+ là trường hợp bị can chính là "chủ nhân" của mẫu DNA từ hiện trường, và T- là trường hợp bị can không phải là can phạm. Nói theo ngôn ngữ xác suất thì xác suất trùng hợp ngẫu nhiên có thể viết bằng công thức: P(K+ | T-), tức là một xác suất điều kiện (dấu hiệu “|” là viết tắt từ cụm từ "với điều kiện”). Dĩ nhiên, P(K+ | T-) hoàn toàn khác với P(T+ | K+), tức xác suất bị can là thủ phạm nếu sự trùng hợp xảy ra. P(T+ | K+) chính là xác suất mà chúng ta và bồi thẩm đoàn cần biết. Theo định nghĩa xác suất có điều kiện, xác suất mà bị can có tội nếu kết quả DNA của bị can trùng hợp với DNA tại hiện trường là:

Trong đó, P(T+) là xác suất mà bị can có tội dự vào các bằng chứng khác, và là xác suất mà bị can không có tội. Dựa vào công thức này, có thể lí giải trường hợp trên như sau: giả dụ như ngoài bằng chứng DNA, công tố viên không có bằng chứng nào khác, thì xác suất mà bị can có tội là P(T+) = 1/30.000.000. Chúng ta biết P(K+ | T-) = 1/10.000.000, và giả định rằng nếu bị can có tội thì xác suất mà DNA của bị can trùng hợp với DNA tại hiện trường là 1 (tức P(K+ | T+) = 1). Với các ước số đó, xác suất mà bị can có tội nếu kết quả DNA trùng hợp là:


200 năm Darwin
Agent Orange: collateral damage
Alexandre Yersin và Việt Nam
Bàn về hiệu quả vắcxin: lâm sàng và kinh tế
Bàn về vấn đề dịch thuật và đánh giá năng suất khoa học
Béo phì ở người Á châu
Béo phì ở trẻ em và virus
Bình luận từ Dr. Yến
Bưởi không gây ung thư vú
Bảo hiểm y tế cộng đồng
Bảo tồn môi sinh: Chiến tranh giữa hai thế giới
Bằng chứng khoa học thay vì lên lớp
Bệnh tả: không để Việt Nam thành Bangladesh thứ hai
Bệnh tật nhìn từ quan điểm của thuyết tiến hóa
Bệnh xơ hóa cơ delta qua y văn thế giới
Bổ sung kẽm và điều trị bệnh tả
Bộ gen trong cây lúa và triển vọng
Bộ Y tế phản ứng chậm với rét đậm
Chiều cao của người Việt
Chiều cao và tổng thống Mĩ
Cholesterol và bệnh Tim
Cholesterol: hung thần hay bạn?
Chuột và... các nhà khoa học
Chính sách y tế cần dựa vào bằng chứng khoa học
Chạy đua vũ khí và … dịch cúm
Chất béo, cholesterol, bệnh tim và statins: xét lại bằng chứng
Chất keo xã hội: hormones
Chất lượng nghiên cứu dịch tễ học và y tế cộng đồng của Việt Nam qua chỉ số H
Chất lượng nghiên cứu khoa học ở Việt Nam qua chỉ số trích dẫn
Chất vấn chuẩn chẩn đoán béo phì
Chế độ ăn uống với nhiều thịt động vật và nguy cơ tử vong
Chủng vi khuẩn tả hiện nay ở nước ta có phải mới xuất hiện?
Cuộc chiến hóa học phi pháp lớn nhất trong lịch sử chiến tranh
Câu chuyện y học: Leptin và béo phì
Có bao nhiêu bác sĩ viết chữ khó đọc
Có nên tập trung vào vi khuẩn E. coli ?
Có thể xảy ra đại dịch cúm gia cầm?
