NGUYỄN VĂN TUẤN

Ước vọng 200 ?

Nguyễn Văn Tuấn

Tôi gọi ý định đến năm 2020 đưa một đại học Việt Nam nằm trong danh sách top 200 trên thế giới mà ngành giáo dục nước ta nói đến là “Ước vọng 200”.  Ước vọng là vì mục tiêu này thiếu tính thực tế.  Nhưng quan trọng hơn là phấn đấu để có trong danh sách top 200 của ai?  Thật ra, chẳng có danh sách nào và chẳng có tiêu chí nào trong các danh sách đó được xem là mang tính khoa học và hợp lí.  Do đó, không cần và không nên chạy theo những mục tiêu mơ hồ như thế; thay vào đó, nên tập trung đầu tư vào những việc thực tế hơn để nâng cao tiêu chuẩn đào tạo ở trình độ quốc tế, sao cho sinh viên khi tốt nghiệp có thể hội nhập với cộng đồng quốc tế dễ dàng.

Ước vọng thiếu thực tế

Không phải chỉ riêng nước ta có ước vọng 200, mà ngay tại Úc, một số đại học cũng từng có ước vọng này, nhưng nay thì họ đang xét lại mục tiêu đó có xứng đáng để tập trung tài lực hay không.  Trong bối cảnh hiện nay ở nước ta, bất cứ ai có quan tâm đến giáo dục đại học nước nhà đều có thể nói rằng ước vọng 200 vẫn chỉ là ước mơ và nguyện vọng vì nó rất khó thành hiện thực. 

Có nhiều nhóm truyền thông đứng ra lập những danh sách “top 200” và “top 500” cho các trường đại học trên thế giới nhằm mục tiêu hướng dẫn “khách hàng” và sinh viên.  Trong số này phải kể đến nhóm Phụ trang giáo dục đại học của tờ Thời báo (THES – Times Higher Education Supplement) và nhóm thuộc Đại học Giao thông Thượng Hải (GTTH) được nhiều người biết đến từ 2003.  Hai nhóm này sử dụng những tiêu chí khác nhau để đánh giá và xếp hạng đại học.  Các tiêu chí mà THES sử dụng là: đánh giá của giới khoa bảng từ các trường khác ; số sinh viên tốt nghiệp làm việc trong các công ti toàn cầu ; phần trăm giáo sư là người nước ngoài ; phần trăm sinh viên là người nước ngoài ; tỉ số sinh viên / giáo sư ; và số lần trích dẫn tính trên đầu mỗi giáo sư.  Nhóm GTTH dựa vào một số tiêu chí chính như số nhà khoa học đoạt giải Nobel và giải Fields; số nhà khoa học có công trình được trích dẫn nhiều; số bài báo nguyên thủy trên các tập san ScienceNature; tổng số bài báo công bố trên các tập san quốc tế.

Trong những tiêu chí trên, chúng ta thấy tiêu chí quan trọng nhất của một đại học top 200 hay “đẳng cấp quốc tế” là nghiên cứu khoa học.  Một thước đo chính về nghiên cứu khoa học là số lượng và chất lượng bài báo khoa học được công bố trên các tập san quốc tế.  Tính đến tháng 10 năm 2008, các nhà khoa học Việt Nam công bố được 910 bài báo khoa học.  Con số này chỉ bằng 1/3 của Thái Lan và 1/5 của Singapore.  Tôi ước tính rằng nếu sự tăng trưởng như hiện nay được duy trì, thì đến năm 2020, con số bài báo khoa học của Việt Nam còn thấp hơn con số của Thái Lan hay chỉ bằng 1/3 của Singapore năm 2008.  Cả Thái Lan và Singapore chưa có đại học nào được xem là đẳng cấp quốc tế. 

Thật ra, có đến 60% những công trình khoa học Việt Nam được công bố trên các tập san quốc tế là do hợp tác hay làm việc chung với các nhà khoa học ngoại quốc.  Nói cách khác, chỉ có khoảng 40% công trình nghiên cứu là “thuần Việt”, tức do các nhà khoa học Việt Nam chủ trì và thực hiện.  Do đó, trong thực tế, thực lực khoa học nước ta còn rất thấp, chưa đủ để cạnh tranh trên trường quốc tế.

