NGUYỄN VĂN TUẤN

Thịt chó và dịch tả:

Tại sao không phát biểu về nguyên nhân và hệ quả ?

Nguyễn Văn Tuấn

YKHOANET 04/04/2008 - Hôm nay tôi nhận được một thư từ một bạn đọc ở “miền Tây”, chắc là gần quê tôi.  Bạn đọc này hỏi như sau (trích thư)

Em là một bác sĩ ở miền tây có tham dự buổi nói chuyện của thầy về loãng xương hồi tháng trước và mới đây có theo dõi vụ dịch tả mà thầy hăng hái bàn luận trên báo chí. Xin cám ơn thầy về những thông tin quý giá cũng như những ý kiến chí tình chí lý. Em muốn hỏi thầy một câu hỏi nhỏ. Trong một thư trao đổi với ông Olive thầy nói là nghiên cứu bệnh chứng không thể cho phép phát biểu về nguy cơ, nguyên nhân và hệ quả. Xin hỏi thầy tại sao vậy? Thầy có thể giải thích để em hiểu thêm không? Xin cám ơn thầy và chúc thầy nhiều may mắn.”

Trước hết, thành thật cám ơn Bs Th đã có những lời đẹp và khích lệ về những thảo luận trong thời gian qua mà tôi tốn khá nhiều buổi tối để viết.  Như anh thấy, những ý kiến của tôi cũng làm cho một số người trong giới quan chức không hài lòng, và họ đã có những câu chữ nặng nề không tương xứng với tinh thần khoa học.  Thành ra, đọc được những thư như của anh cũng làm tôi thấy việc mình làm không đến nỗi vô dụng. 

Về câu hỏi của anh, tôi đã trình bày trong bài “Thịt chó và bệnh tả: nguyên nhân và yếu tố nguy cơ”, trong đó tôi có nói qua về những điều kiện cần thiết để một yếu tố nguy cơ có thể xem là một nguyên nhân.  Tuy nhiên, để giải thích thêm, tôi muốn có vài hàng bàn thêm như sau.  Để cho dễ hiểu các khái niệm về nguy cơ, tôi sẽ lấy một ví dụ tưởng tượng và cách giải thích của tôi có thể hơi “ê a”, xin bạn đọc thông cảm!

Trường hợp 1.  Chúng ta chọn một cộng đồng (có thể là một xã, một huyện, hay thậm chí tỉnh) một thời gian từ lúc bệnh tả chưa xảy ra đến khi bệnh tả xảy ra.  Giả dụ như cộng đồng này có 1.000 người.  Lúc đầu, khi bệnh tả chưa xảy ra, tôi để ý thấy có 100 người có thói quen ăn thịt chó, và 900 người không ăn thịt chó.  Trong thời gian theo dõi (hãy cho là 1 năm), chúng ta ghi nhận có 10 người mắc bệnh tả, trong số này 5 người từng ăn thịt chó trước khi mắc bệnh (xem bảng tóm lược). 

Thói quen ăn uống

Mắc bệnh

Không mắc bệnh

Tổng số

Ăn thịt chó trước khi mắc bệnh

5

95

100

Không ăn thịt chó

5

985

900

Tổng số

10

990

1000

Trong trường hợp này, chúng ta có thể ước tính tỉ lệ phát sinh (thuật ngữ dịch tễ học tiếng Anh là incidence rate), bằng cách đơn giản lấy số người mắc bệnh (10) chia cho số nguy có nguy cơ mắc bệnh (1000):

Tỉ lệ phát sinh = 10 / 1000 = 0,01

Lấy 0,01 nhân cho 100, chúng ta có 1%.  Ước số 1% này còn được gọi là nguy cơ mắc bệnh hay risk.  Nói cách khác, nguy cơ chính là xác suất mắc bệnh. 

Nhưng chúng ta có hai nhóm (ăn thịt chó và nhóm không ăn thịt chó), cho nên chúng ta có thể ước tính tỉ lệ phát sinh cho từng nhóm, và so sánh hai tỉ lệ này. 