Công cụ đơn giản để chẩn đoán tiểu đường ở người Đông Nam Á
Cúm gia cầm và nhiễu thông tin
Cúm H1N1: biết và chưa biết
Cơ hội để khép lại một chương lịch sử đau lòng
Cần hiểu đúng về Ung thư và nguy cơ ung thư
Cần qui ước đạo đức cho kĩ nghệ thực phẩm
Cần tiêm chủng ngừa bệnh tả vùng có nguy cơ cao
Cần điều tra về chất lượng bệnh viện
Cổ phần hóa bệnh viện công và chất lượng
Cổ phần hóa: chưa phải cách duy nhất
DDT và vấn đề cân đối giữa lợi ích và nguy hiểm
Dinh dưỡng: một nguồn thuốc quí giá
DNA không nói dối, nhưng DNA có thể nói … sai
Dịch cúm gà: hoang mang và sự thật khoa học
Dịch cúm heo và tác hại kinh tế
Dịch tay-chân-miệng
Dịch tả: gọi đúng tên để phòng ngừa
Dựa vào khoa học, đừng dựa vào niềm tin!
E. coli – vài câu hỏi thông thường
Gen và bệnh tật
Ghen tuông dưới cái nhìn của tâm lí y khoa
Gian lận trong nghiên cứu khoa học: áp lực kinh tế và cơ chế bình duyệt
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC: KHƠI DẬY VÀ NUÔI DƯỠNG TÍNH HAM HỌC
Giải nobel y học hay sinh lí học 2007 và lợi ích cho người bệnh
Giải Nobel Y sinh học 2008 và những tranh chấp khoa học
Giải Nobel y sinh học 2010 vinh danh người đem niềm vui cho người vô sinh
Giải Nobel y sinh học năm 2005: Một cõi đi về với vi khuẩn
Giải Nobel y sinh học: Nhìn lại quãng đường 100 năm
Giải phẫu ghép mặt và vấn đề y đức
Gout ở xương sống
Gãy xương và tử vong: một vấn nạn y tế cộng đồng
Hiệu quả vắcxin có nghĩa gì?
Hoa vàng mấy độc
Hàm lượng đạm trong sữa “siêu thấp” hay “siêu cao”?
Hóa chất khai hoang trong cuộc chiến Viện Nam: Qui mô và tầm ảnh hưởng
Hướng đi nào để giải quyết vấn đề chất độc da cam ở Việt Nam
Hậu “mắm tôm được minh oan”: bằng chứng khoa học, nhà xí và nghiên cứu
Hệ Thống Học Vị Và Học Hàm Khoa Học Ở Vài Nước Tây Phương
Hợp tác khoa học kiểu nhảy dù - Nguyễn Văn Tuấn
Khi bác sĩ trẻ “khoe” quá nhiều
Khoa học và ngụy khoa học: một vài đặc điểm và khác biệt cần biết
Khoa học, xã hội, và rủi ro
Không thể thành Phù Đổng trong 20 năm!
Khẩu trang và phòng chống cúm A/H1N1
Kiểm định giả thuyết mắm tôm và vi khuẩn tả
Liều lượng melamine bao nhiêu là an toàn?
Lí lịch sinh học của heo và dấu vết văn minh nông nghiệp Đông Nam Á
Lượng giá mạng sống con người
Lợi ích của vitamin D
Miệng nhà quan
Mắm tôm có phải là “thủ phạm” gây bệnh tả? Xét lại bằng chứng khoa học
Mắm tôm và chuyện xin lỗi
Mắm tôm và dịch tả: phân biệt yếu tố nguy cơ và nguyên nhân
Mắm tôm vô tội!
Mắm tôm, nguyên nhân và hệ quả
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Một bệnh hiếm X-linked recessive hypoparathyroidism
Một lần đi phỏng vấn
Một năm nhìn lại
Một phán quyết thiếu cơ sở khoa học
Một vài hiểu lầm tai hại
Một vài ngộ nhận về nghiên cứu khoa học
Một vài vấn đề về qui định chức danh giáo sư ở Việt Nam
Một vụ Madoff trong y khoa: Lại một ngôi sao y khoa rơi rụng!