Đó là số lượng, còn chất lượng thì vẫn còn quá thấp.  Đại đa số những nghiên cứu khoa học của Việt Nam chỉ công bố trên những tập san có hệ số ảnh hưởng rất thấp.  Ở bất cứ lĩnh vực khoa học nào, chỉ số trích dẫn của các nghiên cứu Việt Nam thuộc vào hàng thấp nhất.  Nhiều công trình nghiên cứu thuộc lĩnh vực "mạnh" của Việt Nam có số lần trích dẫn không cao và có thể chẳng có ảnh hưởng gì lớn trên thế giới.  Khoảng 20 đến 30% các bài báo về toán và vật lí Việt Nam chưa bao giờ được ai trích dẫn.  Tỉ lệ không trích dẫn này trong ngành kĩ thuật lên đến 41% !  Nói cách khác, có nhiều nghiên cứu từ Việt Nam chẳng ai quan tâm.

Chúng ta chưa có nhà khoa học nào được trao giải Nobel hay giải Fields. Chúng ta chưa có những công trình khoa học thuần Việt trên các tập san khoa học hàng đầu như Nature, Cell, Science, v.v… Chúng ta chưa có những nhà khoa học có trích dẫn cao (highly cited researchers).  Nói tóm lại, trong bất cứ tiêu chí nào, khoa học Việt Nam nói chung và trường đại học Việt Nam nói riêng xuất phát từ một vị thế rất bất lợi để phấn đấu vào danh sách "Top 200". 

Do đó, những ai qun tâm đến giáo dục đại học đều biết rằng ước vọng 200 khó thành hiện thực, chứ không không phải đợi đến một nhà khoa học giáo dục người Úc lịch sự nói “Việt Nam chưa sẵn sàng cạnh tranh được một cách nghiêm túc trên cơ sở công bố công trình và khối lượng được trích dẫn" và “Tóm lại con đường dẫn đến bảng xếp hạng 200 trường ĐH hàng đầu do Trường ĐH Giao thông Thượng Hải công bố đối với ĐH Quốc gia Hà Nội hay một trường ĐH nào khác của VN là một con đường dài và việc đạt được nó vào năm 2020 là nằm ngoài khả năng hiện thực.”  (Tuổi Trẻ, 14/11/2008).

Những tiêu chí thiếu tính khoa học

Như nói trên, có nhiều nhóm lập ra những danh sách top 200, nhưng chẳng có danh sách nào, kể cả danh sách của GTTH, được xem là có cơ sở khoa học vững vàng cả; đó chỉ là những danh sách phục vụ cho mục tiêu thương mại, chứ không phải khoa học.

Xin lấy các tiêu chí của GTTH để phân tích.  Thứ nhất là đếm số nhà khoa học chiếm giải Nobel hay giải Fields, tuy phản ảnh một phần nào về chất lượng nghiên cứu khoa học của trường, nhưng trong thực tế thì không hẳn như thế, bởi vì nhiều nhà khoa học đang tại chức tại một đại học từng chiếm giải Nobel nhờ các công trình nghiên cứu thực hiện ở trường khác.  Trong số 22 nhà khoa học chiếm giải Nobel y học 1997-2006, có đến 15 người là nhờ công trình nghiên cứu từ trường khác trước khi tham gia trường hiện tại.  Do đó, tiêu chí này phản ảnh khả năng thu hút nhân tài, chứ không hẳn phản ảnh chất lượng nghiên cứu khoa học.

Thứ hai là số nhà khoa học có nhiều trích dẫn tuy trên lí thuyết thì có vẻ phản ảnh chất lượng khoa học, nhưng trong thực tế thì không đơn giản như nhóm GTTH làm.  Lí do đơn giản là chỉ số trích dẫn tùy thuộc vào cơ sở dữ liệu sử dụng.  Ngoài ra, còn có vấn đề tác giả.  Chẳng hạn như một bài báo với 1 tác giả được trích dẫn 100 lần và một bài báo với 865 tác giả (và nhà khoa học đứng tên tác giả số 342) cũng được trích dẫn 100 lần không thể xem tương đương, nhưng cách làm của GTTH thì lại xem là tương đương!  Thêm vào đó là chỉ số trích dẫn thường tính cho 2 thập niên trước, như vậy không phản ảnh chất lượng hiện tại.  Trong số 10 tác giả có chỉ số trích dẫn cao trong thời gian 1996-1999, 5 người đã chuyển chỗ làm hay qua đời. 

Thứ ba là số bài báo trên tập san ScienceNature không hẳn phản ảnh chất lượng nghiên cứu khoa học, bởi vì trong thực tế có nhiều tập san khác có hệ số ảnh hưởng (impact factor) cao hơn ScienceNature rất nhiều.  Nên nhớ rằng trong số những bài báo được trích dẫn nhiều, chỉ có 22% được công bố trên hai tập san này.  Do đó, tính hợp lí (validity) của số bài báo trên ScienceNature có vấn đề nghiêm trọng.