  • Tỉ lệ phát sinh trong nhóm ăn thịt chó là (kí hiệu I1) :  I1 = 5 / 100 = 0,05
  • Tỉ lệ phát sinh trong nhóm ăn thịt chó là (kí hiệu I2) :  I2 = 5 / 900 = 0,0055

Như vậy, nhóm ăn thịt chó có nguy cơ mắc bệnh tả là 5% và nhóm không ăn thịt chó có nguy cơ mắc bệnh chỉ 0,55%.  Một cách so sánh nguy cơ giữa hai nhóm là lấy nguy cơ của nhóm ăn thịt chó chia cho nhóm không ăn thịt chó (gọi chỉ số này là RR):

RR = I1 / I2 = 0,05 / 0,00555 = 9

Nói cách khác, nguy cơ mắc bệnh tả ở những người ăn thịt chó cao gấp 9 lần so với nhóm không ăn thịt chó.  Trong dịch tễ học, người ta gọi RR là tỉ số nguy cơ (relative risk).  Đây là một chỉ số rất quan trọng trong dịch tễ học, bởi vì nó nói lên mối liên hệ giữa một yếu tố nguy cơ (trong trường hợp này là thịt chó) và bệnh.  (Xin nói thêm rằng ông Olivé về phát biểu với báo chí ngoại quốc rằng ăn thịt chó tăng nguy cơ mắc bệnh tả gấp 20 lần, và khi chúng tôi chất vấn ông về con số này, chúng tôi thật sự muốn hỏi ông về tỉ số nguy cơ).

Trường hợp 2.  Trường hợp vừa trình bày trên tuy ý tưởng thì rất đơn giản nhưng trong thực tế không dễ thực hiện.  Rất khó mà biết dịch tả xảy ra lúc nào và bao lâu.  Cũng rất khó theo dõi cả một cộng đồng trong một thời gian dài để ghi nhận số ca bệnh.  Trong thực tế, bệnh tả đã xảy ra, và chúng ta muốn truy tìm về quá khứ để biết yếu tố nguy cơ.  Trong dịch tễ học, có một mô hình nghiên cứu gọi là bệnh chứng (case-control study) để ước tính RR – tỉ số nguy cơ. 

Giả dụ như chúng ta thực hiện như sau.  Chúng ta chọn 10 người mắc bệnh tả trong cộng đồng trên, và tìm 10 người khác (cũng có thể là 20 hay 30 người) không mắc bệnh tả nhưng có cùng độ tuổi, cùng giới tính, v.v… với nhóm người mắc bệnh (còn gọi là nhóm chứng hay control group).  Nói cách khác, và để cho đơn giản vấn đề, chúng ta có 2 nhóm: 10 bệnh nhân và 10 người không bệnh. 

Mỗi cá nhân, chúng ta hỏi trước khi mắc bệnh, anh/chị từng ăn thịt chó hay không.  Giả dụ rằng trong nhóm bệnh có 8 người báo cáo từng ăn thịt chó, và trong nhóm chứng có 4 người từng ăn thịt chó (xem bảng tóm lược thông tin dưới đây): 

Thói quen ăn uống

Nhóm bệnh (n = 10)

Nhóm chứng (n = 10)

Ăn thịt chó trước khi mắc bệnh

8

4

Không ăn thịt chó

2

6

Ở đây, chúng ta cũng không thể ước tính nguy cơ hay risk.  Chúng ta có 20 đối tượng trong nghiên cứu, trong đó có 10 người mắc bệnh tả.  Nhưng chúng ta không thể nói rằng nguy cơ mắc bệnh là 50% (lấy 10 / 20) được, bởi vì chúng ta đã định trước bao nhiêu người mắc bệnh và bao nhiêu người không mắc bệnh. 

Vì không thể ước tính nguy cơ, cho nên chúng ta cũng không thể ước tính tỉ số nguy cơ R như trường hợp 1.  Ngoài ra, cần chú ý là ở đây trong trường hợp 2 chúng ta đi ngược thời gian, trong khi trong trường hợp 1 chúng ta đi xuôi theo thời gian.  Vì đi ngược thời gian nên thông tin thường bị nhiễu, và đó cũng chính là một trong những lí do tại sao nghiên cứu bệnh chứng có giá trị khoa học thấp.  (Xin chú ý rằng “nghiên cứu” mà ông Olive trả lời chúng tôi là nghiên cứu bệnh chứng.  Chúng tôi phải đặt trong ngoặc kép vì không thấy cái nghiên cứu đó ở đâu!)