Mỡ trắng, mỡ nâu
Mỡ  trong máu, huyết áp, và  tiểu đường
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nguyên nhân bệnh tiêu chảy
Ngó trên tay điếu thuốc đã lụi dần
Người cao tuổi và sự hạn chế của y khoa
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Nhân chuyện dịch tả nhớ lại John Snow
Nhân câu chuyện điện não đồ xét nghiệm nghiện ma túy:
Nhân năm khỉ_nguồn gốc con người hiện đại
Nhân năm Tý bàn chuyện thí nghiệm trên chuột
Nhìn lại khoa học Việt Nam năm 2008 qua công bố quốc tế
Nhầm lẫn trong y khoa: Khá phổ biến, nhưng ít ai biết!
Những câu hỏi và trả lời về dịch gia cầm
Những sai sót khó tin nhưng có thật
Những sai sót nguy hiểm trong toa thuốc
Những điều khó tin về “Bảy điều khó tin nhất trong y học”
Năm lí do cho mắm tôm “vô tội”
Phán quyết sau cùng: Chất béo không ảnh hưởng đến ung thư và bệnh tim
Phát hiện gien kiểm soát ráy tai: vài bài học về mò kim đáy biển
Phòng chống bệnh phải dựa vào bằng chứng khoa học!
Phòng chống H1N1 bằng rửa tay và khẩu trang: Biện pháp nào hiệu quả hơn?
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao và cân nặng: thiếu cơ sở khoa học và kì thị giới tính
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao: vấn đề giả định và bằng chứng khoa học
Quyền phê phán và trí thức
Quyền được tiếp cận hồ sơ bệnh án
Quản lý chất lượng: Thuốc phòng "tai nạn y khoa"
Rửa tay bằng xà phòng và tiêu chảy
Serotonin có liên quan đến chứng đột tử
Suy dinh dưỡng ở trẻ em: vấn đề của kinh tế
Sàng lọc trẻ sơ sinh trên phạm vi toàn quốc
Tai nạn y khoa trong bệnh viện
Thế nào là một "bài báo khoa học"
Thế nào là “Cơ sở khoa học” ?
Thịt chó là nguyên nhân của bệnh tiêu chảy cấp tính?
Thịt chó và bệnh tả: nguyên nhân và yếu tố nguy cơ
Tiên lượng bệnh Alzheimer bằng protein expression ?
Tiêu chuẩn chất lượng giáo dục đại học
Tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì cho người Việt - Nguyễn Văn Tuấn
Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh đái tháo đường (diabetes mellitus)
Tiêu chuẩn đề bạt giáo sư: Có nên căn cứ vào số lượng bài báo ?
Tiêu chảy cấp tính và bệnh tả: Định danh cho đúng
Truy tìm ung thư bằng mammography từ tuổi 50
Truyền thông và khoa học: Qui ước Ingelfinger
Truyền thông và y tế
Truyền thông, khoa học và … doanh nghiệp
Trà xanh và sức khỏe
Trách nhiệm và nhân đạo trong vấn đề chất độc da cam
Trái chanh và phòng chống bệnh tả
Trả lời những câu hỏi liên quan đến loãng xương
Trọng lượng cơ thể và tử vong ở người Trung Quốc: Ý nghĩa về việc xác định tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì
Tuổi thọ của người dân giảm 10 năm ?
Tác dụng Placebo trong y học: Tâm lí và ý nghĩa
Tình yêu, sắc đẹp nhìn dưới quan điểm di truyền học
Tín hiệu môi trường từ những “làng ung thư”
Tính khoa học và minh bạch đằng sau xét nghiệm doping
Tại sao không phát biểu về nguyên nhân và hệ quả ?
Tại sao uống rượu gây đỏ mặt và nguy cơ ung thư thực quản
Tạo sinh vô tính và cái chết của Thượng đế
Tạo sinh vô tính và vấn đề sinh đạo đức
Tản mạn về SARS
Tỉ lệ tử vong do cúm heo là bao nhiêu ?