Thứ tư là số lượng bài báo trên các tập san cũng tùy thuộc vào cơ sở dữ liệu sử dụng.  Số lượng bài báo chắc chắn không nói lên ảnh hưởng của các bài báo này.  Đó là chưa tính đến tình trạng “salami publication” (kiểu cắt nem chua ra từng miếng nhỏ), tức là công bố nhiều bài báo để nâng số lượng mà chẳng quan tâm đến chất lượng. 

Nói tóm lại, không có một tiêu chí nào có tính hợp lí cao, và cũng chẳng có một cách làm nào của GTTH và THES được xem là mang tính khoa học.  Đó là sự thật.  Chính vì thế mà hai danh sách này không nhất quán với nhau.  Một số trường xuất hiện trên danh sách top 200 của THES thì lại vắng mặt trong danh sách của GTTH (và ngược lại).  Theo xếp hạng năm 2006, 4 trong số 50 trường hàng đầu của GTTH không nằm trong top 500 của THES.  Có thể xem qua danh sách trong bảng sau để thấy sự bất hợp lí của cách xếp hạng.

Một số đại học trong danh sách top 70 của GTTH nhưng không có trong top 500 của THES

Một số đại học trong danh sách top 70 của GTTH nhưng không có trong top 500 của THES

·         University of California, San Francisco (GTTH hạng 18)

·         ĐH Rockefeller (GTTH hạng 30)

·         ĐH Paris 6 (GTTH hạng 45)

·         Viện Karolinska (GTTH hạng 48)

 

·         Fondation des Scienes Politique (THES hạng 52)

·         Ecole Polytech fed Lausanne (THES hạng 64)

·         Indian Institutes of Management (THES hạng 68)

·         School of Oritental and African Studies (THES hạng 70)

 

Biểu đồ sau đây cho thấy chẳng có mối tương quan nào giữa xếp hạng của THES và GTTH.  Một số trường trong danh sách top 50 của GTTH thậm chí không nằm trong danh sách top 500 của THES.  Tính tổng cộng, chỉ có 133 trường nằm trong cả hai danh sách!  Phân tích này một lần nữa cho thấy cách xếp hạng của cả hai nhóm không đáng tin cậy.

Biểu đồ về mối tương quan giữa xếp hạng top 500 của THES (trục hoành) và xếp hạng top 500 của Đại học GTTH (trục tung).  Nguồn: Ioannidis JAP, et al. BMC Medicine 2007;5:30.

Chính vì tính phi khoa học này nên trong thực tế đã xảy ra chuyện khôi hài.  Năm 2004, Đại học Malaya (một đại học lâu đời nhất của Mã Lai) được THES xếp hạng 89.  Trước “tin vui” này, hiệu trưởng trường ra chỉ thị treo biển to tướng ở cổng trường với hàng chữ “University of Malaya a world’s top 100 university”.  Nhưng chỉ một năm sau, khi THES xếp hạng lại thì Đại học Malaya tụt xuống hạng 169, dù trong thời gian ngắn đó đại học này chẳng có thay đổi gì về nghiên cứu khoa học hay nhân sự!  Hệ quả là sau đó vị hiệu trưởng này mất chức.

Chính vì những bất cập và phi khoa học này mà có tác giả đã nghiêm khắc cảnh báo rằng cách xếp hạng hiện nay có thể gây tác hại cho khoa học và giáo dục.

Có cần xem trọng danh sách top 200 ?

Nhưng một câu hỏi nghiêm túc cần đặt ra là chúng ta có cần tập trung công sức tài lực để chỉ có tên trong danh sách top 200?  Theo tôi thì không, chúng ta không cần phải có tên trong danh sách đó.  Chúng ta không cần quá bận tâm với những danh sách đó, vì như tôi trình bày trên, chẳng có danh sách nào mang tính khoa học và đáng tin cậy.

Thế thì chúng ta cần tập trung vào vấn đề gì ?  Giáo dục đại học bao gồm việc giảng dạy, nghiên cứu khoa học và học tập.  Có thể xem ba khía cạnh đó của giáo dục đại học là một hệ thống đặc trưng bởi ba khía cạnh trên.  Vì là hệ thống nên phải có đầu vào (input), qui trình (process), và đầu ra (output).  Do đó, chất lượng giáo dục đại học là tập hợp một số nguyên tố liên quan đến đầu vào, qui trình đào tạo, và đầu ra. Chúng ta nên tập trung để nâng cao tiêu chuẩn cho ba khía cạnh trên. 