Thay vào đó, chúng ta có thể ước tính odds.  Odds là một thuật ngữ hoàn toàn Anh, vì trong các ngôn ngữ Âu châu và Á châu không có từ nào tương đương với odds!  Bạn nào có cách dịch sáng tạo danh từ odds sang tiếng Việt, tôi rất cám ơn trước.  Trong bảng trên, chúng ta tính như sau:

  • Odds ăn thịt chó trong nhóm bệnh là:  O1 = 8/2 = 4
  • Odds ăn thịt chó trong nhóm chứng là: O2 = 4/6 = 0,67

Và lấy tỉ số của hai nhóm, chúng ta có tỉ số odds, viết tắt là OR (odds ratio):

OR = O1 / O2 = 4 / 0,67 = 6

Đây là một tỉ số rất phổ biến trong dịch tễ học.  Nhưng OR không phải là RR.  OR là tỉ số giữa hai odds, còn RR là tỉ số giữa hai nguy cơ.  Chúng ta không thể phát biểu rằng [như ông Olive] rằng ăn thịt chó tăng nguy cơ mắc bệnh tả gấp 6 lần, vì đơn vị ở đây không phải là nguy cơ mà là odds.

Do đó, với một nghiên cứu bệnh chứng, chúng ta không thể nói về nguy cơ được, mà phải nói về odds.  Tuy nhiên, nếu một số điều kiện và giả định được đáp ứng, chúng ta có thể diễn giải OR như là một ước số của RR.  Nhưng trong trường hợp này, OR luôn luôn ước tính cao hơn RR.  Đây là các điều kiện và giả định “kĩ thuật” mang tính toán học và dịch tễ học mà tôi không muốn bàn sâu ở đây.  (Có lẽ các chuyên gia giỏi (như ông Nguyễn Văn Dũng mô tả) trong Bộ Y tế hay Viện vệ sinh dịch tễ, hay Cục vệ sinh an toàn thực phẩm giỏi toán và dịch tễ học có thể trả lời chuyên sâu hơn.)

Nói tóm lại, cần phân biệt yếu tố nguy cơ và nguy cơ, cũng như cần cẩn thận trong việc diễn giải kết quả nghiên cứu.  Đôi khi kết quả của một nghiên cứu công phu tốn hàng tỉ đồng chỉ cho phép chúng ta phát biểu một câu văn!  Đôi khi chúng ta qua kinh nghiệm thực tế nghĩ rằng A chính là nguyên nhân của B, nhưng vì không có bằng chứng có hệ thống nên không thể phát biểu được.  Đó chính là lí do tại sao những người “biết chuyện” về y tế và y khoa phải khiêm tốn khi phát biểu.  Cả hai nghiên cứu (trường hợp 1 và trường hợp 2) đều không cho phép chúng ta phát biểu về mối liên hệ nhân quả.  Mối liên hệ giữa thịt chó và bệnh tả là một câu hỏi đơn giản nhưng câu trả lời sẽ không bao giờ đơn giản, nếu không muốn nói là sẽ chẳng bao giờ có được với kĩ thuật nghiên cứu như hiện nay.  