Tự trị, chất lượng và y đức thay vì cổ phần hóa bệnh viện công
Ung thư vú và vấn đề thông tin y khoa
Uống bia hấp dẫn muỗi
Vaccine phòng chống AIDS hiệu quả đến đâu ?
Vaccine phòng chống cúm A/H1N1
Vi khuẩn gây tiêu chảy và ý nghĩa tiêm chủng
Vi khuẩn tả trong chó ?
Viết văn có thể chữa nhiều loại bệnh
Viết văn và trị liệu
Việc ta, ta cứ làm!
Vài nhận xét về 12 điều lệ y đức của Việt Nam
Vài thông tin cần biết về các chương trình truy tìm ung thư vú
Vài đóng góp quan trọng của người Việt khoa học thống kê
Văn hóa khoa học
Văn hóa tranh luận và vấn đề ngụy biện
Vấn đề sinh tố: kẽm và đồng
Vấn đề truy tìm ung thư phổi và hiệu quả 
Vấn đề y đức trong nghiên cứu tế bào mầm (stem cells)
Vấn đề đo lường melamine
Vấn đề đào tạo tiến sĩ: kinh nghiệm từ Australia
Vắc-xin phòng chống ung thư cổ tử cung
Vắcxin ngừa viêm gan B: cẩn thận với “nhiễu thông tin”
Vắcxin ngừa viêm gan B: kinh nghiệm từ nước ngoài
Vắcxin phòng bệnh sởi - quai bị - Rubella: lợi và hại
Vắcxin phòng chống ung thư cổ tử cung: hiệu quả lâm sàng và kinh tế
Vắcxin phòng ngừa bệnh tả: rất cần thiết
Về chấn chỉnh đào tạo tiến sĩ: Công bố bài báo khoa học là một thách thức lớn ?
Về học vị tiến sĩ
Về một sự hiểu lầm thuật ngữ "prospective"
Về phản ứng phụ của bisphosphonates liên quan đến hoại tử xương hàm và rung nhĩ
Vệ sinh như là một loại hàng hóa
Vị thế của nền khoa học Việt Nam
Xung quang xì căng đan về nghiên cứu tế bào mầm
Xã hội hóa và an toàn thực phẩm
Xếp hạng đại học: cần minh bạch hóa phương pháp
Y học hiện đại và những hứa hẹn
Y học thực chứng: vài nét khái quát
Y Khoa và những nhầm lẫn chết người
Y tế dự phòng: nền tảng của y khoa hiện đại
Y đức và nghiên cứu y học
Ói mửa, cao huyết áp và hôn mê
Ăn chay như là một trị liệu
Ăn chay và loãng xương
Điều trị bệnh dựa vào màu da ?
Điều trị đau dây thần kinh tọa bằng phẫu thuật: không có hiệu quả
Đo lường hiệu suất khoa học
Đánh giá đúng tầm quan trọng của ung thư vú 
Đại dịch H1N1
Đại dịch và đại dịch ảo
Đại dịch đã đến ?
Đạo văn trong hoạt động khoa học
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đằng sau những con số hàm lượng đạm trong sữa
Đế quốc Trà
Đề bạt các chức danh khoa bảng: vài kinh nghiệm từ Úc
Đọc lại 12 điều y đức của Việt Nam
Đồi điều về sữa nhiễm melamine
Đừng quên melamine trong các thực phẩm khác!
Ước vọng 200 ?
“Kỹ năng mềm” cho nhà khoa học
“Sẽ” và “có thể”


Trang nhiều tác giả
Trang riêng của Lê Ngọc Dũng
Trang riêng của Lương Lễ Hoàng
Trang riêng của Nguyễn Bảo Trung
Trang riêng của Nguyễn Hoài Nam
Trang riêng của Nguyễn Hữu Đức
Trang riêng của Nguyễn Văn Tuấn
Trang riêng của Nguyễn Ý Đức
Trang riêng của Nguyễn Đình Nguyên
Trang riêng của Phan Xuân Trung
Trang riêng của Đỗ Hồng Ngọc
Trang riêng của Đỗ Minh Tuấn