Đầu vào là những tiêu chuẩn liên quan đến sinh viên được nhận vào học tại trường đại học.  Hiện nay chúng ta có quá nhiều đại học nhưng chất lượng đầu vào là một câu hỏi lớn. Một số nghiên cứu cho thấy số điểm trung bình của thí sinh được nhận vào đại học có tương quan đến số điểm tốt nghiệp: sinh viên với số điểm cao lúc nhập học đại học thường là những sinh viên có xác suất tốt nghiệp đại học cao.  Nếu xem điểm thi tốt nghiệp hay điểm tuyển sinh đại học phản ảnh trình độ của học sinh, thì trường có nhiều học sinh giỏi cũng có nghĩa là môi trường học tập được nâng cao, và qua đó tác động tích cực đến chất lượng giáo dục của trường. 

Qui trình ở đây bao gồm các tiêu chuẩn liên quan đến người thầy, giảng dạy, cơ sở vật chất cho học tập, nghiên cứu khoa học, và cơ sở hạ tầng cũng như dịch vụ dành cho giảng dạy và nghiên cứu khoa học.  Giáo dục đại học bao gồm giảng dạy và nghiên cứu khoa học.  Có thể nói chung rằng "sức khỏe tài chính" của một trường được phản ảnh qua sự tài trợ hay thu hút tài trợ từ Nhà nước và các nguồn tư nhân.  Nhưng sử dụng tài chính vì lợi ích của sinh viên cần được quan tâm đặc biệt; vì thế, các tiêu chuẩn như chi tiêu, dịch vụ, cơ vật chất, v.v… 

Ở bậc đại học, người thầy (hay cô) không chỉ đơn giản là một người giảng bài, mà còn là một chuyên gia về một lĩnh vực chuyên môn (khác với bậc trung học, người thầy không phải là một chuyên gia).  Để truyền đạt hữu hiệu đến sinh viên, ngoài những kĩ năng sư phạm, người thầy cần phải có kiến thức về chuyên ngành để có thể khai triển những lí thuyết và ý tưởng từ nội dung của giáo trình.  Những kiến thức này có thể tiếp thu qua nghiên cứu khoa học.  Nhưng “hộ chiếu” để làm nghiên cứu khoa học là học vị tiến sĩ.  Do đó, không ngạc nhiên khi thấy các trường đại học Tây phương xem văn bằng tiến sĩ như là một tiêu chuẩn tối thiểu để được bổ nhiệm làm giảng viên hay giáo sư đại học.  Một phần lớn các chỉ tiêu về chất lượng giáo dục đại học xoay quanh trình độ của người thầy và nghiên cứu khoa học.

Sản phẩm chính của nghiên cứu khoa học là những bài báo khoa học công bố trên các tập san quốc tế.  Những bài bào hay công trình có chất lượng cao thường được công bố trên các tập san có chỉ số ảnh hưởng (impact factor) cao, hoặc có số lần trích dẫn (citations) cao.  Do đó, một tiêu chuẩn được đa số chuyên gia chấp nhận là chuẩn mực để đánh giá chất lượng nghiên cứu khoa học là số bài báo khoa học được công bố trên các tập san quốc tế tính trên mỗi GV/GS và số lần trích dẫn các bài báo khoa học từ trường trong vòng 2 năm qua tính trên mỗi GV/GS.  Ngoài ra, một số tiêu chuẩn khác cũng phản ảnh uy tín của trường là số bằng sáng chế (patent) đã được công nhận và đăng kí với một cơ quan bản quyền quốc tế, số giáo sư và sinh viên nước ngoài theo học tại trường, và số bằng khen hay số lần các giáo sư được mời làm chủ tọa các hội nghị quốc tế.