200 năm Darwin
Agent Orange: collateral damage
Alexandre Yersin và Việt Nam
Bàn về hiệu quả vắcxin: lâm sàng và kinh tế
Bàn về vấn đề dịch thuật và đánh giá năng suất khoa học
Béo phì ở người Á châu
Béo phì ở trẻ em và virus
Bình luận từ Dr. Yến
Bưởi không gây ung thư vú
Bảo hiểm y tế cộng đồng
Bảo tồn môi sinh: Chiến tranh giữa hai thế giới
Bằng chứng khoa học thay vì lên lớp
Bệnh tả: không để Việt Nam thành Bangladesh thứ hai
Bệnh tật nhìn từ quan điểm của thuyết tiến hóa
Bệnh xơ hóa cơ delta qua y văn thế giới
Bổ sung kẽm và điều trị bệnh tả
Bộ gen trong cây lúa và triển vọng
Bộ Y tế phản ứng chậm với rét đậm
Chiều cao của người Việt
Chiều cao và tổng thống Mĩ
Cholesterol và bệnh Tim
Cholesterol: hung thần hay bạn?
Chuột và... các nhà khoa học
Chính sách y tế cần dựa vào bằng chứng khoa học
Chạy đua vũ khí và … dịch cúm
Chất béo, cholesterol, bệnh tim và statins: xét lại bằng chứng
Chất keo xã hội: hormones
Chất lượng nghiên cứu dịch tễ học và y tế cộng đồng của Việt Nam qua chỉ số H
Chất lượng nghiên cứu khoa học ở Việt Nam qua chỉ số trích dẫn
Chất vấn chuẩn chẩn đoán béo phì
Chế độ ăn uống với nhiều thịt động vật và nguy cơ tử vong
Chủng vi khuẩn tả hiện nay ở nước ta có phải mới xuất hiện?
Cuộc chiến hóa học phi pháp lớn nhất trong lịch sử chiến tranh
Câu chuyện y học: Leptin và béo phì
Có bao nhiêu bác sĩ viết chữ khó đọc
Có nên tập trung vào vi khuẩn E. coli ?
Có thể xảy ra đại dịch cúm gia cầm?
Công cụ đơn giản để chẩn đoán tiểu đường ở người Đông Nam Á
Cúm gia cầm và nhiễu thông tin
Cúm H1N1: biết và chưa biết
Cơ hội để khép lại một chương lịch sử đau lòng
Cần hiểu đúng về Ung thư và nguy cơ ung thư
Cần qui ước đạo đức cho kĩ nghệ thực phẩm
Cần tiêm chủng ngừa bệnh tả vùng có nguy cơ cao
Cần điều tra về chất lượng bệnh viện
Cổ phần hóa bệnh viện công và chất lượng
Cổ phần hóa: chưa phải cách duy nhất
DDT và vấn đề cân đối giữa lợi ích và nguy hiểm
Dinh dưỡng: một nguồn thuốc quí giá
DNA không nói dối, nhưng DNA có thể nói … sai
Dịch cúm gà: hoang mang và sự thật khoa học
Dịch cúm heo và tác hại kinh tế
Dịch tay-chân-miệng
Dịch tả: gọi đúng tên để phòng ngừa
Dựa vào khoa học, đừng dựa vào niềm tin!
E. coli – vài câu hỏi thông thường
Gen và bệnh tật
Ghen tuông dưới cái nhìn của tâm lí y khoa
Gian lận trong nghiên cứu khoa học: áp lực kinh tế và cơ chế bình duyệt
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC: KHƠI DẬY VÀ NUÔI DƯỠNG TÍNH HAM HỌC
Giải nobel y học hay sinh lí học 2007 và lợi ích cho người bệnh
Giải Nobel Y sinh học 2008 và những tranh chấp khoa học
Giải Nobel y sinh học 2010 vinh danh người đem niềm vui cho người vô sinh
Giải Nobel y sinh học năm 2005: Một cõi đi về với vi khuẩn
Giải Nobel y sinh học: Nhìn lại quãng đường 100 năm
Giải phẫu ghép mặt và vấn đề y đức
Gout ở xương sống
Gãy xương và tử vong: một vấn nạn y tế cộng đồng
Hiệu quả vắcxin có nghĩa gì?
Hoa vàng mấy độc
Hàm lượng đạm trong sữa “siêu thấp” hay “siêu cao”?
Hóa chất khai hoang trong cuộc chiến Viện Nam: Qui mô và tầm ảnh hưởng
Hướng đi nào để giải quyết vấn đề chất độc da cam ở Việt Nam
Hậu “mắm tôm được minh oan”: bằng chứng khoa học, nhà xí và nghiên cứu
Hệ Thống Học Vị Và Học Hàm Khoa Học Ở Vài Nước Tây Phương
Hợp tác khoa học kiểu nhảy dù - Nguyễn Văn Tuấn
Khi bác sĩ trẻ “khoe” quá nhiều
Khoa học và ngụy khoa học: một vài đặc điểm và khác biệt cần biết
Khoa học, xã hội, và rủi ro
Không thể thành Phù Đổng trong 20 năm!
Khẩu trang và phòng chống cúm A/H1N1
Kiểm định giả thuyết mắm tôm và vi khuẩn tả
Liều lượng melamine bao nhiêu là an toàn?
Lí lịch sinh học của heo và dấu vết văn minh nông nghiệp Đông Nam Á
Lượng giá mạng sống con người
Lợi ích của vitamin D
Miệng nhà quan
Mắm tôm có phải là “thủ phạm” gây bệnh tả? Xét lại bằng chứng khoa học
Mắm tôm và chuyện xin lỗi
Mắm tôm và dịch tả: phân biệt yếu tố nguy cơ và nguyên nhân
Mắm tôm vô tội!
Mắm tôm, nguyên nhân và hệ quả
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Một bệnh hiếm X-linked recessive hypoparathyroidism
Một lần đi phỏng vấn
Một năm nhìn lại
Một phán quyết thiếu cơ sở khoa học
Một vài hiểu lầm tai hại
Một vài ngộ nhận về nghiên cứu khoa học
Một vài vấn đề về qui định chức danh giáo sư ở Việt Nam
Một vụ Madoff trong y khoa: Lại một ngôi sao y khoa rơi rụng!
Mỡ trắng, mỡ nâu
Mỡ  trong máu, huyết áp, và  tiểu đường
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nguyên nhân bệnh tiêu chảy
Ngó trên tay điếu thuốc đã lụi dần
Người cao tuổi và sự hạn chế của y khoa
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Nhân chuyện dịch tả nhớ lại John Snow
Nhân câu chuyện điện não đồ xét nghiệm nghiện ma túy:
Nhân năm khỉ_nguồn gốc con người hiện đại
Nhân năm Tý bàn chuyện thí nghiệm trên chuột
Nhìn lại khoa học Việt Nam năm 2008 qua công bố quốc tế
Nhầm lẫn trong y khoa: Khá phổ biến, nhưng ít ai biết!
Những câu hỏi và trả lời về dịch gia cầm
Những sai sót khó tin nhưng có thật
Những sai sót nguy hiểm trong toa thuốc
Những điều khó tin về “Bảy điều khó tin nhất trong y học”
Năm lí do cho mắm tôm “vô tội”
Phán quyết sau cùng: Chất béo không ảnh hưởng đến ung thư và bệnh tim
Phát hiện gien kiểm soát ráy tai: vài bài học về mò kim đáy biển
Phòng chống bệnh phải dựa vào bằng chứng khoa học!
Phòng chống H1N1 bằng rửa tay và khẩu trang: Biện pháp nào hiệu quả hơn?
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao và cân nặng: thiếu cơ sở khoa học và kì thị giới tính
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao: vấn đề giả định và bằng chứng khoa học
Quyền phê phán và trí thức
Quyền được tiếp cận hồ sơ bệnh án
Quản lý chất lượng: Thuốc phòng "tai nạn y khoa"
Rửa tay bằng xà phòng và tiêu chảy
Serotonin có liên quan đến chứng đột tử
Suy dinh dưỡng ở trẻ em: vấn đề của kinh tế
Sàng lọc trẻ sơ sinh trên phạm vi toàn quốc
Tai nạn y khoa trong bệnh viện
Thế nào là một "bài báo khoa học"
Thế nào là “Cơ sở khoa học” ?
Thịt chó là nguyên nhân của bệnh tiêu chảy cấp tính?
Thịt chó và bệnh tả: nguyên nhân và yếu tố nguy cơ
Tiên lượng bệnh Alzheimer bằng protein expression ?
Tiêu chuẩn chất lượng giáo dục đại học
Tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì cho người Việt - Nguyễn Văn Tuấn
Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh đái tháo đường (diabetes mellitus)
Tiêu chuẩn đề bạt giáo sư: Có nên căn cứ vào số lượng bài báo ?
Tiêu chảy cấp tính và bệnh tả: Định danh cho đúng
Truy tìm ung thư bằng mammography từ tuổi 50
Truyền thông và khoa học: Qui ước Ingelfinger
Truyền thông và y tế
Truyền thông, khoa học và … doanh nghiệp
Trà xanh và sức khỏe
Trách nhiệm và nhân đạo trong vấn đề chất độc da cam
Trái chanh và phòng chống bệnh tả
Trả lời những câu hỏi liên quan đến loãng xương