Nhưng nghiên cứu khoa học đòi hỏi cơ sở vật chất, và đặc biệt là thông tin (thư viện) và các thiết bị để sử dụng, kể cả công nghệ thông tin.  Một đại học có chất lượng tối thiểu cũng phải có đủ không gian (kể cả bàn, ghế) cho giảng dạy, có phòng labo với thiết bị đầy đủ cho thí nghiệm và thực tập, có hệ thống hỗ trợ bằng công nghệ thông tin để giảng viên và học sinh có thể truy cập internet miễn phí, và nhất là hệ thống thư viện.  Có thể nói không ngoa rằng thư viện và công nghệ thông tin là bộ mặt của một trường đại học.  Cho dù một đại học có 100% giảng viên với trình độ tiến sĩ, mà không có thư viện tốt hay thiết bị công nghệ thông tin dồi dào thì cũng trường đại học không thể nào làm nghiên cứu khoa học tốt, không thể nào giảng dạy tốt được.  Đề cập đến chất lượng giáo dục đại học nhất định phải đề cập đến các chỉ tiêu quan trọng về đầu tư cho thư viện và công nghệ thông tin.

Đầu ra là những tiêu chuẩn phản ảnh tình trạng của sinh viên sau khi tốt nghiệp.  Giáo dục bậc cao có bốn chức năng chính:  một là đáp ứng nhu cầu và nguyện vọng của cá nhân về tri thức, để họ có thể tự khai thác tiềm năng của mình và cống hiến lại cho xã hội; hai là cung cấp cho xã hội một lực lượng lao động có trình độ chuyên môn cao, cần thiết cho sự tăng trưởng và giàu mạnh của một nền kinh tế hiện đại; ba là khai hóa xã hội, hướng dẫn dư luận, góp ý về đường lối và chính sách của nhà nước; và bốn là thu thập hay sáng tạo ra kiến thức qua nghiên cứu và chuyển giao những kiến thức này đến xã hội.  vì thế, “sản phẩm” chính của giáo dục đại học là sinh viên tốt nghiệp với trình độ chuyên môn cao.  Đây cũng là những tiêu chuẩn khó định lượng chính xác, vì các chuyên gia vẫn chưa nhất trí cách đánh giá.  Tuy nhiên, người ta ghi nhận rằng danh tiếng (phản ảnh gián tiếp chất lượng giáo dục) của một trường đại học thường gắn liền sự sự thành đạt của sinh viết nghiệp từ trường đó.  Các đại học như Harvard, Yale, Princeton, v.v… sở dĩ có tiếng trên thế giới là vì những sinh viên tốt nghiệp từ các trường này thường giữ những chức vụ quan trọng trong guồng máy kinh tế hay Nhà nước.  Do đó, các tiêu chuẩn trong phần “đầu ra” cụ thể là tỉ lệ sinh viên tốt nghiệp, có việc làm, sự hài lòng của doanh nghiệp hay cơ quan tuyển dụng, sinh viên quay lại theo học tiếp cấp thạc sĩ hay tiến sĩ, v.v…

Do đó, theo tôi, thay vì chạy theo một mục tiêu mơ hồ mang tính truyền thông như có trong danh sách top 200 hay top 500 như ngành giáo dục đề ra, chúng ta cần và nên phát triển những tiêu chuẩn chất lượng giáo dục đại học, nâng cao chất lượng đầu vào, qui trình đào tạo, và đầu ra.  Mục tiêu hàng đầu và thật sự của đại học là đào tạo những chuyên gia có kiến thức và kĩ năng đóng góp vào phát triển kinh tế và hội nhập khoa học quốc tế, chứ không phải có tên trong danh sách top 200. Do đó, cần nên tập trung sức lực vào những việc thực tế hơn để dần dần nâng cao tiêu chuẩn đào tạo ở trình độ quốc tế, sao cho sinh viên khi tốt nghiệp có thể hội nhập với cộng đồng quốc tế dễ dàng (chứ không phải như hiện nay chúng ta bị xem thường). Một khi tiêu chuẩn đã đạt chuẩn quốc tế thì mục tiêu top 200 hay top 500 không còn là vấn đề nữa.

 

 


200 năm Darwin
Agent Orange: collateral damage
Alexandre Yersin và Việt Nam
Bàn về hiệu quả vắcxin: lâm sàng và kinh tế
Bàn về vấn đề dịch thuật và đánh giá năng suất khoa học
Béo phì ở người Á châu
Béo phì ở trẻ em và virus
Bình luận từ Dr. Yến
Bưởi không gây ung thư vú
Bảo hiểm y tế cộng đồng
Bảo tồn môi sinh: Chiến tranh giữa hai thế giới
Bằng chứng khoa học thay vì lên lớp
Bệnh tả: không để Việt Nam thành Bangladesh thứ hai
Bệnh tật nhìn từ quan điểm của thuyết tiến hóa
Bệnh xơ hóa cơ delta qua y văn thế giới
Bổ sung kẽm và điều trị bệnh tả
Bộ gen trong cây lúa và triển vọng
Bộ Y tế phản ứng chậm với rét đậm
Chiều cao của người Việt
Chiều cao và tổng thống Mĩ
Cholesterol và bệnh Tim
Cholesterol: hung thần hay bạn?
Chuột và... các nhà khoa học
Chính sách y tế cần dựa vào bằng chứng khoa học
Chạy đua vũ khí và … dịch cúm
Chất béo, cholesterol, bệnh tim và statins: xét lại bằng chứng
Chất keo xã hội: hormones
Chất lượng nghiên cứu dịch tễ học và y tế cộng đồng của Việt Nam qua chỉ số H
Chất lượng nghiên cứu khoa học ở Việt Nam qua chỉ số trích dẫn
Chất vấn chuẩn chẩn đoán béo phì
Chế độ ăn uống với nhiều thịt động vật và nguy cơ tử vong
Chủng vi khuẩn tả hiện nay ở nước ta có phải mới xuất hiện?
Cuộc chiến hóa học phi pháp lớn nhất trong lịch sử chiến tranh
Câu chuyện y học: Leptin và béo phì
Có bao nhiêu bác sĩ viết chữ khó đọc
Có nên tập trung vào vi khuẩn E. coli ?
Có thể xảy ra đại dịch cúm gia cầm?
Công cụ đơn giản để chẩn đoán tiểu đường ở người Đông Nam Á
Cúm gia cầm và nhiễu thông tin
Cúm H1N1: biết và chưa biết
Cơ hội để khép lại một chương lịch sử đau lòng
Cần hiểu đúng về Ung thư và nguy cơ ung thư
Cần qui ước đạo đức cho kĩ nghệ thực phẩm
Cần tiêm chủng ngừa bệnh tả vùng có nguy cơ cao
Cần điều tra về chất lượng bệnh viện
Cổ phần hóa bệnh viện công và chất lượng
Cổ phần hóa: chưa phải cách duy nhất
DDT và vấn đề cân đối giữa lợi ích và nguy hiểm
Dinh dưỡng: một nguồn thuốc quí giá
DNA không nói dối, nhưng DNA có thể nói … sai
Dịch cúm gà: hoang mang và sự thật khoa học
Dịch cúm heo và tác hại kinh tế
Dịch tay-chân-miệng
Dịch tả: gọi đúng tên để phòng ngừa
Dựa vào khoa học, đừng dựa vào niềm tin!
E. coli – vài câu hỏi thông thường
Gen và bệnh tật
Ghen tuông dưới cái nhìn của tâm lí y khoa
Gian lận trong nghiên cứu khoa học: áp lực kinh tế và cơ chế bình duyệt
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC: KHƠI DẬY VÀ NUÔI DƯỠNG TÍNH HAM HỌC
Giải nobel y học hay sinh lí học 2007 và lợi ích cho người bệnh
Giải Nobel Y sinh học 2008 và những tranh chấp khoa học
Giải Nobel y sinh học 2010 vinh danh người đem niềm vui cho người vô sinh
Giải Nobel y sinh học năm 2005: Một cõi đi về với vi khuẩn
Giải Nobel y sinh học: Nhìn lại quãng đường 100 năm
Giải phẫu ghép mặt và vấn đề y đức
Gout ở xương sống
Gãy xương và tử vong: một vấn nạn y tế cộng đồng
Hiệu quả vắcxin có nghĩa gì?
Hoa vàng mấy độc
Hàm lượng đạm trong sữa “siêu thấp” hay “siêu cao”?
Hóa chất khai hoang trong cuộc chiến Viện Nam: Qui mô và tầm ảnh hưởng
Hướng đi nào để giải quyết vấn đề chất độc da cam ở Việt Nam
Hậu “mắm tôm được minh oan”: bằng chứng khoa học, nhà xí và nghiên cứu
Hệ Thống Học Vị Và Học Hàm Khoa Học Ở Vài Nước Tây Phương
Hợp tác khoa học kiểu nhảy dù - Nguyễn Văn Tuấn
Khi bác sĩ trẻ “khoe” quá nhiều
Khoa học và ngụy khoa học: một vài đặc điểm và khác biệt cần biết