Trọng lượng cơ thể và tử vong ở người Trung Quốc: Ý nghĩa về việc xác định tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì
Tuổi thọ của người dân giảm 10 năm ?
Tác dụng Placebo trong y học: Tâm lí và ý nghĩa
Tình yêu, sắc đẹp nhìn dưới quan điểm di truyền học
Tín hiệu môi trường từ những “làng ung thư”
Tính khoa học và minh bạch đằng sau xét nghiệm doping
Tại sao không phát biểu về nguyên nhân và hệ quả ?
Tại sao uống rượu gây đỏ mặt và nguy cơ ung thư thực quản
Tạo sinh vô tính và cái chết của Thượng đế
Tạo sinh vô tính và vấn đề sinh đạo đức
Tản mạn về SARS
Tỉ lệ tử vong do cúm heo là bao nhiêu ?
Tự trị, chất lượng và y đức thay vì cổ phần hóa bệnh viện công
Ung thư vú và vấn đề thông tin y khoa
Uống bia hấp dẫn muỗi
Vaccine phòng chống AIDS hiệu quả đến đâu ?
Vaccine phòng chống cúm A/H1N1
Vi khuẩn gây tiêu chảy và ý nghĩa tiêm chủng
Vi khuẩn tả trong chó ?
Viết văn có thể chữa nhiều loại bệnh
Viết văn và trị liệu
Việc ta, ta cứ làm!
Vài nhận xét về 12 điều lệ y đức của Việt Nam
Vài thông tin cần biết về các chương trình truy tìm ung thư vú
Vài đóng góp quan trọng của người Việt khoa học thống kê
Văn hóa khoa học
Văn hóa tranh luận và vấn đề ngụy biện
Vấn đề sinh tố: kẽm và đồng
Vấn đề truy tìm ung thư phổi và hiệu quả 
Vấn đề y đức trong nghiên cứu tế bào mầm (stem cells)
Vấn đề đo lường melamine
Vấn đề đào tạo tiến sĩ: kinh nghiệm từ Australia
Vắc-xin phòng chống ung thư cổ tử cung
Vắcxin ngừa viêm gan B: cẩn thận với “nhiễu thông tin”
Vắcxin ngừa viêm gan B: kinh nghiệm từ nước ngoài
Vắcxin phòng bệnh sởi - quai bị - Rubella: lợi và hại
Vắcxin phòng chống ung thư cổ tử cung: hiệu quả lâm sàng và kinh tế
Vắcxin phòng ngừa bệnh tả: rất cần thiết
Về chấn chỉnh đào tạo tiến sĩ: Công bố bài báo khoa học là một thách thức lớn ?
Về học vị tiến sĩ
Về một sự hiểu lầm thuật ngữ "prospective"
Về phản ứng phụ của bisphosphonates liên quan đến hoại tử xương hàm và rung nhĩ
Vệ sinh như là một loại hàng hóa
Vị thế của nền khoa học Việt Nam
Xung quang xì căng đan về nghiên cứu tế bào mầm
Xã hội hóa và an toàn thực phẩm
Xếp hạng đại học: cần minh bạch hóa phương pháp
Y học hiện đại và những hứa hẹn
Y học thực chứng: vài nét khái quát
Y Khoa và những nhầm lẫn chết người
Y tế dự phòng: nền tảng của y khoa hiện đại
Y đức và nghiên cứu y học
Ói mửa, cao huyết áp và hôn mê
Ăn chay như là một trị liệu
Ăn chay và loãng xương
Điều trị bệnh dựa vào màu da ?
Điều trị đau dây thần kinh tọa bằng phẫu thuật: không có hiệu quả
Đo lường hiệu suất khoa học
Đánh giá đúng tầm quan trọng của ung thư vú 
Đại dịch H1N1
Đại dịch và đại dịch ảo
Đại dịch đã đến ?
Đạo văn trong hoạt động khoa học
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đằng sau những con số hàm lượng đạm trong sữa
Đế quốc Trà
Đề bạt các chức danh khoa bảng: vài kinh nghiệm từ Úc
Đọc lại 12 điều y đức của Việt Nam
Đồi điều về sữa nhiễm melamine
Đừng quên melamine trong các thực phẩm khác!
Ước vọng 200 ?
“Kỹ năng mềm” cho nhà khoa học
“Sẽ” và “có thể”


Trang nhiều tác giả
Trang riêng của Lê Ngọc Dũng
Trang riêng của Lương Lễ Hoàng
Trang riêng của Nguyễn Bảo Trung
Trang riêng của Nguyễn Hoài Nam
Trang riêng của Nguyễn Hữu Đức
Trang riêng của Nguyễn Văn Tuấn
Trang riêng của Nguyễn Ý Đức
Trang riêng của Nguyễn Đình Nguyên
Trang riêng của Phan Xuân Trung
Trang riêng của Đỗ Hồng Ngọc
Trang riêng của Đỗ Minh Tuấn