Khoa học, xã hội, và rủi ro
Không thể thành Phù Đổng trong 20 năm!
Khẩu trang và phòng chống cúm A/H1N1
Kiểm định giả thuyết mắm tôm và vi khuẩn tả
Liều lượng melamine bao nhiêu là an toàn?
Lí lịch sinh học của heo và dấu vết văn minh nông nghiệp Đông Nam Á
Lượng giá mạng sống con người
Lợi ích của vitamin D
Miệng nhà quan
Mắm tôm có phải là “thủ phạm” gây bệnh tả? Xét lại bằng chứng khoa học
Mắm tôm và chuyện xin lỗi
Mắm tôm và dịch tả: phân biệt yếu tố nguy cơ và nguyên nhân
Mắm tôm vô tội!
Mắm tôm, nguyên nhân và hệ quả
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Một bệnh hiếm X-linked recessive hypoparathyroidism
Một lần đi phỏng vấn
Một năm nhìn lại
Một phán quyết thiếu cơ sở khoa học
Một vài hiểu lầm tai hại
Một vài ngộ nhận về nghiên cứu khoa học
Một vài vấn đề về qui định chức danh giáo sư ở Việt Nam
Một vụ Madoff trong y khoa: Lại một ngôi sao y khoa rơi rụng!
Mỡ trắng, mỡ nâu
Mỡ  trong máu, huyết áp, và  tiểu đường
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nguyên nhân bệnh tiêu chảy
Ngó trên tay điếu thuốc đã lụi dần
Người cao tuổi và sự hạn chế của y khoa
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Nhân chuyện dịch tả nhớ lại John Snow
Nhân câu chuyện điện não đồ xét nghiệm nghiện ma túy:
Nhân năm khỉ_nguồn gốc con người hiện đại
Nhân năm Tý bàn chuyện thí nghiệm trên chuột
Nhìn lại khoa học Việt Nam năm 2008 qua công bố quốc tế
Nhầm lẫn trong y khoa: Khá phổ biến, nhưng ít ai biết!
Những câu hỏi và trả lời về dịch gia cầm
Những sai sót khó tin nhưng có thật
Những sai sót nguy hiểm trong toa thuốc
Những điều khó tin về “Bảy điều khó tin nhất trong y học”
Năm lí do cho mắm tôm “vô tội”
Phán quyết sau cùng: Chất béo không ảnh hưởng đến ung thư và bệnh tim
Phát hiện gien kiểm soát ráy tai: vài bài học về mò kim đáy biển
Phòng chống bệnh phải dựa vào bằng chứng khoa học!
Phòng chống H1N1 bằng rửa tay và khẩu trang: Biện pháp nào hiệu quả hơn?
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao và cân nặng: thiếu cơ sở khoa học và kì thị giới tính
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao: vấn đề giả định và bằng chứng khoa học
Quyền phê phán và trí thức
Quyền được tiếp cận hồ sơ bệnh án
Quản lý chất lượng: Thuốc phòng "tai nạn y khoa"
Rửa tay bằng xà phòng và tiêu chảy
Serotonin có liên quan đến chứng đột tử
Suy dinh dưỡng ở trẻ em: vấn đề của kinh tế
Sàng lọc trẻ sơ sinh trên phạm vi toàn quốc
Tai nạn y khoa trong bệnh viện
Thế nào là một "bài báo khoa học"
Thế nào là “Cơ sở khoa học” ?
Thịt chó là nguyên nhân của bệnh tiêu chảy cấp tính?
Thịt chó và bệnh tả: nguyên nhân và yếu tố nguy cơ
Tiên lượng bệnh Alzheimer bằng protein expression ?
Tiêu chuẩn chất lượng giáo dục đại học
Tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì cho người Việt - Nguyễn Văn Tuấn
Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh đái tháo đường (diabetes mellitus)
Tiêu chuẩn đề bạt giáo sư: Có nên căn cứ vào số lượng bài báo ?
Tiêu chảy cấp tính và bệnh tả: Định danh cho đúng
Truy tìm ung thư bằng mammography từ tuổi 50
Truyền thông và khoa học: Qui ước Ingelfinger
Truyền thông và y tế
Truyền thông, khoa học và … doanh nghiệp
Trà xanh và sức khỏe
Trách nhiệm và nhân đạo trong vấn đề chất độc da cam
Trái chanh và phòng chống bệnh tả
Trả lời những câu hỏi liên quan đến loãng xương
Trọng lượng cơ thể và tử vong ở người Trung Quốc: Ý nghĩa về việc xác định tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì
Tuổi thọ của người dân giảm 10 năm ?
Tác dụng Placebo trong y học: Tâm lí và ý nghĩa
Tình yêu, sắc đẹp nhìn dưới quan điểm di truyền học
Tín hiệu môi trường từ những “làng ung thư”
Tính khoa học và minh bạch đằng sau xét nghiệm doping
Tại sao không phát biểu về nguyên nhân và hệ quả ?
Tại sao uống rượu gây đỏ mặt và nguy cơ ung thư thực quản
Tạo sinh vô tính và cái chết của Thượng đế
Tạo sinh vô tính và vấn đề sinh đạo đức
Tản mạn về SARS
Tỉ lệ tử vong do cúm heo là bao nhiêu ?
Tự trị, chất lượng và y đức thay vì cổ phần hóa bệnh viện công
Ung thư vú và vấn đề thông tin y khoa
Uống bia hấp dẫn muỗi
Vaccine phòng chống AIDS hiệu quả đến đâu ?
Vaccine phòng chống cúm A/H1N1
Vi khuẩn gây tiêu chảy và ý nghĩa tiêm chủng
Vi khuẩn tả trong chó ?
Viết văn có thể chữa nhiều loại bệnh
Viết văn và trị liệu
Việc ta, ta cứ làm!
Vài nhận xét về 12 điều lệ y đức của Việt Nam
Vài thông tin cần biết về các chương trình truy tìm ung thư vú
Vài đóng góp quan trọng của người Việt khoa học thống kê
Văn hóa khoa học
Văn hóa tranh luận và vấn đề ngụy biện
Vấn đề sinh tố: kẽm và đồng
Vấn đề truy tìm ung thư phổi và hiệu quả 
Vấn đề y đức trong nghiên cứu tế bào mầm (stem cells)
Vấn đề đo lường melamine
Vấn đề đào tạo tiến sĩ: kinh nghiệm từ Australia
Vắc-xin phòng chống ung thư cổ tử cung
Vắcxin ngừa viêm gan B: cẩn thận với “nhiễu thông tin”
Vắcxin ngừa viêm gan B: kinh nghiệm từ nước ngoài
Vắcxin phòng bệnh sởi - quai bị - Rubella: lợi và hại
Vắcxin phòng chống ung thư cổ tử cung: hiệu quả lâm sàng và kinh tế
Vắcxin phòng ngừa bệnh tả: rất cần thiết
Về chấn chỉnh đào tạo tiến sĩ: Công bố bài báo khoa học là một thách thức lớn ?
Về học vị tiến sĩ
Về một sự hiểu lầm thuật ngữ "prospective"
Về phản ứng phụ của bisphosphonates liên quan đến hoại tử xương hàm và rung nhĩ
Vệ sinh như là một loại hàng hóa
Vị thế của nền khoa học Việt Nam
Xung quang xì căng đan về nghiên cứu tế bào mầm
Xã hội hóa và an toàn thực phẩm
Xếp hạng đại học: cần minh bạch hóa phương pháp
Y học hiện đại và những hứa hẹn
Y học thực chứng: vài nét khái quát
Y Khoa và những nhầm lẫn chết người
Y tế dự phòng: nền tảng của y khoa hiện đại
Y đức và nghiên cứu y học
Ói mửa, cao huyết áp và hôn mê
Ăn chay như là một trị liệu
Ăn chay và loãng xương
Điều trị bệnh dựa vào màu da ?
Điều trị đau dây thần kinh tọa bằng phẫu thuật: không có hiệu quả
Đo lường hiệu suất khoa học
Đánh giá đúng tầm quan trọng của ung thư vú 
Đại dịch H1N1
Đại dịch và đại dịch ảo
Đại dịch đã đến ?
Đạo văn trong hoạt động khoa học
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đằng sau những con số hàm lượng đạm trong sữa
Đế quốc Trà
Đề bạt các chức danh khoa bảng: vài kinh nghiệm từ Úc
Đọc lại 12 điều y đức của Việt Nam
Đồi điều về sữa nhiễm melamine
Đừng quên melamine trong các thực phẩm khác!
Ước vọng 200 ?
“Kỹ năng mềm” cho nhà khoa học
“Sẽ” và “có thể”


Trang nhiều tác giả
Trang riêng của Lê Ngọc Dũng
Trang riêng của Lương Lễ Hoàng
Trang riêng của Nguyễn Bảo Trung
Trang riêng của Nguyễn Hoài Nam
Trang riêng của Nguyễn Hữu Đức
Trang riêng của Nguyễn Văn Tuấn
Trang riêng của Nguyễn Ý Đức
Trang riêng của Nguyễn Đình Nguyên
Trang riêng của Phan Xuân Trung
Trang riêng của Đỗ Hồng Ngọc
Trang riêng của Đỗ Minh Tuấn